Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh.
Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới chân núi Trâu (Trâu Sơn). Hùng Vương cầu cứu với Long Quân, Long Quân hóa thành Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc, quân nhà Ân đều thua chạy. Vua nhà Ân chết trận dưới chân núi, biến thành vua ở địa phủ, dân phải lập miếu thờ, bốn mùa đều phải hương khói. Lâu ngày miếu thành hoang phế. Có người nước ta tên là Thôi Lượng làm quan nhà Tần đến chức Ngự Sử Đại Phu, thường qua lại vùng này, thấy cảnh suy tàn, chạnh lòng thương cảm, bèn sửa sang lại đền miếu. Có thơ đề rằng (1):

Người xưa kể lại chuyện Ân vương
Tuần Thú năm nao đến bên đường
Núi biếc sông dài quanh miếu vắng
Hồn đi mồ để vết còn hương
Một phen thắng bại Ân đức hết
Vạn thế Uy linh ở Việt Thường
Trăm họ rồi đây dâng hương cúng
Phò trì vận nước vững không lường
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
Sau các tướng Nhâm Ngao, Triệu Đà đem quân xâm chiếm phương Nam, đóng quân ở núi này, sai tu sửa lại đền miếu, nghiêm cẩn phụng thờ. Ân Vương cảm cái đức của Lượng xưa, muốn đền ơn, bèn sai tiên nữ Ma Cô đi tìm Lượng. Khi ấy Lượng đã chết, chỉ có đứaq con là Thôi Vỹ hãu còn sống. Khoảng tiết Nguyên Tiêu tháng giêng, dân chúng tới thăm đền này, có người cúng một cặp bình pha lê, tiên nữ Ma Cô cầm lên tay ngắm nghía, lỡ rơi xuống đất đánh vỡ, bị người ta bắt phạt đền. Ma Cô mặc áo rách, mọi người không biết là tiên, nên đánh đập tàn nhẫn. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng thương, bèn cởi áo đền, Ma Cô được tha. Ma Cô hỏi Vỹ ở đâu, Vỹ kể lại lai lịch của cha. Ma Cô lúc ấy mới biết là con quan Thôi Ngự sử, mừng rỡ nói với Vỹ rằng: “Nay tôi không có gì báo đáp, sau này tất sẽ tạ ơn”. Rồi đưa cho Vỹ một bó lá ngải mà nói: “Giữ cẩn thận vật này, đừng để rời khỏi mình, sau này thấy ai có bướu , đem cứu cho lành, tất sẽ được phú quý”.
Vỹ nhận lấy, chưa biết đó là thuốc tiên. Ngày kia, đi đến nhà người bạn thân là đạo sĩ Ứng Huyền, Huyền có cái bướu trên đầu. Vỹ nói: “Tôi có bó lá ngải, có thể trị được bịnh này”. Huyền nhờ chữa cho. Vỹ bèn dùng lá ngải ra dùng, bướu lập tức tiêu tan, Huyền nói: “Đây là thuốc tiên, ta nay không có vật gì báo đáp, xin lấy ơn khác đền lại. Ta quen một vị quí nhân cũng mắc bệnh này, thường nói rằng ai chữa được thì sẽ chia cho hết cả gia tài mà không tiếc, ông hãy tới đó chữa”.
Huyền đưa Vỹ tới nhà Nhâm Ngao chữa bệnh, bướu liền tiêu tan. Ngao cả mừng, nuôi Vỹ làm con nuôi, mở trường cho Vỹ học. Vỹ là người thông minh, thích gảy đàn. Con gái Ngao là Phương Dung thấy Vỹ thì phải lòng, bèn cùng tư thông. Con trai Ngao là Nhâm Phu biết chuyện, muốn giết Vỹ, đem Vỹ tế thần Xương Cuồng, bèn dỗ rằng: “Cuối năm phải lễ thần Xương Cuồng mà chưa có người làm đồ lễ cúng. Hôm nay không nên đi ra ngoài, nên ẩn vào phòng để tránh”. Vỹ vô tình nghe theo, Nhâm Phu bèn khóa cửa buồng. Phương Dung biết ý, ngầm lấy dao đưa cho Vỹ, Vỹ đào ngạch mà ra. Ban đêm, Vỹ lẻn đi, muốn tới nương tựa nhà Ứng Huyền.
Đi gấp lên trên núi, Vỹ lỡ chân rơi xuống hang sâu, chung quanh đều là vách đá, không có bậc lên. Ở trên có một hòn đá, thạch nhũ rủ xuống bàn đá, có một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào vàng, miệng đỏ, râu đỏ, vảy trắng, dưới cổ có cái bướu, trên trán có dòng chữ vàng đề “Ngọc Kinh Tử Xà”. Rắn ra ăn thạch nhũ, để lại bàn đá trống không, thấy Vỹ ở trong hang thì định nuốt. Vỹ kinh sợ, sụp lạy mà nói: “Tôi đi tránh nạn, rơi xuống dưới hang này, không có gì ăn, đói dạ nên phải ăn vụng, thực là đắc tội. Nay thấy dưới cổ ngài có cái bướu thịt, tôi có lá ngải để trị bệnh này, xin khoan tha cho tôi để tôi thi thố tài mọn”. Rắn ngẩng đầu xin cứu. Bỗng thấy ánh lửa sáng, một mảnh than rơi xuống hang. Vỹ lấy lửa mà cứu, bướu lập tức tiêu tan. Rắn quẫy mình tới trước mặt Vỹ như có ý bảo Vỹ cưỡi lên lưng. Vỹ cưỡi lên, rắn bèn tức thì đưa Vỹ ra khỏi hang. Đúng canh một thì lên tới cửa hang, nhìn không thấy ai qua lại, rắn bèn vẫy đuôi bảo Vỹ xuống, sau đó rắn lại trở vào trong hang.
Vỹ đi lạc đường, chợt thấy trước mặt có một cửa thành, trên cổng thành có lầu cao lợp ngói đỏ lộng lẫy, ánh sáng mờ mờ chiếu tỏa. Trên cổng treo biển đỏ viết chữ vàng “Ân Vưong Thành” (Thành vua nhà Ân). Vỹ ngồi bên cạnh cổng, không thấy có người qua lại. Vỹ bước vào trong thành, nhìn thấy trong sân có ao, giữa ao có sen ngũ sắc, cạnh ao có mấy hàng cây hòe, cây liễu. Đường sá phẳng lỳ, điện ngọc cung châu, lầu cao gác rộng. Trên điện kê đôi giường bằng vàng, trải chiếu hoa bằng bạc, có hai cây đàn cầm, đàn sắt. Vỹ từ từ đi đến, thử đánh vào đàn. Hồi lâu, thấy kim đồng ngọc nữ, hàng trăm người theo hầu hoàng hậu vua Ân, mở cửa mà ra. Vỹ cả kinh, xuống điện quỳ lạy. Ân hậu cười phán rằng: “Thôi quan nhân ở đâu tới đây?”. Rồi lại mời lên điện nói: “Xưa kia điện Ân Vương hoang phế lâu ngày, nhờ có Thôi ngự sử sửa chữa, người đời mới theo gương mà cúng thờ mãi mãi. Vua đã sai tiên nữ Ma Cô đi tìm để báo ơn, không gặp ngự sử mà chỉ gặp công tử. Vẫn chưa có gì báo đáp, nay may được trông thấy mặt công tử, nhưng hiềm vì Thượng đế có sắc gọi cho nên Vua lên chầu trời, chỉ có Ma Cô ở nhà”. Bèn ban tiệc rượu, cho ăn uống no say. Bỗng thấy có một người râu dài, bụng to tiến lên dâng biểu, quỳ xuống mà tâu rằng: “Ngày mồng 3 tháng giêng, người phương Bắc là Nhâm Ngao đã bị thần Xương Cuồng đánh chết”. Tâu xong, Hậu bèn nói: “Dương quan nhân hãy đưa Thôi công tử trở về trần thế”. Ân hậu tiễn khách quay vào. Dương quan nhân bèn bảo Vỹ nhắm mắt, ngồi lên vai mình. Hơn một khắc sau đã đến tới đỉnh núi. Dương quan nhân biến thành một con dê đá đứng ở trong núi, nay con dê ấy còn ở sau chùa Việt Vương (Việt Vương từ) trên núi Trâu (Trâu sơn).
Vỹ trở về nhà Ứng Huyền, kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đêm mồng 1 tháng 8, Vỹ và Huyền cùng đi dạo bên ngoài, thấy tiên nữ Ma Cô dắt một người con gái tới ban cho Vỹ để kết làm vợ chồng, lại cho cả viên ngọc Long Tụy. Vốn xưa, ngọc đó có hai viên thư, hùng (nam, nữ), suốt từ đời vua Hoàng Đế tới triều nhà Ân vẫn được lưu truyền là vật quí ở đời. Trong trận đánh ở núi Trâu, vua Ân đeo ngọc đó mà chết, ngọc bị vùi xuống đất mà hào quang của nó vẫn chiếu tỏa đến tận trời. Thời binh lửa đời Tần, báu ngọc đều cháy hết, người ta xem linh khí mà biết rằng viên ngọc quí Long Tụy vẫn còn ở nước Nam, mới từ xa tới tìm. Đến nay Vua Ân lấy ngọc quý này báo đáp ơn Vỹ. Người thời ấy đem vàng bạc lụa là, đáng giá trăm mươi ngàn quan tiền tới mua, Vỹ do đó giàu to.
Sau, tiên nữ Ma Cô tới đón vợ chồng Vỹ đi đâu không biết. Nay giếng đã cạn, hoang phế thành cái huyệt, còn giấu tích ở núi Trâu. Tục gọi là là Việt Tỉnh Cương (sườn núi giếng Việt).
Chú thích: 1. Bài thơ chữ Hán như sau:
Cổ nhân truyền đạo thị Ân vương
Tuần thú đương niên đáo thử phương
Sơn tú thủy lưu không kiến miếu
Tinh thăng tích tại thượng văn hương
Nhất triều thắng bại vô Ân đức
Vạn tải Uy Linh trấn Việt Thường
Bách tính tùng tư giai phụng tự
Mặc phù quốc tộ vĩnh vô cương
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
.
Bình:

• Bài này nói về đạo sống nhân hậu lễ nghĩa của người Việt. Người Việt chính trong này là Thôi Lượng và sau đó là con Thôi Vỹ. “Lượng” là thành thật, trung tín, tha thứ. “Vỹ” là đuôi, tức là ý nói nối tiếp–con nối tiếp lòng thành thật, trung tín, tha thứ của cha.
• Chết là xóa hết ân oán. Vua Ân khi còn sống là kẻ thù của người Việt, khi chết được người Việt lễ bái như thần và ngược lại cũng giúp đỡ dân Việt. “Nhất triều thắng bại vô ân đức – Một phen thắng bại ân đức hết”. Ân đức ở đây nên hiểu rộng là ân oán, chết là hết ân oán.
Và vì vua Ân là vua nên, theo lẽ thường, là người có nhiều đức trọng, chết thành thần linh hiển, nên người sống thành tâm thờ thần là chuyện phải làm. Thù oán chính trị khi còn sống không còn nghĩa lý gì hết. Người chết vào một thế giới mới với suy nghĩ tâm tư mới hoàn toàn, và người sống cần cư xử với người chết với tâm tư mới tương ứng.
• Vỹ có lòng rộng lượng và lễ nghĩa và với vua Ân, cựu thù khi nhà vua còn sống. Và Vỹ nhân hậu với Ma Cô, rách rưới nghèo nàn cơ khổ. Rộng lượng với kẻ thù đã chết, trên thì kính trọng thần thánh, dưới thì nhân hậu với kẻ khốn cùng. Đó là đạo sống. Và đạo sống này sẽ mang đến nhiều may mắn thành công trong đời.
• Phần thưởng đầu tiên Vỹ được là bó lá ngải chữa bệnh bướu của Ma Cô. Bệnh bướu đầu và bướu cổ là biểu tượng của chất độc từ trong tâm người tụ lại—như là ba độc tham sân si trong kinh Phật. Người có lòng rộng lượng với người chết, kính trọng thần thánh, nhân hậu với kẻ khốn cùng, sẽ tự nhiên có ảnh hưởng tốt đến những người có tâm tham sân si nặng. Đức hạnh tự nhiên từ người thiện tỏa ra sẽ ảnh hưởng tốt đến người xấu và có thể làm tâm họ trở thành sáng suốt lành mạnh.
• Sức mạnh chuyển hóa của người có thiện tâm đi từ gần tới xa—trước hết là bè bạn, như Ứng Huyền, sau đó là kẻ thù từ nước ngoài, như Nhâm Ngao. Và ngay cả khi trong vòng kẻ thù có người muốn hại người thiện–như Nhâm Phu—thì vẫn có người bảo vệ–như Phương Dung.
• Người thiện, như Vỹ, khi sa cơ thất thế, như Vỹ rơi xuống giếng sâu, cũng có thể đổi xấu thành lành, có thể làm lành tâm ác của những người đại ác—biểu tượng bằng rắn chúa: Mào vàng là biểu tượng của vua, miệng đỏ râu đỏ là biểu tượng của quyền lực—và người thiện sẽ được cả những kẻ đại ác giúp đỡ.
Dùng than đỏ mà chữa bệnh bướu cho rắn thần, tức là dùng ánh sáng của thiện tâm mà cải hóa lòng ác.
• Ngược lại người có tâm ác muốn hại người thiện—như Nhâm Phu muốn hại Thôi Vỹ–thì người thiện không những không hề hấn gì mà người ác lại trả giá, như Nhâm Phu rốt cuộc làm cha (Nhâm Ngao) bị Thần Xương Cuồng đánh chết.
• Việc Dê thần Dương quan nhân (dương là dê) cho Vỹ ngồi lên vai để đưa về trần thế có vẻ như là nói đến chiếc xe dê trong Phẩm Thí Dụ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là biểu tượng của Phật Giáo Tiểu Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada).
• Ngay cả việc vợ chồng và giàu sang cũng là phần thưởng đến từ thiện tâm của mình–biểu tượng bằng việc Ma Cô đem giai nhân và ngọc Long Tụy đến tặng Vỹ.
• Tóm lại là thiện tâm của con người—rộng lượng, lễ nghĩa, nhân hậu—là chủ cho đời sống của ta. Thiện tâm giúp ta cải hóa mọi người—từ người thân, đến kẻ thù, từ người thường đến người xấu—mang lại may mắn, cứu ta khi sa cơ thất thế, mang lại hanh phúc gia đình và giàu sang vật chất.
(Trần Đình Hoành bình)