Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Chiều” của Thi sĩ Hồ Dzếnh và Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Thi sĩ Hồ Dzếnh (1916-1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ nổi tiếng. Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ “Quê Ngoại” với một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài ra ông còn là một nhà văn được biết đến với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn “Chân Trời Cũ” (1942), Thạch Lam đề tựa.
Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông tên Hà Kiến Huân, là người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ ông tên Đặng Thị Văn, là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957).
Truyền thuyết về tên Hồ Dzếnh của ông nếu phát âm theo giọng Quảng Đông là Hồi-Tsìu-Díng, thu gọn lại là Hồi-Díng, chắc vì khi phiên âm sang tiếng Việt hai tiếng Hồi-Díng nghe không được hay lắm nên ông đã ghi là Hồ Dzếnh. Tuy vậy những người trong làng văn nghệ vẫn cứ trêu đùa gọi ông là Hồ Dính, có người còn đặt một vế đối: “Hồ Dính dính hồ hồ chẳng dính” để thách đối. Lúc có người đối lại là: “Ngọc Giao giao ngọc ngọc không giao” (mượn tên nhà văn Ngọc Giao). Cũng có người đối lại: “Vũ Bằng bằng vũ vũ chưa bằng”, (mượn tên nhà văn Vũ Bằng), nhưng đều chưa chỉnh.
Hồ Dzếnh được truy tặng Giải Văn Học Nghệ Thuật năm 2007. Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do bệnh xuất huyết dạ dày và viêm thận.
Theo Từ Điển Văn Học (bộ mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004) và Tuyển Tập Văn Xuôi Lãng Mạn Việt Nam 1930 -1945 (Nhà xuất bản KHXH, 1990), các tác phẩm của ông gồm có:
• Dĩ vãng (truyện vừa, 1940)
• Quê ngoại (tập thơ, 1942)
• Những Vành Khăn Trắng (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh, 1942)
• Tiếng kêu trong máu (truyện dài, 1942)
• Một chuyện tình 15 năm về trước (ký bút hiệu Lưu thị Hạnh, 1943)
• Chân trời cũ (tập truyện ngắn, 1943)[2]
• Hoa Xuân Đất Việt (tập thơ,1946)
• Cô gái Bình Xuyên (truyện vừa, 1946)
• Cuốn sách không tên (tiểu thuyết tự truyện, xuất bản sau khi mất)
Ngoài ra, ông còn cho đăng nhiều thơ, truyện ngắn trên các báo cùng với các vở kịch đã công diễn, nhưng chưa xuất bản.
Đặc biệt, bài thơ “Chiều” của ông được NS Dương Thiệu Tước phổ nhạc cũng khá nổi tiếng qua nhiều thế hệ.
Trong “Lời giới thiệu” Tuyển tập Hồ Dzếnh – Tác phẩm chọn lọc, Nhà xuất bản Văn Học 1988, nhận định: “Tác phẩm của Hồ Dzếnh không nhiều, lại không tập trung ở một tờ báo hay đặc san nào. Với bản chất trầm lắng, ông luôn luôn khiêm tốn tự cho mình là người mới bắt đầu bước vào nghề viết. Tuy nhiên, với hai tập văn thơ “Chân Trời Cũ” và “Quê Ngoại”, Hồ Dzếnh được biết đến như một nhà thơ có chân tài”.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1915–1995) là nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của Tân Nhạc Việt Nam.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định.
Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh… Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc “bài Tây theo điệu Ta”, những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: “Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.
Ông vào miền Nam sinh sống từ năm 1954. Tại Sài Gòn ông làm chủ sự Phòng Văn Nghệ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy lục huyền cầm/Tây Ban cầm tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhạc của ông bị cấm đoán trong nước và ông cũng bị mất chỗ dạy học tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc.
Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại Đức và Hoa Kỳ.
Vợ sau của ông là bà Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Ông bà sống hạnh phúc trong 30 năm, có với nhau 5 người con là: Dương Hồng Phong, Vân Quỳnh (ca sĩ hải ngoại), Vân Dung, Vân Hòa, Vân Khanh.
Sau năm 1975 do bệnh tật nên ông ở lại Sài Gòn. Năm 1978 bà Minh Trang cùng các con định cư ở nước ngoài.
Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh và được bà chăm lo cho tuổi về chiều.
Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1995 tại Sài Gòn. Gần đây, sau thời đổi mới, nhạc của ông đã được phép lưu hành lại trên cả nước Việt Nam.
Thi phẩm “Chiều” (Thi sĩ Hồ Dzếnh)

Thi khúc “Chiều” (Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước)
Dưới đây mình có bài:
– Dương Thiệu Tước, mạch tương lai láng chờ phím ngân trùng
Cùng với 5 clips tổng hợp thi khúc “Chiều” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn,
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)

Dương Thiệu Tước, mạch tương lai láng chờ phím ngân trùng
(Quỳnh Giao)
Trong một dịp bình nghị về nhạc, Phạm Duy đã phát biểu, rằng vào đầu thập niên 40 khi Văn Cao và Phạm Duy còn viết nhạc với âm thanh chuỗi như trong Cung Đàn Xưa hay Khối Tình Trương Chi, thì người đó đã tài tình hòa cả thất cung lẫn ngũ cung trong một khúc tình ca diễm tuyệt. Người mà Phạm Duy nhắc tới đó, chính là Dương Thiệu Tước.
Khúc hát làm Phạm Duy cảm phục mãi tới giờ chính là Trời Xanh Thẳm, mà Dương Thiệu Tước đã viết từ năm 1939. Và Phạm Duy nhớ bài ca vô cùng, vì do nghe Thái Hằng ngây ngất với Trời Xanh Thẳm mà ông đã bị cú sét ái tình… và Thái Hằng trở thành bà Phạm Duy từ đó…
Đối với nhiều nhạc sĩ ở tuổi thất tuần hiện nay, Dương Thiệu Tước là một người đàn anh đáng yêu, không chỉ vì tuổi đời hay tuổi nghề, mà còn vì tài nghệ xuất chúng và cung cách phong nhã khác thường.
Sinh quán ở Vân Đình, Hà Đông, nay là tỉnh Hà Tây, Dương Thiệu Tước là người dòng dõi nho học và quyền quý. Ông nội ông là Dương Khuê hay em ruột ông nội là Dương Lâm đều là danh sĩ và làm quan tới chức thượng thư của triều Nguyễn. Cụ thân sinh là Dương Tự Nhu thì đã làm bố chính Hưng Yên. Nhưng Dương Thiệu Tước lại chẳng chọn đường khoa cử và lánh xa hoạn lộ, để rồi thành một trong những người mở đường cho tân nhạc.
Sau một đời yêu và sống với nhạc và đào tạo bao thế hệ nhạc sĩ, ông đã lánh đục về trong, để lặng lẽ từ biệt chúng ta một năm sau tuổi bát tuần, vào mùa Thu 95 tại Sài Gòn.
Nói rằng ông dành một đời để yêu và sống với âm nhạc là không quá, vì ông mở tiệm bán và sửa đàn, mở lớp dạy nhạc dạy đàn, và là bậc thầy của nhiều thế hệ về Hạ uy cầm và Tây ban cầm. Ông liên tục dạy Tây ban cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn từ thập niên 60 cho tới những năm sau 75. Rất giỏi về nhạc lý và nhạc khí Đông Tây, ông được bằng hữu và học trò quý mến vì phong thái khiêm cung ôn tồn mỗi khi luận bàn hoặc chỉ dẫn về nhạc thuật và sáng tác…
Khi nói đến Văn Cao rồi nhạc thuật Dương Thiệu Tước, ta cần nhớ tới vài quy tắc viết ca khúc.
Chẳng hạn như một bài hát nói có một số quy ước về thể thức, với mưỡu đầu hay mưỡu hậu, đủ khổ hay dôi khổ, hay câu gối hạc… thì ca khúc cũng có phần mở đầu, có nhiều chuyển đoạn dẫn tới điệp khúc và trở về chuyển đoạn để chấm dứt với phần coda. Nhiều người đã không viết như vậy, cho nên như ở Buồn Tàn Thu của Văn Cao hay Tạ Từcủa Tô Vũ, ta có thể chấm dứt hoặc hát tiếp ở bất cứ đoạn nào.
So sánh, Dương Thiệu Tước mô phạm và có căn bản về nhạc lý cả Đông lẫn Tây nên tôn trọng nhạc thuật ở mức cao nhất, và các sáng tác của ông đều có thể là mẫu mực về kỹ thuật viết nhạc cho nhiều thế hệ sau…
Nói về di sản âm nhạc Dương Thiệu Tước, ta sẽ nói về nửa thế kỷ tân nhạc vì ông sáng tác rất nhiều, ở đủ mọi thể loại và bài nào cũng xuất sắc đáng ghi. Quỳnh Giao chỉ xin giới thiệu về nhạc trữ tình của ông, vì ông là người viết nhạc tình quý phái và trang nhã nhất của chúng ta.
Ông đã thấm nhuần phong hóa cổ truyền, với đủ nét cầm thi Á Đông, lại được học guitar và nhạc lý với một giáo sư Pháp từ nhỏ, nên sáng tác của ông đều cao nhã với âm điệu Tây phương mà uẩn súc trong nỗi rung động Đông phương. Đằm thắm mà không suồng sã, và dù là kén người hát người nghe, nhạc tình của ông sẽ tồn tại với thời gian vì càng nghe ta sẽ càng yêu quý.
Ca khúc nổi tiếng nhất của ông chẳng hạn, bài Đêm Tàn Bến Ngự, có lẽ tiêu biểu cho nghệ thuật Dương Thiệu Tước trong các cung bậc cổ truyền để diễn tả hình ảnh đậm nét dân tộc, còn hơn hẳn bao nhạc sĩ thường viết về dân ca cải biên. Sinh tại miền Bắc, ông là tác giả của bài ca bất hủ và u uẩn nhất về non nước hương bình.
Một ca khúc thứ hai có âm hưởng dân nhạc là bài Tiếng Xưa, với hình tượng của Đường thi trong làn điệu của dân ca miền Nam. Phải yêu và hiểu nhạc Việt tới chỗ sâu sắc mới viết nên ca khúc như vậy, mà nếu chỉ căn cứ vào lời từ cổ kính với cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương, phím loan vương tình… ít khi ta nhớ tới sông nước Cửu Long…
Ấy vậy, cũng Dương Thiệu Tước khi sử dụng tiết điệu Tây phương, lại cho ta nhiều nhạc khúc có âm hưởng Âu Châu cổ điển và cả hiện đại, như bài Bến Xuân Xanh lôi cuốn với nhịp 3/4 của một bài luân vũ bên thành Vienne, hoặc rộn ràng nhịp Tango habanera với Bóng Chiều Xưa, và rực rỡ âm sắc La Tinh với Khúc Nhạc Dưới Trăng hay Hội Hoa Đăng.
Trừ mấy bài như Chiều phổ thơ Hồ Dzếnh, hay Bóng Chiều Xưa có lời từ của Minh Trang, các ca khúc Dương Thiệu Tước dù viết trên cung bậc Tây phương cổ điển hay hiện đại đều có lời từ thuần nhã của một người thấm đậm văn hóa Việt. Chúng ta thấy rõ điều đó ở các tuyệt tác như Áng Mây Chiều, Phút Say Hương, Sóng Lòng, Mơ Tiên, Đêm Ngắn Tình Dài, Kiếp Hoa hay Thuyền Mơ… với lời ca cổ kính, cứ tưởng như ước lệ mà lại gợi ra hình ảnh mới, chan hòa màu sắc và ánh sáng mới.
Ở Dương Thiệu Tước, nhạc là màu sắc và vũ điệu, và thanh âm là thơ, là tình.
Điều đáng tiếc cho ông, và cho cả chúng ta, các ca khúc Dương Thiệu Tước có chất bác học và đòi hỏi một trình độ nào đó về hòa âm và nghệ thuật diễn tả. Dương Thiệu Tước lại quá yêu nhạc để lưu ý tới quảng bá thương mại, cho nên các ca khúc của ông, vốn đã kén người nghe lại ít được thực hiện và phổ biến cho xứng đáng với giá trị của chúng.
Thuở sinh tiền, ông có thấy điều đó và thường mỉm cười trong sự tĩnh lặng của ông. Lòng ông như một phím tơ chỉ chờ rung lên dưới bàn tay nghệ thuật, mà ông lại lạnh tanh với tiếng vỗ tay và, như Duy Trác đã luận, “giữa sân khấu cuộc đời, Dương Thiệu Tước hoàn toàn đóng vai của người vắng mặt.” Nơi ông, lòng yêu nghệ thuật đã quá lớn để ông quan tâm tới tên tuổi của ông hay người thưởng ngoạn.
Chúng ta càng yêu tài và nhớ ơn thì càng kính trọng ông trong sự im vắng của ông. Được sống với ông như người con gái trong những bước đầu bước vào âm nhạc cho tới 1975, Quỳnh Giao luôn luôn trân quý các ca khúc của ông, và thiết tha cầu mong là người Việt sau này sẽ không quên công lao rất lớn của ông cho tân nhạc, từ những năm khơi nguồn cho tới về sau này…
Trong các ca khúc viết về tình yêu, Dương Thiệu Tước ưa nhất bài Ngọc Lan. Đây là tác phẩm trang trọng quý phái nhất của các tình khúc nước ta, và cho thấy chiều cao nghệ thuật và chiều sâu văn hóa của tác giả. Ông họa chân dung người đẹp trong giấc Xuân, yêu kiều như đóa ngọc lan, rồi vẽ đóa thơm tỏa hương như một mỹ nhân, để rồi hoa với người hòa lẫn trong cung bậc đặt dìu, đài các mà không lả lơi, nồng nàn mà không suồng sã.
Ngần ấy hình ảnh đẹp như tranh cổ lại đan lượn trên cung bậc trang nhã của nhạc bán cổ điển Tây phương, để kết thúc mơ hồ như một giấc hư ảo…
Quỳnh Giao xin kính chào tạm biệt quý vị, và xin hẹn tái ngộ trong chương trình tới của Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam để nhớ về Phạm Đình Chương…
(Quỳnh Giao)
oOo
Chiều – Ca sĩ Lệ Thanh:
Chiều – Ca sĩ Khắc Triệu:
Chiều – Ca sĩ Ái Vân:
Chiều – Ca sĩ Cảnh Hàn:
Chiều – Ca sĩ Uyên Phương: