Trong một buổi hội thảo về văn xuôi, nhà văn Cao Duy Thảo có phát biểu rằng văn chương không thể có phế phẩm, vì phế phẩm văn chương không thể dùng làm bất cứ thứ gì, việc gì. Một mớ gạch vỡ, ngói bể… còn đem làm nền, lót đường được. Miếng gỗ cưa hỏng, đục hỏng… còn đun bếp được. Nhả bánh “hư bột hư đường” hạ giá thành thức ăn gia súc. Văn chương mà hỏng chỉ vứt đi, vứt đi.
Vâng. Làm văn chương hỏng, bị vứt đi, thật tội nghiệp cho tác giả. Mất biết bao nhiêu tâm trí và công sức. Có thể tác giả đầy nhiệt tình nhưng thiếu khả năng, hoặc do một điều kiện khách quan tác động. Hóa ra cơ sự…
Cái đáng sợ trong văn chương đối với quần chúng là loại văn chương giả. Sự kiện éo le, hấp dẫn, từ ngữ bóng bẩy, cú pháp điêu luyện… tác giả tài tình như một phù thủy điều khiển âm binh, sai khiến những điều không thật này múa may, khoa trương làm lóa mắt người đọc và không ít người đọc bị mắc lừa, xúc động thật sự, có khi đi đến mê muội tin theo các điều giả ấy.
Ngược lại không phải không có trường hợp chính phẩm văn chương bị chê là khô khan, đơn giản, không khơi gợi được tình cảm nơi người đọc. Ở đây có thể ví như món ăn bổ mà không ngon, không khoái khẩu người thưởng thức nên không được ưa chuộng. Cũng có thể nói rằng như thế chưa phải là văn chương, bởi vì hai tiếng văn chương đã có ẩn ý là phải hay, mà đã là hay thì nội dung và hình thức song toàn.
Kinh nghiệm cuộc đời cho thấy cái gì là giả không thể tồn tại lâu dài, cũng như cái gì là thật không thể chìm khuất mãi. Một lúc nào đó, người đọc nhận ra ngay những éo le, hấp dẫn, bóng bẩy kia chỉ là lớp sơn hào nhoáng bên ngoài và người đọc hối hận: Tại sao lúc ấy ta lại tin như vậy, lại xúc động đến thế? Một khi đã “ngộ” những người đọc này càng khinh bỉ loại văn chương giả. Kẻ bi quan không còn chút niềm tin gì đối với văn chương, kẻ lạc quan gia công đi tìm điều thật.
Nói chuyện văn chương lại liên tưởng đến hoa.
Từ lâu có nhiều loại hoa giả. Lúc đầu còn thô thiển, càng ngày với kỹ thuật tinh vi nhiều loại hoa giả còn đẹp hơn hoa thật. Cùng với hoa thật, hoa giả đóng một vai trò quan trọng trong việc trang trí, khánh tiết. Có người chê hoa giả, cho là đồ giả thì không đáng quý, chẳng cần khen chê.
Cha tôi có bài thơ vịnh hoa giả:
Mượn tên đẹp đẽ cũng như ai
Cũng trúc, cũng lan, cũng thược, mai
Tết tới đua chen cùng chúng bạn
Xuân về hớn hở khắp trong ngoài
Nữ công chị hỡi trau tria với
Thưởng khách chàng ơi chớ phụ tài
Đành phận không hương nhưng có sắc
Đã từng lên án lại lên đài
Thật tình tôi không hiểu rõ ngụ ý của bài thơ là khen hay chê hoa giả, giả sử chê thì chê một cách khéo léo. Chỉ thấy rõ là khen tài người làm ra hoa, với quan niệm xưa đây là việc thủ công của nữ giới.
Nghĩ lại thì hoa giả đâu phải là hoa giả mà là sự phối hợp giữa mỹ thuật và kỹ xảo, người ta dùng một số nguyên liệu nào đó tạo ra một vật giả làm hoa, giống như hoa. Tác giả những hoa này nói thật nó là hoa giả, không đánh lừa người mua, vậy nó là “hoa giả thật”, nó không phải là hàng mị, hàng giả, hàng thứ phẩm, phế phẩm, hàng hỏng. Thích hay không thích là tùy ý từng người.
Hoa giả, nói cụ thể là hoa vải, hoa giấy, hoa ni-lông gì đó… là kết quả của sự bắt chước, mô phỏng, con người bắt chước trời đất, mô phỏng thiên nhiên mà tạo ra. Nó có cái nhược là không phải hoa thật hái từ cành cây, nó có cái ưu là là dùng được lâu, giữ cái đẹp được bền, không tàn, nên đỡ phải thay đổi, chứ theo giá cả bây giờ chưa chắc đã đỡ tốn.
Nhưng sở thích con người thường nhanh chóng thay đổi. Người sành điệu chơi hoa thật phải thay hoa luôn thì chơi hoa giả cũng phải thay luôn, nếu không sẽ bị “quê”, bị lạc hậu.
Hạng nghèo như tôi, không có tiền mua hoa thật và hoa giả, hai loại đều đắt cả. Thôi thì hái hoa dại trời cho, mọc ở bờ suối, vệ đường, sáng cắm, chiều bỏ… Cũng có màu sắc như ai và tự nghĩ rằng mình đây cũng biết yêu hoa, thưởng hoa như thiên hạ.
Trần Huiền Ân