Phật Di Lặc và Ông Già Noel

Chào các bạn,

Phật Di Lặc và Ông già Noel giống nhau ở chỗ là cả hai đều mập mạp tròn trịa và đều thích chơi với trẻ em.

Mập mạp tròn trịa là biểu tượng của người vui vẻ, dễ tính, thích ăn uống.

Vui vẻ, thích ăn uống, và yêu trẻ em. Đây là đặc tính chung của hai ông già nổi tiếng, một ở phương Đông một ở phương Tây.

Trong các đường tu có những đường tu khổ hạnh, ép xác, với những thiền sư ngồi trơ xương. Lại có những đường tu ăn uống thoải mái của các vị thiền sư bụng bự, bị gậy lang thang, vui chơi với trẻ em. Điều đó nói rằng tu tập có nhiều đường, và những đường thong thả vui vẻ thoải mái cũng là đường đạt đạo.

Dùng Phật Di Lặc và Ông già Noel làm tiêu chuẩn thì đạt đạo có nghĩa là khiêm tốn, thành thật và yêu người. Thích chơi với trẻ em là yêu người và khiêm tốn, thấy mình đồng hàng với trẻ em, và trẻ em ngang hàng với mình. Và thành thật vì trẻ em luôn thành thật và người ta có thể luôn thành thật với trẻ em.

Đạt đạo không cần phải biết thuyết pháp làu làu như nước chảy.

Đạt đạo không cần phải cực khổ như các vị sư gầy trơ xương.

Đạt đạo không cần phải thần thông như Quán Âm nghìn tay nghìn mắt.

Đạt đạo chỉ giản dị như ông già thích ăn ngon, khiêm tốn, thành thật và yêu người, tối ngày vui chơi với trẻ em.

Chúc các bạn một ngày đạt đạo.

Mến,

Hoành

© copyright 2011
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

12 thoughts on “Phật Di Lặc và Ông Già Noel”

  1. Anh Hoành, bạn vncfdgroup và các bạn.

    Nguyên nhân bức tượng ra đời là đúng như phản hồi của vncfdgroup, và đó là ý tưởng của một linh mục Bồ Đào Nha – người lo âu nhiều nhất cho tính mạng những con chiên của ông – sau khi ông khấn nguyện hàng đêm dưới tượng Đức Mẹ Maria với hy vọng là Đức Mẹ sẽ soi sáng và chỉ cho ông một phương cách để tránh tai kiếp nầy.

    Ông cho điêu khắc, đổ khuôn và đúc ra rất nhiều tượng Đức Mẹ Maria trong trang phục của Quan Thế Âm Bồ Tát. Số tượng nầy được chuyển đến các tín đồ Công giáo để thờ, nếu có ai vào tra xét thì họ sẽ trả lời là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Nhờ sáng kiến nầy mà hàng chục ngàn tín đồ Công giáo đã thoát được tai ách trong thời kỳ đó.
    Điều rất hay, rất quý là cho đến nay, đã hơn hai trăm năm trôi qua, mà bức tượng vẫn còn được thờ không chỉ trong dân, mà còn trong nhiều nhà thờ Công giáo và chùa Phật giáo.

    Đó thực sự là tinh thần “vô chấp” của người có Đạo, dù là Phật giáo hay Công giáo. vì họ hiểu rằng chỉ khi bỏ được cá tính cố chấp và sự ràng buộc trong mình, thì lúc đó họ mới có thể vượt được những khốn khổ để đến bến bờ của tự do.

    Tôi đã học được chút chút và “tâm đắc” tinh thần nầy ở anh Hoành và các bạn tại ĐCN.

    Like

  2. Em tìm trong wiki tiếng Việt về hình ảnh Quan Âm thì thấy người ta viết rằng :”Trong thời kỳ tướng quân Tokugawa của Nhật Bản, khi Kitô giáo bị cấm kị và có thể bị xử tử, nhiều tín đồ Kitô giáo thờ Đức mẹ không công khai bằng cách giả làm tượng Quan Âm, được gọi là Quan Âm Maria”.

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_%C3%82m

    Dù sao thì em thích ý tưởng của anh Thảo hơn, nó đã nói về tinh thần bất nhị trong đạo Phật. Bồ Tát thì không quan trọng màu da, giới tính, tuổi tác….

    Like

  3. Cảm ơn anh Thảo về câu chuyện rất thú vị.

    Mình Google mà tìm ra tại http://en.wikipedia.org/wiki/Tzu-Chi thông tin về giáo hội Tzu Chi Foundation (Từ Chi Hội (?)) là một tổ chức phi chinh phủ (NGO) lớn nhất trong thế giới tiếng Trung, do pháp sư Cheng Yen, một ni cô, thành lập ngày 14 tháng 5, năm 1966 tại Hualien, Đài Loan. Chủ trương của Phật hội này là mang humanistic Buddhism–Phật giáo nhân văn–đưa Phật giáo vào các hoạt động của con người.

    Như ảnh dưới đây trên tường của bệnh viện của Phật Hội Từ Chi–Phật đang chữa bệnh

     

     

    và Quán Âm Bồ tát đang ôm em bé như Đức Mẹ Maria:

     

    Không biết Phật Hội Từ Chi này có phải là chùa trong câu chuyện anh Thảo kể không.

    Like

  4. Theo nhà văn Lâm Thanh Huyền (Đài Loan), tại chánh điện một ngôi chùa ở thành phố Osaka nước Nhật, có thờ một bức tượng giống tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, lớn và rất đẹp, với chiếc mũi rất cao và thẳng, còn tròng con ngươi thì màu xanh da trời (như người Tây phương).
    Nhà văn hỏi sư trụ trì về danh hiệu của tượng Bồ Tát nầy, thì được sư trả lời là: Maria Quán Thế Âm.
    Được biết, tại một nhà thờ Công giáo ở thành phố nầy, cũng có thờ một bức tượng giống như vậy, và được gọi là Quán Thế Âm Maria.
    Nguồn gốc của sự việc nầy là một câu chuyện hơi dài, nên không thể kể hết ra ở đây.
    Nhưng phải chăng khi dẹp bỏ được quan niệm hẹp hòi, cố chấp, tất cả chúng ta đều thấy trên đầu mình chỉ có một bầu trời bát ngát bao la?
    Và “Thiên Đàng xuất hiện, A Di Đà Phật”.

    Like

  5. Hi Ngọc Vũ,

    Trong nhiều bài viết của anh, mỗi ki nhắc đến Quán Âm Bồ tát anh cũng thương nhắc đến Mẹ Maria kế đó.

    Free thinker là người suy nghĩ tự do, không bị gò bó vào khung nào.

    Anh là một free thinker, vì anh hiểu, chấp nhận và biết ơn nhiều luồng tư tưởng của thế giới–Phật triết, Ki tô giáo, Hồi Giáo, Tu bản chủ nghĩa, xã hội chũ nghĩa… nhưng không “parochial”, không đóng khung mình trong “giáo xứ” nào.

    Có một loại free thinker khác, là chẳng lệ thuộc vào luồng tư tưởng nào, nhưnwg cũng chẳng hiểu luồng tư tưởng nào cả. Em không muốn là free thinker loại này. 🙂

    Like

  6. Dear anh Hoành,

    Thật kì lạ là đã có lần em nghĩ về Phật Di Lặc và ông già Noel đúng như anh Hoành nói trên đây nhưng chưa bao giờ có đủ và đúng vốn hiểu biết để viết một bài so sánh như trên của anh Hoành cả. Bài này tuyệt quá a!

    Dạo này sắp đến Giáng Sinh nên mọi người ở chỗ làm em hay hỏi: “”Mày có theo đạo Chúa không? Hay mày theo đạo Phật?” Em trả lời không phải thì người Sing bảo em: Thế mày là free thinker, anh có suy nghĩ gì để share với em và mọi người về từ này không a, em thấy nó rất hay 🙂
    Đồng thời, em nghĩ bài này có thể làm khung ý tưởng cho một bài viết khác về…Bồ Tát và mẹ Maria a 🙂

    Like

  7. Hi vncfd,

    Biểu tượng luôn luôn giàu về ý nghĩa. CHính vì thế mà người ta dùng biểu tượng thay vì nói huỵch toẹt ý nghĩa ra, vì nói ra thì chỉ có 1 (điều ta nói ra), để nguyên biểu tượng thì ý nghĩa trùng trùng điệp điệp, tùy theo người lý giải có tính thuyết phục được thế nào.

    Thực ra theo lịch sử Phật Giáo thì các ông Phật bụng bự, đôi khi mang gậy và bị, là của Đại thừa, đối chọi với các hình Phật tu khổ hạnh gầy trơ xương của Tiều thừa. Nói nhiều chuyện, nhưng chuyện chính là “nhận thế gian của mình”, không tu khổ hạnh và chối bỏ thế gian. Và ăn uống là việc chính của thế gian. “Sống bằng cái bụng và nghĩ bằng cái bụng” là lấy thực tế cuộc sống ăn mặc làm chính.

    Còn cái bụng to để chứa tội lỗi thế gian thì, theo ý anh, chẳng lấy gì làm thuyết phục, vì chẳng nền văn hóa nào của thế giới nói lấy bụng để chứa tội lỗi cả. Nhưng, lần nữa, biểu tượng là để cho ta tha hồ lý giải, tùy theo người nghe có được thuyết phục không mà thôi.

    Like

  8. Em tìm thấy ở trên mạng thì người ta có bình luận về cái bụng to của Phật Di Lặc như sau:
    1) Cái bụng to của ông tượng trưng cho tấm lòng bao dung vô lượng, nó có thể chứa được mọi khổ đau phiền não của thế giới ta bà này. (Phải chăng điều này cũng nói về Tứ vô lượng tâm?)
    2) Cái bụng to của ngài, ám chỉ rằng Phật Di Lặc hoàn toàn sống bằng cái bụng của mình, nghĩ bằng cái bụng của mình mà thôi (không hề có những mưu toan thiệt hơn gì hết).

    Còn về nụ cười: nó xuất phát từ một trái tim đầy tĩnh lặng, một biểu hiện của aura tinh khiết.

    Like

  9. Đọc bài của anh Hoành em không còn thấy áy náy vì tính thích ăn ngon của mình, tu ăn là cách tu mà em thấy khổ nhất,hehe, nên mãi em vẫn không giảm được cân ,hix.

    Like

  10. TU có rất nhiều đường. Riêng Phật đã có 84.000 pháp môn (?).
    Không phải đường nào tốt hơn đường nào. Mà đường nào thích hợp với mỗi người trong chúng ta?
    ĐẠO thì chỉ có một. Đó là trở về với CHÂN TÂM.
    “Chân tâm” hay “Tâm” hay “cõi lòng khi được thắp lên” thì luôn rổng rang, trong sáng!
    Tâm hay chân tâm của mọi người đều như nhau, đều rổng rang trong sáng, nên gọi là “nhất tâm”.
    “Ý” thì luôn luôn đến trong Tâm. “Ý” đến rồi đi, liên tục.
    “Ý” có thiện ý, và ác ý hay tà ý.
    Ta phạm tội vì để tà ý làm chủ, sai khiến mình.
    Ta phạm tội vì nhầm lẫn, cho “tà ý” đó là “chính mình”.
    Tâm ta cần tỉnh thức để nhận diện được tà ý.
    Khi bị nhận diện và quan sát, tà ý không thể phát tác thành lời nói hay hành động, mà sẽ bỏ đi khỏi tâm ta…
    Xin chia sẻ một chút trải nghiệm bản thân, nhưng thực hành còn kém lắm!

    Like

Leave a comment