Thứ ba, 26 tháng 5 năm 2009

Bài hôm nay:

Dionne Warwick & Friends và That’s What Friends Are For , Văn hóa, Video, Nhạc Xanh, chị Huỳnh Huệ giới thiệu và nối links.

Daily English challenge, anh Trần Đình Hoành.

Hành động, Bổn phận, và Niềm vui , Danh Ngôn, song ngữ, chị Đặng Nguyễn Đông Vy dịch.

Đừng lo, Danh Ngôn, song ngữ, chị Phạm Kiêm Yến dịch.

Những chàng trai “quên” lớn lên, Trà Đàm, cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh.

Tri ân , Trà Đàm, song ngữ, chị Huỳnh Huệ dịch.

Nói chuyện trước đám đông (Public speaking), Trà Đàm, anh Trần Đình Hoành.
.

Tin sáng quốc tế, anh Trần Đình Hoành tóm tắt và nối links.

200 hải tặc ở Somalia tuyên bố “từ bỏ cướp biển”

Tổng thống Iran, Ahmadinejad, ngỏ ý với Obama – Ahmadinejad tuyên bố là nếu tái đắc cử tổng thống tháng tới, ông muốn có dịp nói chuyện với Obama tận mặt.
.

Tin sáng quốc nội, chị Thùy Dương tóm tắt và nối links.

Festival cồng chiêng quốc tế sẽ được tổ chức tại Gia Lai – Nội dung của Festival cồng chiêng quốc tế lần thứ nhất hướng tới những cam kết của Chính phủ trong chương trình hành động mà VN đã đăng ký với UNESCO khi đệ trình hồ sơ công nhận danh hiệu cho không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Nguồn sáng cho người nghèo – Những thợ trẻ của Đoàn Điện lực thành phố cải tạo hệ thống điện hộ gia đình nghèo ở quận 8.

Cô bé tật nguyền với “Ước mơ đôi chân thiên thần” – Khao khát được đi trên đôi chân của mình, được nói ra những điều mình nghĩ đã thôi thúc em viết. Giờ đây, Trà Mi đang hồi hộp chờ đợi lần ra mắt tập truyện ngắn đầu tay của mình có tên “Ước mơ đôi chân thiên thần”.

Toàn bộ luận án tiến sĩ sẽ online – Bộ GD-ĐT sẽ làm việc với Thư viện quốc gia để đưa toàn bộ luận án tiến sĩ trên mạng vừa để tham khảo, vừa để công khai.

Đi bộ “Đồng hành vì môi trường và làm từ thiện” – Sáng 24.5, tại Hà Nội, Nha Trang và TP.HCM.

Chung tay vì cộng đồng – Hưởng ứng ngày Quốc tế những người tình nguyện hiến máu (14.6), Công ty ô tô Trường Hải (Thaco) phát động phong trào chương trình “Thaco-chung tay vì cộng đồng”, kêu gọi cán bộ công nhân hiến máu nhân đạo.

Tặng bàn ghế cho Thư viện một điều ước – Bưu điện tỉnh Ninh Thuận đã đến thăm và trao tặng cho thư viện 1 bộ bàn ghế đọc sách và trên 200 đầu sách, báo cũ do đoàn viên, thanh niên trong ngành đóng góp. Ngoài ra, nhiều bạn đọc trong nước đã gửi tặng sách, báo, truyện tranh cũ…

Phần mềm cho người yêu hóa học – Tại website http://www.phanmemhoahoc.com, bạn sẽ được phép tải miễn phí phần mềm hóa học 2A Chemistry, chương trình 100% Việt Nam, của tác giả Lê Thanh Nhàn, An Giang, và phần mềm trắc nghiệm hóa học 2009 của 2 tác giả Lê Minh Mẫn và Lê Minh Duy (Bình Thuận).
.

Bài hôm trước >>>

Chúc các bạn một ngày tươi hồng !

🙂 🙂 🙂 🙂 🙂

Đọt Chuối Non

Dionne Warwick & Friends và That’s What Friends Are For

that'swhatfriendsarefor
Nhạc Xanh xin mời các bạn thưởng thức hai bản nhạc. Bài hát thứ nhất “That’s What Friends Are For” và bài thứ hai :”I Just Called to Say I Love You.”

Bài hát “That’s What Friends Are For” do Burt Bacharach và Carole Bayer Sager viết; Rob Stewart đã hát như bài hát chủ đề kết thúc bộ phim hài Night Shift vào năm 1982. Ba năm sau bài hát trở thành nổi tiếng khi được Dionne Warwick và những người bạn gồm Stevie Wonder, Gladys Knight, và Elton John trình bày lại để gây quỹ từ thiện ở Anh và Mỹ.

“That’s What Friends Are For” được thu âm để lấy tiền quyên góp cho Tổ Chức Nghiên Cứu Bệnh AIDS ở Mỹ ( American Foundation for AIDs Research) và thu được hơn 3 triệu đô la cho mục đích này. Bản nhạc này đứng ở vị trí số 1 suốt 4 tuần tháng 1/ 1986 trong bảng xếp hạng Billboard, và được Billboard chọn là đĩa đơn hay nhất của năm 1986. Sau đó nhóm nghệ sĩ này đoạt được giải Grammy dành cho “Nhóm Trình Diễn Nhạc Pop Hay Nhất “ và đoạt giài “ Bài Hát Của Năm “ vào năm 1986.

Bài hát này sau đó còn trở thành chủ đề cho một đêm nhạc từ thiện lớn lấy tên của bài hát tại thành phố New York nhằm quyên góp cho nạn nhân AIDS. Một tháng sau đêm nhạc được phát trên kênh truyền hình CBS với “That’s What Friends Are For” là bài hát kết thúc chương trình nhạc 2 giờ có sự tham gia của Warwick và tất cả nghệ sĩ khách mời danh tiếng. Đêm nhạc đã thu thêm được hơn 2,5 triệu đô la nữa cho các hoạt động cứu trợ nạn nhân AIDS.

“That’s What Friends Are For” được xếp hạng 51 trong danh sách Billboard cho Những Bản Nhạc Hay Nhất của Mọi Thời Đại.

Xin giới thiệu với các bạn đôi nét về 2 tài năng đã hát bài này : nữ danh ca Dionne Warwick và ca sĩ huyền thoại Stevie Wonder.

Dionne_That's_What_Friends_are_for_group_shot

Dionne Warwick sinh ngày 12/12 / 1940, tại East Orange, New Jersey, Mỹ. Bà là ca sĩ, diễn viên, nhà hoạt động phong trào rất nổi tiếng. Bà là Đại sứ Toàn cầu của Liên Hiệp Quốc cho Tổ Chức Lương Nông ( Food and Agriculture Organization), từng là Đại Sứ của Mỹ về Y tế và Nhân đạo. Theo tạp chí Billboard, Dionne Warwick là một tài năng âm nhạc, xếp thứ hai trong danh sách Billboard Hot 100 ( chỉ sau Aretha Franklin ) với 56 CD đạt đỉnh cao trong tổng số 100 của kỹ nguyên nhạc rock 1955-1999. Warwick cũng được xếp thứ 20 trong tổng số 200 ca sĩ hát nhạc Pop nổi tiếng được hâm mộ nhất.

Warwick bắt đầu hát solo từ năm lên 6 trong hát lễ nhà thờ, sau đó trong ban nhạc Drinkard Singers, và trong ban nhạc gia đình với người cô, em gái, và em trai của bà. Bà ra mắt lần đầu trên TV vào cuối thập niên 1950 ở đài truyền hình New Jersey và New York. Tốt nghiệp trung học East Orange năm 1959, bà được trao một học bổng đại học về âm nhạc ở Hatford, Connecticut, cũng tại trường đại học này bà được cấp bằng Tiến sĩ về Giáo dục Âm nhạc.

dionne-warwick

Bài thứ hai là bài hát được trao giải Oscar 1984. Bài hát Hay Nhất trong phim The Woman In Red với giọng ca huyền thoại của ca sĩ khiếm thị người Mỹ gốc Phi Steve Wonder.

Steve Wonder tên khai sinh là Steveland Hardaway Judkins, sinh ngày 13/5/ 1950, tại Saginaw, Michigan. Về sau ông đổi tên là Steveland Hardaway Morris. Ông viết nhạc, biểu diễn nhiều loại nhạc cụ, nhà sản xuất các chương trình ghi âm, và là một tài năng xuất chúng về nhạc pop trong nửa cuối thế kỷ 20.

Wonder có hơn 20 đĩa xếp hạng top 10 của Mỹ, đoạt 26 giải Grammy, ( là nghệ sĩ hát solo đoạt nhiều giải nhất trong lịch sử của giải này ), với 1 giải Thành Tựu Trọn Đời, Giải cho Bài Hát Hay Nhất, và được vinh danh trong Bảo tàng Âm Nhạc với dòng nhạc Rock and Roll và với tư cách nhạc sĩ. Một điều đặc biệt về Stevie Wonder là ông bị mù bẩm sinh, đến năm 11 tuổi bắt đầu hát nhạc ở góc phố rồi ký hợp đồng với Motortown Record, và tiếp tục biểu diễn và thu âm cho hãng này. Năm 12 tuổi, cậu bé Steveland Morris đã gây ấn tượng mạnh trong lòng khán giả khi xuất hiện trong chương trình American Bandstand.

Tuy bị khiếm thị, nhưng người nghệ sĩ tài hoa này đã tự học và có thể biểu diễn điêu luyện nhiều loại nhạc cụ như piano, harmonica, trống, guitar bass, đàn organ, trống nhỏ vỗ bằng tay, đàn clavinet, vv… Khi còn thơ ấu, Stevie Wonder nổi tiếng về tài chơi harmonica, nhưng sau này ông lừng danh với tài chơi piano và với giọng ca vàng được mệnh danh là huyền thoại nhạc pop của Mỹ.
stevie_wonder

Nhiều bài hát của Stevie Wonder trở thành top hit như “I Just Called to Say I Love You” đã đoạt giải Oscar 1984 cho bài hát hay nhất trong phim The Woman in Red. Từ bài hát Blowin’ in the Wind của Bob Dylan được ông trình bày lại, hay các sáng tác của chính mình như You Are the Sunshine of My Life, My Cherie Amour, Signed, Superstition, Higher Ground, L:iving For The City, Sesame Street, hay các bản ballad như Golden Lady và All In Love Is Fair đều giản dị nhưng rất được ưa chuộng và thành top hits. Album Innervisions năm 1973 của ông đạt được 3 giải Grammy, và thành album của năm.

Với 10 bản nhạc pop xếp hạng 1 và 20 bài R & B hạng 1 ( Rhythm and Blues), với tổng số album bán được trên 100 triệu bản, Stevie Wonder được xếp hạng như nghệ sĩ da màu thứ hai đoạt giải Oscar về Bài Hát Hay Nhất, và ở vị trí 11 trên tổng số nhạc sĩ lừng danh trên bảng tổng sắp của Anh (britishhitsongwriters.com).

Vốn là một nghệ sĩ rất được Obama yêu thích, Wonder đã biểu diễn vào ngày 18/1/ 2009 trong lễ nhậm chức của Tổng thống Barack Obama tại đài tưởng niệm Abraham Lincoln. Ông đã hát 2 bài, “Brand New Day, và bài hát mới “All About The Love Again,” và cùng các ca sĩ khác bài Signed, Sealed, and Delivered .

stevie_wonder_gal_obama

Gần đây nhất, ngày 23/2/ 2009, Stevie Wonder được trao giải thưởng Gershwin Prize của Thư viện Quốc hội Mỹ ( người thứ hai được trao giải này ) vì những bài hát của ông rất được hâm mộ trong lòng những người yêu nhạc toàn thế giới. Giải thưởng này nhằm vinh danh những nghệ sĩ có tác phẩm vượt biên giới âm nhạc để tạo nên sự hiểu biết giữa con người với nhau.

Bài 1 That’s What Friends Are For

Link1 : Dionne Warwick, Stevie Wonder, Luther Vandross & Whitney Houston
.


.

Link 2 : Stevie Wonder & Dionne Warwick
.

Verse 1

And I
Never thought I’d feel this way
And as far as I’m concerned I’m glad I got the chance to say
That I do believe I love you

And if I should ever go away
Well then close your eyes and try to feel the way we do today
And than if you can’t remember…..

Chorus
Keep smilin’
Keep shinin’

Knowin’ you can always count on me
for sure
that’s what friends are for

In good times
And bad times
I’ll be on your side forever more
That’s what friends are for

Verse 2

Well you came and open me
And now there’s so much more I see
And so by the way I thank you….

Ohhh and then
For the times when we’re apart
Well just close your eyes and know
These words are coming from my heart
And then if you can’t remember….Ohhhhh
(Repeat chorus 3x)

Bài 2 I Just Called To Say I Love You ( Stevie Wonder )
.


.

No new year’s day
To celebrate
No chocolate covered candy hearts to give away
No first of spring
No song to sing
In fact here’s just another ordinary day
No April rain
No flowers bloom
No wedding Saturday within the month of June
But what it is
Is something true
Made up of these three words that I must say to you

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart

No summer’s high
No warm July
No harvest moon to light one tender August night
No autumn breeze
No falling leaves
No even time for birds to fly to southern skies
No Libra sun
No Halloween
No giving thanks to all the Christmas joy you bring
But what it is
Though old so new
To fill your heart like no three words could ever do.

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart.

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart
Of my heart
Of my heart

Các bạn có thể tùy ý post lời dịch cho bài nào trong hai bài trên đều xin hoan nghênh và tán thưởng
Thân ái chúc các bạn một ngày mới tươi hồng và một tuần làm việc vui hiệu quả

Daily English Challenge — Tuesday, May 26, 2009

englishchallenge
Hi everyone,

Thanks for the good responses. All the translations are good. I will use Hoang Tuan Hung’s translation for demonstration purposes because it uses Vietnamese Buddhist terminology (which is good to familiarize yourselves with Buddhism). Yen’s translation is a little easier to follow, if you need to study. And, My Nga, I hope all your questions have been solved just by reading. If not, please ask me.

Here is Hung’s translation with boldfaced corrections:

Tứ diệu đế là bốn chân lý căn bản về cuộc đời: khổ, nguyên nhân đau khổ, giải thoát đau khổ và con đường đến sự giải thoát. Theo Kinh Chuyển Pháp Luân, Tứ diệu đế là kinh đầu tiên Đức Phật giảng [cho đệ tử của Ngài] sau khi Ngài ngộ đạo.

1: Khổ: Đời có khổ. Ta thông thường chia thành khổ về thể xác (thân khổ) và khổ tinh thần (tâm khổ) .(a) khổ về thể xác bao gồm: sinh, lão, bệnh, tử. (b) Khổ tinh thần có mất cái mình thích, phải chịu cái mình không muốn, và cầu không được. Tuy nhiên, có một điều khổ bao trùm lên tất thảy nỗi khổ khác: đó là “chấp ngã” (chấp vào “cái tôi”) như là một cái tôi vĩnh cửu. Tất cả chúng ta có thể thấy một người sống như thể người đó chẳng bao giờ chết thì sẽ đau khổ thế nào.

Rốt cuộc thì Khổ là một hiện tượng tinh thần. Ngay cả khi chịu tác động bên ngoài như là ta chịu một cái tát mạnh, ta khổ hay không chỉ là do tâm ta nghĩ thế nào. Nếu má ta rát bỏng nhưng tâm ta hoan hỉ thì ta đâu có khổ? Vậy Phật dạy ta thoát khổ bằng cách tu tâm, nghĩa là luôn giữ cho tâm tĩnh. Tâm là khởi nguồn và cũng là kết thúc.

.

“Life contains suffering” (Đời có khổ) is an intentional use of language. It should not be translated as “đời là bể khổ” (life is a sea of suffering).

“permanent everlasting self”: I’m not sure if anyone understands trường miên. Let’s use “vĩnh cửu”; most people understand this word.

For My Nga: When someone lives like he never dies, he lives in a very reckless way. And when you are reckless, eventually you will have all kinds of physical, mental and emotional problems.

The mind is the beginning and the end: Probably it would sound better if translated as “Tâm là đầu tiên và cuối cùng.”

Note: Four Noble Truths can be remembered in four words: Khổ tập diệt đạo.
.

TODAY’S CHALLENGE

For today, we will have 2 challenges. We will have an English writing subject. And we will continue to finish the Four Noble Truths.

First challenge: This is a message from your friend in the US: “I’ve heard that the lunar New Year day in Vietnam is a big celebration. Can you tell me about it?”

(This challenge is for everyone at every level. Write whatever way you feel comfortable with).
.

Second challenge: Please translate the following text into Vietnamese.

If you use Buddhist terminology, please put your explanation (in parentheses like this). Thanks a million.
.

2. Causes of suffering: Craving causes suffering.

3. Extinction of Suffering: Because craving is the cause of suffering, to stop suffering we need “to stop, to denounce, to leave, to cut away craving.”

4. The Path to Extinction of Suffering

This path has eight lanes and is called The Noble Eightfold Path.

1. Right view: The understanding of the Four Noble Truths, non-permanence, non-self, and nirvana.

2. Right thought: Thoughts about stopping craving, about no anger and no violence, about no harmful activities.

3. Right speech: No lying, no divisive speech, no abusive speech, no idle chatters.

4. Right action: No killing, no stealing, no wrongful sexual conduct.

5. Right livelihood: No engaging in trade or profession that, either directly or indirectly, results in harm to other living beings.

6. Right effort: Try to prevent wrongful thoughts and actions from arising; if they have already arisen, try to stop them. Try to bring up good thoughts and actions; if they have already come, try to continue them.

7. Right mindfulness: Observing our body, our feelings, our thoughts and dharmas (allthings, all teachings) to conquer all cravings and distress.

8. Right concentration: This is about the practice of meditation.

Have a wonderful day, everyone.

Hoanh

Những chàng trai “quên” lớn lên

saysua
Câu chuyện về những người chồng “luôn xin phép mẹ” của bạn Vy Thanh không phải là không phổ biến do bối cảnh đặc biệt của xã hội VN.

Tính “con nít” (lời của Vy Thanh) không chỉ biểu hiện qua chuyện gì cũng xin phép mẹ mà còn qua sự thiếu tinh thần trách nhiệm với vợ con, suốt ngày nhậu nhẹt, đàn đúm với bạn bè. Một hiện tượng rất thường được báo chí nêu lên và dạo nọ trên Báo Phụ Nữ có một diễn đàn thật sôi nổi về tính “vô tư” của các ông chồng.

Bên này trách bên kia nhưng theo tôi lỗi là ở phụ nữ, là những người mẹ. Dù phản đối câu nói chung “con hư tại mẹ” nhưng tôi lại chủ trương “con trai hư tại mẹ”.

Có một nghịch lý trong vai trò và vị trí của người phụ nữ VN. Một đàng là tư tưởng chồng chúa vợ tôi vẫn còn phảng phất, nhất là khi biểu hiện ra bên ngoài, nhưng đàng khác nhiều khách nước ngoài nhận xét là người phụ nữ VN rất mạnh.

Trước giải phóng tôi có tiếp một nhà hoạt động xã hội người Áo. Tôi đưa ông đi xem những cơ sở hoạt động xã hội. Ông tấm tắc khen phụ nữ VN rất giỏi và rất mạnh. Một bác sĩ tâm thần người Bỉ làm việc lâu năm ở VN và một nhà dân tộc học người Pháp mà tôi quen cũng có nhận định tương tự. Ngày nay chỉ nhìn vào đội ngũ nữ doanh nhân chúng ta cũng có thể đồng ý với điều này.

Vì sao họ mạnh? Các nhà khoa học vừa kể cho rằng có lẽ người đàn ông bên ngoài là “chúa” nhưng trong gia đình thì yếu vì ít biết lo toan. Còn phái yếu lại “mạnh” vì phải âm thầm gánh lấy trách nhiệm dù bề ngoài luôn phải giữ lễ nghĩa phong kiến. Họ mạnh cả với con và có xu hướng đùm bọc quá đáng. Một nghịch lý là họ chưa thoát khỏi tư tưởng trọng nam khinh nữ nên rất cưng đứa con trai.

Thường bé trai trong nhà chỉ biết học, ăn rồi chơi.Còn bé gái thì nhận trách nhiệm trong gia đình khá sớm. Đã vậy còn được giáo dục theo tinh thần chịu đựng, hi sinh. Đứa con trai do đó kéo dài tâm lý “con nít” nếu không được giáo dục tính tự lập. Rồi có các bà “mẹ kăngguru” úm con trong túi hoài không cho nó thoát ra.

Con gái thì đi lấy chồng, còn con trai thì dễ có nguy cơ bị úm lâu dài hay vĩnh viễn như trường hợp của bài báo. Tâm lý “sở hữu” càng mạnh nơi các bà mẹ đơn thân nuôi con (trai) một.

Còn một điều nữa mà các nhà xã hội học rất quan tâm đến là “ranh giới” trong gia đình để bảo đảm mối quan hệ hài hòa cũng như hạnh phúc cá nhân và lứa đôi… Đại gia đình không thể can thiệp quá sâu vào gia đình hạt nhân. Cha mẹ phải bảo đảm sự tự do và tự lập đúng lúc và chính đáng của con cái. Vì giáo dục gia đình là giúp con lớn lên để sống độc lập. Điều này gia đình VN dường như chưa quan tâm đủ.

Những điều tôi vừa nêu là những ý tưởng ban đầu mang tính giả thiết. Rất cần những cuộc nghiên cứu thật nghiêm túc để có một chính sách giáo dục gia đình thật đúng đắn. Trước mắt các bạn gái trẻ khi tìm hiểu bạn trai nên quan tâm đến mối quan hệ của anh ta với mẹ.

Bản thân bạn gái nên ý thức về tâm lý trọng nam khinh nữ còn phảng phất và xu hướng “kăngguru” tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, để con cái trưởng thành đúng lúc. Còn các bạn trai đừng để mình “bị” cưng chiều như em bé.

Khi mẹ có xu hướng “úm” quá mạnh thì mặc dù hết sức yêu mẹ cũng nên cố gắng tự khẳng định mình và nhẹ nhàng từng bước thoát ra khỏi vòng dây. Bởi lẽ nếu rơi vào tình trạng “con nít” hay như phương Tây hay nói “chưa cắt dây rốn” thì bạn khó tạo hạnh phúc cho gia đình hạt nhân của bạn.

NGUYỄN THỊ OANH

Nguồn: Tuổi Trẻ

Tri ân

thankgod
Hãy biết ơn khi bạn chưa có mọi điều ước muốn
Nếu đã có đủ rồi, còn chi để ngóng trông

Hãy biết ơn khi có điều chi không biết
vì bạn còn cơ hội để học thêm

Hãy biết ơn về những thời gian khó
Nhờ những lúc ấy bạn mới lớn khôn

Hãy biết ơn về những thiếu sót của mình
vì chúng cho bạn cơ hội sửa đổi

Hãy biết ơn với từng thách thức mới
Bởi mỗi thách thức ấy sẽ giúp bạn
tạo thành sức mạnh và tính cách

Hãy biết ơn với lầm lỗi của mình
Những sai lầm ấy sẽ dạy bạn những bài học quý

Hãy biết ơn khi bạn mệt mỏi nản lòng
Bởi vì điều đó có nghĩa là bạn đã tạo một điều khác biệt

Thực dễ dàng biết ơn về những điều tốt đẹp
Một cuộc đời nhiều thành tựu sẽ đến với những ai
còn biết ơn những trở ngại

Lòng tri ân có thể biến tiêu cực thành tích cực
Hãy tìm cách để biết ơn những khó khăn,
và những khó khăn ấy có thể trở thành hồng phúc.

.

BE THANKFUL

Be thankful that you don’t already have everything you desire
If you did, what would there be to look forward to?

Be thankful when you don’t know something,
for it gives you the opportunity to learn.

Be thankful for the difficult times.
During those times you grow.

Be thankful for your limitations,
because they give you opportunities for improvement.

Be thankful for each new challenge,
Because it will build your strength and character.

Be thankful for your mistakes.
They will teach you valuable lessons.

Be thankful when you are tired and weary,
Because it means you’ve made a difference.

It’s easy to be thankful for the good things.
A life of rich fulfillment comes to those who
are also thankful for the setbacks.

Gratitude can turn a negative into a positive,
Find a way to be thankful for your troubles,
and they can become your blessings.

(ANONYMOUS)

Nói chuyện trước đám đông (Public speaking)

publicspeaking1
Chào các bạn,

Nói chuyện trước đám đông (public speaking) là một kỹ năng rất tốt để có. Nó có thể giúp ta rất nhiều trong những công việc liên hệ đến nhiều người, và trong một số công việc thì đó là kỹ năng cần thiết. Tuy nhiên, nếu ta chưa từng nói trước đám đông, thì cũng thực là khó, phải không các bạn? Hôm nay mình sẽ nói về kỹ năng này một tí, đặc biệt là cho các bạn chưa quen việc này.

Nếu bạn phải nói chuyện trước một đám người là run lẩy bẩy, và quên hết ngôn ngữ, nói không ra tiếng, thì cũng không sao. Đó chỉ là phản ứng tự nhiên thôi. Khi ta sợ, adrenaline bơm vào máu rất mạnh và sinh ra đủ loại phản ứng tâm sinh l‎y’, cũng như nhiều người thấy trộm vào nhà thì đơ lưỡi. Chỉ cần luyện tập một thời gian thì quen thôi.

Trước hết, hãy ghi nhớ một vài qui luật căn bản này nhé:

1. Càng quen thì càng dễ nói. Nếu mình biết và hiểu đa số khán giả, thì dễ hơn là nói với một nhóm khán giả lạ hoắc. Nếu mình quen thuộc với chỗ mình nói (hội trường, phòng họp, v.v…) thì càng dễ nói.

2. Càng nắm vững vấn đề thì càng dễ nói. Nếu mình đã làm khoảng vài ngàn cái bánh xèo rồi, thì nói về bánh xèo dễ hơn là mới làm chỉ 2 cái trong đời và phần còn lại là chỉ đọc trên Internet 🙂

3. Môi trường càng thoải mái thì càng dễ nói. Nếu căn phòng nóng quá, lạnh quá, ồn quá, hay ánh sáng của đèn quay phim cứ rọi thẳng vào mắt mình, thì làm cho công việc mình khó khăn hơn nhiều.

4. “Nói trước công chúng” không phải là “đọc trước công chúng.”

publicspeaking
Bây giờ bạn bắt đầu thực tập nhé.

Thực tập hiệu quả là phải có một nhóm bạn tập chung với mình, như vậy thì mới có “đám đông” để thực tập. Cho nên nếu vài bạn thành lập một Public Speaking Club cũng là việc nên khởi đầu.

• Các buổi đầu tiên nên rất dễ dàng, và chỉ nên nói về những gì có sẵn trong đầu thôi. Ví dụ: Mọi người ngồi vòng tròn, rồi thay phiên nhau mỗi người nói về những việc đã làm trong ngày chủ nhật vừa qua.

• Đến mức cao hơn, thì đứng cao hơn khán giả, và xa khán giả, nhưng sau một cái bục, hay cái bàn nhỏ, để mình không bị thừa thải tay chân. Nói về vấn đề nào đó đòi hỏi một tí chuẩn bị và sắp xếp, như dạy mọi người làm bánh xèo, hay trình bày trận Điện Biên Phủ.

Lúc này bạn sẽ cần một vài “ghi chú” để nhớ mọi chi tiết phải nói. Các ghi chú này chỉ nên viết rất sơ sài, như một dàn bài nhỏ. Lúc nói mang theo cây bút và dàn bài, nói xong mục nào dùng cây bút đánh dấu mục đó.

• Một cách thực tập khác cũng dễ và hay là nói về những tấm hình bạn chụp. Nếu có máy projector rọi hình lên tường, bạn cầm cây thước chỉ và giải thích về các tấm hình cho mọi người.

• Tập “phát âm với hùng lực”: Viết một câu ngắn, đứng xa khán giả khoảng mười mấy hai chục thước, và đọc câu đó rất to để mọi người đều có thể nghe rõ được.

Cứ tập như vậy thì cũng phải tốn một mớ thời gian rồi. Còn nhiều kỹ thuật và nghệ thuật khác, chúng ta sẽ nói từ từ. Các bạn có thắc mắc thì cứ hỏi nhé.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến

Hoành

© copyright TDH, 2009
www.dotchuoinnon.com
Permission for non-commercial use