Vấn đề được tôi quan tâm nhất trong khi làm thơ là cái đạo mà thuyền thơ chở. Thuyền thơ của mỗi thế hệ nhà thơ phải chở cái đạo của thời đại mình. Cái đạo nào? Cái đạo mà thời đại quan tâm nhất. Trong phạm vi một xứ xở thì đấy là cái đạo mà đồng bào xứ xở quan tâm. Cái đạo khái quát được xã hội mà lại rất riêng – riêng cho từng số phận con người. Nguyễn Du đã đau khổ với mình về thân phận con người. Chẳng lẽ chúng ta ngày nay lại không đau khổ về thân phận con người của thời đại chúng ta? Xã hội thời Kiều có vấn đề của thời Kiều, xã hội thời ta có vấn đề của thời ta . Thời Kiều ở trong truyện Kiều, lẽ nào thời ta không hiện diện trong thơ ta?Bạn đường thân yêu
Không người làm thơ nào lại không có những bạn đường thân yêu của mình. Người có Puskin, người có Erenbua, người có Aragông, người có Lý Bạch, Đỗ Phủ. Tôi có nhiều người bạn, nhưng người bạn đường thân yêu nhất của tôi là Truyện Kiều.
Vì sao lại có sự lựa chọn lạ lùng ấy?
Trước hết, vì Truyện Kiều, bản Việt ngữ hay nhất mọi thời đại của thi tài Nguyễn Du. Nhưng thế giới có nhiều kiệt tác văn học thần thánh, cớ sao tôi lựa chọn Truyện Kiều? Đáp: đó là sự thích của tôi. Truyện Kiều đã chở một nội dung mà cho đến nay vẫn nóng hổi với người đọc và người đọc vẫn còn tranh cãi nhiều về nó, đương nhiên nôi dung ấy được chuyển tải bằng một hình thức rất Việt Thi. Hai trăm năm có thể lâu hơn nữa / Thúy Kiếu ơi nàng sống tháng năm dài ( thơ Lý Phương Liên).Còn tôi thì đã viếtThời gian đọng lại buồn tênh/ Mỗi trang Kiều một mông mênh cõi người…Tôi lại viết
Thương thay cho kiếp đoạn trường/ Cởi ra chưa hết lại luồn thêm giây…
Trong suốt cả quá trình yêu thơ, tôi đã thực sự chọn Kiều là bạn đường thân thiết và Kiều quả đã trở thành bạn đường chí cốt của tôi.
Vấn đề được tôi quan tâm nhất trong khi làm thơ là cái đạo mà thuyền thơ chở. Thuyền thơ của mỗi thế hệ nhà thơ phải chở cái đạo của thời đại mình. Cái đạo nào? Cái đạo mà thời đại quan tâm nhất. Trong phạm vi một xứ xở thì đấy là cái đạo mà đồng bào xứ xở quan tâm. Cái đạo khái quát được xã hội mà lại rất riêng – riêng cho từng số phận con người. Nguyễn Du đã đau khổ với mình về thân phận con người. Chẳng lẽ chúng ta ngày nay lại không đau khổ về thân phận con người của thời đại chúng ta? Xã hội thời Kiều có vấn đề của thời Kiều, xả hội thời ta có vấn đề của thời ta . Thời Kiều ở trong truyện Kiều, lẽ nào thời ta không hiện diện trong thơ ta?
Sự thể như thế này, mỗi một khi nhàn rỗi, mỗi một khi sắp nổi hứng thơ, là tôi lại đọc truyện Kiều, và lại tìm thấy trong đó rất nhiều gợi ý cho những mênh mang của mình. 3254 câu thơ chở theo biết bao nhiêu ý tưởng, bao nhiêu dày vò, bao nhiêu hình ảnh của cuộc đời. Thực chưa có một tập sách nào thâu tóm được cái tuyệt đỉnh rộng lớn ấy. Vẫn có người cho rằng Kiều hay cái nỗi gì, đọc câu nào cũng phải xem chú thích, bình giải. Nó hay ở chỗ đó đó, thưa người. Thơ hay ở chỗ không thể đọc trôi tuột đi, mà phải ngẫm nghĩ ngân nga.
Không phải là ai cũng đã một lần đọc hết truyện Kiều, và tất nhiên không phải ai cũng hiểu truyện Kiều, hiểu được tâm sự của tác giả gốc (?) và tác giả Việt ngữ Nguyễn Du. Chẳng có gì phải xấu hổ khi thừa nhận Nguyễn Du là người đã Việt ngữ tài tình Truyện Kiều, xuất xứ từ một nền văn hóa khác, thành Truyện Kiều Việt Nam. Cần hiểu đúng và công bằng giá trị thật của truyện Kiều và giá trị thật của Văn bản Gốc và của Nguyễn Du thì mới cảm biết hết cái hay của Khúc Đoạn Trường mà Cụ Nguyễn khi làm xong nó, vỗ bụng mà hát lời Mua vui cũng được một vài trống canh…
Tôi đã không dành đôi ba trống canh mua vui Truyện Kiều, mà đã yêu và lựa chọn Truyện Kiều là người bạn đường chung thủy đời thơ.
Tôi đọc truyện Kiều hầu như là hàng ngày, và hàng ngày lại thấy những điều mới, những gợi ý thú vị,bổ ích. Cái lạ là, dù tôi dự định viết thơ chủ đề gì, khi đọc lên, cũng đều thấy truyện Kiều đã nói thay mình rồi – vì thế, tôi gọi Kiều là cuốn bách khoa toàn thi, là chân dung hoàn chỉnh nhất giữa ỳ tưởng nội dung và hình thức nghệ thuật.
Truyện Kiều là trọn vẹn cuộc đời tài hoa hăng trầm của Nguyễn Du. Thăng trầm ấy, nghĩ cho cùng cũng như: /Tiếc thay một đóa tra mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về…/ Và trà mi đã giận dữ thưa lời: Cớ sao thơ tiếc cho hoa/ Mơn mởn đôi gò yếm thắm/ Nhụy nõn thơm da/ Cỏ tình sương ngậm/ Tấm yêu đẹp mấy khắc giờ / Cửa trinh rồi úa/ Không tình phí một đời hoa/ Sao thơ không là ong nhỉ/ Vần suông buông tiếng ngân nga?…/
Truyện Kiều là đỉnh của nhửng áng văn chương mà ngày nay chúng ta có thể kiêu hãnh kế thừa. Cũng vì có truyện Kiều ( và một số thi phẩm khác, không dẫn ở đây) nên chúng ta đã tự coi nghệ thuật thơ ca Việt Nam có cái gốc, và từ cái gốc đó đâm cành, nẩy lộc, ra hoa kết trái những tinh hoa đời sau.
Nhân đây cũng cần phải nói rằng: Văn học dân gian và dòng văn học bác học ở ta luôn luôn tồn tại và đồng hành, nhiều lúc nhập chung vào một dòng, không còn phân biệt được công trình cá nhân hay nhiều đời cộng chung. Sự hòa đồng này đã bất chấp sự băng hoại của thời gian, mặc dù chỉ được nhân bản miệng, nhưng sự tồn tại vẫn là vĩnh viễn. Ngày nay cũng vậy, thơ ca của chúng ta (tuy viết bởi từng tác giả) nhưng không thể không hòa vào quần chúng – Đây là nói sự hòa đồng bằng ý tưởng – chúng ta không thể viết ngược lại những điều nhân dân nghĩ. Ít lâu nay, người ta có đề cập nhiều đến sự kế thừa, đến việc học tập của dân gian, nhưng nghiêng về phía kế thừa, học tập lối biểu hiện, niêm luật, hình thức, mà sự kế thừa, học tập về nội dung không được chú trọng một cách thích đáng.
Chữ nhân trong văn học dân gian là cái gốc, trên cái gốc đó là chữ trung, chữ hiếu, chữ tiết, chữ nghĩa. Tất nhiên ngày nay ước lệ về những phạm trù đó có thay đổi, nhưng thay đổi là thay đổi về định nghĩa của phạm trù, chứ nội dung biểu đạt của văn học nhất định vẫn chỉ là gốc nhân trên đó là những cành đạo đức. Ngoài cái đó, văn học không còn là nhân học nữa.
Cũng có người cho rằng thời đại ngày nay khoa học và kỹ thuật đã phát triển, quan niệm về văn học phải rộng hơn. Đúng, rộng hơn là rộng về đề tài, về hình thức biểu hiện, làm phong phú thêm thế giới mà con người sống, nhưng đối tượng văn học vẫn phải là nhân văn với hai chữ Con Người viết hoa.
Khi đã thống nhất về đối tượng miêu tả của văn học thì vấn đề đáng tranh cãi không còn là vấn đề nội dung, mà vấn đề là tranh cãi thường xoay quanh các hình thức biểu hiện.Còn có gì đáng tự hào hơn là có một cuốn sách đã đạt đến thành công trên cả hai phương diện nội dung và hình thức – đó là truyện Kiều Việt ngữ của dân ta.
Ngẫm cho kỹ Truyện Kiều hẳn sẽ tìm thấy được nhiều câu trả lời cho những suy nghĩ thường trực, như: Đề tài nào là đề tài vĩnh cửu? Hình thức nào là hình thức vĩnh cửu? Người cầm bút cần sống và viết như thế nào? Trả lời được những câu hỏi ấy chúng ta sẽ thấy trút được hầu hết các gánh nặng và yên tâm hơn trên con đường sáng tạo của mình.
Có thể nói một cách tóm tắt: Đề tài vĩnh cửu là đề tài miêu tả cuộc sống sâu sắc, nhiều mầu sắc của con người. Nếu Truyện Kiều chỉ là câu chuyện tình chìm nổi thi vị thì chắc gì nó đã có sức sống dài đến thế! Nói đến hình thức, quyết không thể nói đến cũ và mới, chỉ thời trang mới có mốt cũ và mốt mới. Mốt vốn là thị hiếu trong từng thời kỳ, chứ mốt không phải là nghệ thuật. Thời trang khi thịnh hành chiếc cravát to bản, khi thịnh hành chiếc cravát nhỏ và ngắn, có loại nào đẹp hơn loại nào đâu. Do vậy, khi đã là bài thơ hay, thì hình như hình thức không phải là điều đáng bàn nữa. Có ai chê bài “Đèo Ngang” (thể bát cú) là thể thơ cũ đâu. Các bài Thu của Nguyễn Khuyến cũng bát cú đấy chứ! Không phải chỉ có tự do mới là thể thơ mới, còn các thể 6/8, tứ tuyệt, song thất lục bát…đều cổ rồi và không nên sử dụng nữa. Phàm đã là hình thức thơ, thì không có hình thức nào xếp vào viện bảo tàng cả. Điều quản ngại nhất là bài thơ cần có sự hòa đồng giữa nội dung và hình thức. Đã là bài thơ hay thì hai mặt đó đều thành công. Truyện Kiều đã sử dụng thể 6/8, thử hỏi 3254 câu, có bao nhiêu câu cổ cũ? Sự thật là truyện Kiều đọc luôn thấy mới, hiện đại, thời nào cũng hiện đại.
Người cầm bút hãy sống một cách đời nhất và viết những trang mình thuộc nhất trong cuộc sống của mình. Đã là những trang đời sống thì trang nào không con người! Nói như vậy có phải quá đề cao truyện Kiều ? Câu trả lời tùy thuộc vào bạn đọc.
Mỗi người cầm bút tự chọn cho mình một người bạn đường thân yêu không phải để làm giống như người bạn đường ấy, mà để có nơi tâm sự, có nơi tỏ mối tình suốt đời say đắm với tình thơ.
Tôi đọc được không nhiều những tác phẩm của các nhà thơ thế giới, do vậy, tầm mắt tôi, thú thực, nhiều hạn hẹp, song cũng may tôi không hoảng loạn trước những tân kỳ, mà tôi biết chắc là nhiều bạn tôi đã mắc phải căn bệnh đó. Mình là người làm thơ Việt Nam, thì thơ mình phải là thơ Việt Nam, pha tây một chút Tagor, một chút Êsênhin, một chút Bôđờle, một chút Elua… ắt thành thập cẩm thơ. Thịt gà luộc, thịt lợn luộc, thịt bò luộc…cái luộc rất Việt Nam, rất mộc ấy hỏi thua kém gì những món nướng, sốt, tần của các cộng đồng dân tộc khác.
Trên con đường tìm bạn, cũng ví như tìm vợ, phải tùy thuộc vào cái tạng của mình, chứ không thể bắt chước và đua đòi theo người khác. Cô ấy phải xinh đẹp, thông minh, giỏi dang…nhưng cô ấy có phải là đối tượng của mình không và câu hỏi luôn hai chiều mình yêu người ta nhưng người ta liệu có yêu mình? Cũng như trách người sở khanh sao mà quên xem mình chính chuyên hay đĩ thõa. Mời đọc Quà Tặng Của Nguyễn Du
/ Biết rằng sợi tình/ Nhân gian không dứt được/ Lại biết rằng sợi tình/ Người là tiếng hát/ Người là khăn tang/ Người chếnh choáng men say mờ mắt/ Người gặp bão giông/ Người khao khát vào bờ…
/ Nên Nguyễn Du không cho Sở Khanh chết/ Dù thịt nát xương tan ở pháp trường Kiều/ Người tạc hình Sở Khanh vào bia miệng/ Quà tặng cho nhân gian
/ Sở Khanh chải chuốt văn nhân / Tiên tích việt lời lời có cánh/ Ngựa truy phong bên thềm…/
Tôi đánh giá rất cao việc tìm người bạn đường nên viết chương này. Xin bạn thể tất, nếu vấn đề này đối với bạn chỉ là điều vô nghĩa.
Rất cảm ơn bài viết thật ấn tượng và tâm huyết của ông!
Trân trọng!
LikeLike
Xin cám ơn Bạn Đỗ Thu Hằng đã giới thiệu các thi phẩm của người thơ Nguyễn Nguyên Bảy.
Vừa được đọc bài của anh lại vừa được đọc thơ của anh, thật không còn gì thú vị bằng anh Bảy ạ!
Cám ơn anh. Phượng thăm anh chị sức khỏe & an lạc. 🙂
LikeLiked by 1 person
Không hẳn những điều Thầy NNB viết Thủng Thẳng với thơ đã là hay, nhưng tôi tin là hoàn toàn đúng, bởi thầy đã trải qua những sáng tạo thơ ca lạ lùng và đã viết nên nên những tuyệt phẩm thơ.
.
Để chứng minh nhận định của mình, tôi xin copy lại nguyên trang mạng dưới đây của nhạc sĩ trẻ Thiên ca và Tiến sĩ báo chi Đổ Thu Hằng đã đăng 7 tuyệt phẩm thơ của Nguyễn Nguyên Bảy dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long Hà Nội
.
Nguyễn Nguyên Bảy và Bảy tuyệt phẩm thơ dâng tặng Kinh Thành Cổ Tích
Tác giả Entry này: Thiên Ca (Hằng Đỗ cop sang mời cả nhà cùng thưởng thức nhân dịp 1000 năm Thăng Long- Hà Nội)
Nhân dịp Thăng Long Hà Nội 1000 năm tuổi, Người thơ Nguyễn Nguyên Bảy – Đại sư phong thủy BNN viết 7 tuyệt phẩm thơ dâng tặng Kinh Thành Cổ Tích. Hà Nội – nơi ông sinh ra, lớn lên và chắp cánh phiêu du. Hà Nội trong ông muôn đời vẫn vậy, 40 năm tha hương đi khắp 5 châu bốn biển, nhưng ở bất cứ phương trời nào tình yêu dành cho Hà Nội vẫn thủy chung, tận tụy.
Hôm nay một lần nữa Thầy lại dạy con một bài học về Tình yêu. Hôm nay con được thầy tiếp thêm sức mạnh, niềm tin và sự lạc quan của Thầy.
7 bài thơ này của thầy con xin được chép ra đây chia sẻ cho bạn bè, cho những người yêu Hà Nội và cả những người chưa một lần hít hà hương Thu Hà Nội, say cái tình của thành phố Rồng bay này. Hà Nội thay đổi diện mạo từng ngày, có thể bụi bặm hơn, chật chội hơn nhưng nhà vẫn là nhà, Tình yêu vẫn trọn vẹn là tình yêu, Gió vẫn là gió thời đó, thổi men yêu thương ấm lòng những đứa con xa nhà. Dù là thời chiến “Nơi ấy Đào Nhật Tân vào chấn cửa Đông / Áo trấn thủ phủ rêu cửa Bắc / Kèn tàu hừng hực cửa Nam / Quốc Ca hát đỏ sông Hồng / Nơi ấy là Kinh Thành Cổ Tích / Nơi ấy là đời tôi” hay thời bình “Em đứng bên hồ / Phong phanh liễu / Mưa phùn chuốt liễu mưa xanh / Từng nhành tóc xõa…”.
Hôm nay thầy tặng con 6 chữ. Hôm nay con bắt đầu nhìn thấy con đường mình sẽ đi. Con đường ánh sáng và yêu thương.
Yêu Thầy.
Nguồn : Gặp thơ mời thơ (2)
360plus.yahoo.com/dothuhang
360plus yahoo.com/thienca
Bài 1
CA TRÙ MÙA THU
Phút giây ấy với tôi là duyên số
Hai tình cờ gặp nhau
Em trao chỉ một gật đầu
Đôi mắt cười mệt mỏi
Chỉ thế thôi vồi vội
Chim bay về tổ chiều thu
Tôi đi theo hương thu
Hồn tình sét đánh
Xóm Hạ Hồi thoang hương sữa lạnh
Hoa từ vú lụa thơm ra
Tôi rảo quanh lặng lẽ Nguyễn Du
Cửa sổ nhà ai bóng thúy
Tôi vòng ra phố Huế
Chật khoang tầu điện gió thu
Những mái phố ca trù
Cửa chợ Hôm trễ yếm
Tiếng rao tầm quất nhạc xèng
Em ở đâu giữa Hànội dọc ngang
Ba sáu phố phường khép mở
Một nửa của tôi ơi
Hàng Đào,Hàng Lược,Hàng Vôi
Nợ tình nỡ nao Cấm Chỉ
Xin nghe tôi một lời chém đá
Đêm nay rồi đêm mai
Thu nay rồi thu mai
Năm nay rồi năm mai
Em là gió anh cũng tìm thấy gió
Thu dẫn tôi vào ngõ nhỏ nhà em
Khu cổ tích thuyền rồng
Hồ thu vua trả kiếm
Đâu thành quách dương đài nguyệt điện
Nhà em nóng rực như lò
Đun cháy mọi điều mơ mộng
Em là cô thợ ca ba
Tôi lặng mình và chợt hiểu ra
Có một Hànội khác
Một Hànội nửa tôi.
Chúng tôi bên nhau riêng một trời
Riêng một đất
Đường Cổ Ngư ngắn chừng gang tấc
Trăng vàng rơi qua kẽ tay
Trôi bồng bềnh rồi rơi vào sóng bạc
Mắt sướng thi nhân ngơ ngác
Cổ thụ ngồi trải lá vàng khô
Chúng tôi rù rì,rù rì
Những lời say ong mật
Tạ trời ban cho hạnh phúc
Cánh hồn bay chơi vơi.
Một nửa tôi không lời
Thương đau có gì phải kể
Cảnh mất cha đổ buồn mắt mẹ
Mất mẹ trút khổ vai em
Mười bảy tuổi mỏng manh thuyền
Chèo chống đàn em dại
Tôi là người Hànội
Thuộc rất nhiều Hànội văn chương
Hànội ca trù lúng liếng
Hànội Ba Đình nắng
Hànội sông Hồng nước lên
Nhưng Hà Nội em
Tôi chưa hề biết
Ca trù thuyền phá luật
Đàn gảy nín cung thương
Trống chầu giữ nhịp
Tôi kịp lên thuyền
Hợp sức cùng em vượt thác
Cảm động tình Bích Câu thuở trước
Em từ tranh tố nữ bước ra
Tôi hân hoan đón kỳ ngộ bây giờ
Duyên Nhật Nguyệt
Đời em mưa phùn gió bấc
Áo tình một chiếc phong phanh
Trao nhau tấm chân thành
Nụ hôn người Hànội
Nụ hôn tự biết thăng hoa
Yêu em thế nào tôi chẳng thể nói ra
Bởi đôi tay biết nói
Lời mồ hôi,lời giá cóng
Lời mềm nặn sữa nuôi con
Lời thèm mắt ngủ
Lời kẽo kẹt làm chồng làm vợ
Hoa Ngọc hà xuống phố ban mai
Hànội mình những năm bảy mươi
Kỳ ngộ tình bao nhiêu trang đẹp
Cô bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc
Thiệp hôn phủ xác nửa mình
Anh pháo thủ phố hHàng Mành
Gặp nửa mình tiếp đạn
Anh thợ điện ngoài Ô Quan Chưởng
Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên
Anh giao cận Kim Liên
Ao thu nửa mình đứng tắm
Kể sao hết những Tú Uyên muôn vạn
Gặp muôn vạn Giáng Kiều mọi nẻo thành đô
Những kỳ ngộ đẹp như thơ
Tình mình sánh làm sao được
Ấy là lẽ vì sao em không khóc
Trước gian nan tem gạo phiếu tiền
Ấy là lẽ tôi nói lời yêu em
Biết là mình đáng sống
Ấy là lẽ vì sao tứ thời dép lốp áo xanh
Dép lốp bè trầm,áo xanh bè bổng
Gió kinh thành ngũ sắc hoan ca
Ấy là lẽ vì sao sao xa
Vào mắt em lay láy
Ca trù mùa thu…
Bài 2
THUYỀN TÌNH
Con cái đứa nào cũng đứt ruột đẻ ra
Nhưng Mẹ thương con nhất
Thương thằng mộng mị thơ ca
Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn
Cuộc đời làm sao đủ ván
Đóng nên thuyền tình
Biển gần bờ cá cạn
Khơi xa sóng kình
Mẹ gieo quẻ tiền chinh
Hai chinh úp sấp
Công sinh thành con chưa báo đáp
Cớ chi để Mẹ lo buồn
Con yêu em thật lòng
Nợ vay từ thuở hư không
Nắm tay nhau kết phiến thuyền tình
Mã quẻ chinh thần thánh không lời
Linh cảm bể yêu sóng lớn
Để thuyền tình không đắm
Thuyền tình phải khẳm yêu
Mẹ lội qua sông
Mẹ ra tận biển
Mẹ bóc yếm đào
Mẹ nhào sữa kiệt
Chét khe ván mỏng thuyền yêu
Mẹ đan tay đôi lứa vào nhau
Lời ngàn cân cầu nguyện
Thuyền yêu qua gió giông
Thuyền yêu qua trăng hoa
Ván sữa chung tình
Buông nguyện cầu
Mẹ gieo quẻ tiền Chinh
Một chinh cười
Một chinh khóc
Mẹ tạ Âm Dương
Thấu cảm lòng tình
Con nép khóc gục đầu ngực Mẹ
Vòng tay già gầy guộc ôm con
Thuyền tình hạ thủy
Bài 3
VƯỜN CHIỀU
Một vườn chiều có thực
Máy bay địch đã bay xa
Hai đứa nhoi lên từ hầm trú ẩn
Và một vườn chiều khác hẳn
Tiên Dung căng màn trên cát mềm
Sao em chọn chỗ này để tắm ?
Chử Đồng Tử tôi nghèo lắm
Khoan khoan xối nước khoan khoan
Chớ đễ thịt da tôi đắc tội
Chớ để đau lòng mẹ cha…
Em là hoa không hoa
Mắt cười xanh lắm
Trong mắt ấy thật nhiều ảo ảnh
Như thực lại như mơ
Đôi mắt chào tôi quen tự ngày xưa
Cái ngày xưa cổ tích
Em mời tôi nhấm nháp táo dầm
Chưa mở đèn vườn chiều âm âm
Ghế đá lạnh se sương sớm
Em bảo từ phía tương tư thơ em đến
Đòi tôi cho nghe thơ
Thơ hơn mọi bài thơ
Nước trôi nước trôi xiêm áo cát
Tình yêu đầm Dạ Trạch
Thanh cao vòi vọi Tiên Dung
Tôi giáo đầu em nghe một tỏ tình buồn
Về căn nhà tôi ở
Khói hun muỗi khét mùi hương giẻ
Muỗi bay
Muỗi bay có làm em sợ ?
Tôi đang độc ẩm cuồng say
Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói
Bao nhiêu triệu người đang đói
Có thơ uống như tôi đâu
Sao em lại cúi đầu
Thương tôi mắt khóc
Tiên Dung không khóc
Nàng nắm tay Chử Đồng Tử đỡ lên
Xối nước tắm cho chàng
Và hát….
Tôi đọc em nghe thơ một người tàng tật
Hoảng loạn chân trên đường
Vai quẩy gánh buồn
Tưởng thóc giống quơ tay tung vãi
Đôi khi giật mình sợ hãi
Lấm lét nhìn quanh một sắc áo vàng
Em nắm tay tôi sát lại bên mình
Như sợ tôi bị bắt
Tóc em đôi ba chiếc
Rối rít tìm mặt tôi
Tiên Dung thánh thót từng lời
An ủi Chử nỗi lo cha mẹ nàng phạt vạ
Cha mẹ sẽ tác thành chúng ta nên vợ nên chồng
Nghèo không có tội chàng ơi…
Tôi đọc em nghe một khúc không lời
Tình yêu chẳng bao giờ xưa cũ
Hoan phối tả trên trống đồng Ngọc Lũ
Trần tục thăng hoa
Giếng Ngọc kể chuyện Cổ Loa
Trương Chi tương tư
Trương Chi hát
Trương Chi nhớ thương em
Vườn chiều cười khúc khích
Trong em nhìn,tôi như mới mười ba
Mười ba ngây thơ
Mười ba mơ hồ
Vồi vội nụ hôn hoa sữa
Trời cũng như trăng trời thương Chử
Nhưng Chử tránh mặt trời
Chử không muốn xóm làng xấu hổ
Chử không khố đóng nàng ơi
Trăng đầy rồi trăng vơi
Trăng cấy lúa bắt còng cùng Chử…
Tôi đọc em nghe thơ diêm dân đồng bể
Biển quê mình nhiều thế
Nắng quê mình nhiều thế
Be bờ phơi là thành muối trắng tinh
Rỗ mặt vẫn nặng lòng làm muối
Muối nhiều thế mà bao đời vẫn đói
Chẳng lẽ thượng du không phải đồng bào ?
Rồng rắn lên mây trẻ hát đồng dao
Trẻ hát đồng dao lên mây rồng rắn
Thà là đừng nhiều nắng
Thà là đừng nhiều bể
Câu đồng dao trẻ hát rối mù
Tiên Dung hát ru
Bài xe tơ dệt vải
Chử hát giữa trời nắng cháy
Bài ca vỡ đất mênh mông…
Muốn em nghe câu hỏi dấu trong lòng
Về dòng sông chảy qua làng Việt cổ
Những cô gái dâng mình cho Hà Bá
Xin sông đừng lũ lụt sông ơi
Những cô gái bị gọt đầu bôi vôi
Khác gì nhau giữa hai lẽ sống chết
Một chết trinh và một chết yêu
Em phỉ phui tôi
Ngón tay thơm khép bờ môi chín
Em kỵ nói chuyện rồi phải đến
Vườn chiều hôi hổi gió chim
Chử lội khắp làng trên
Dậy dân làng trồng lúa nước
Tiên Dung đi cùng xóm dưới
Dạy thôn nữ tầm tơ…
Tôi đọc em nghe thơ không chỉ là thơ
Là ước nguyện tôi từ tấm bé
Hai chân dung người tôi muốn vẽ
Suốt đời vẫn chửa vẽ xong
Bà tôi đi gánh lưng còng
Giã trầu câu ru Tô Thị
Tự khi nào mắt bà thành mắt mẹ
Chẳng còn lệ khóc chờ con
Bao nhiêu trai tráng tòng quân
Chiến tranh liên miên ngày về vô định
Nhưng sông Hát vẫn ru lời thần thánh
Tô Thị hóa đá để còn làng
Còn làng mẹ hóa đá chờ con…
Vườn chiều đang ngẩn ngơ thương
Chử Đồng Tử,Tiên Dung bay vào mây trắng
Có thể nay mai họ lại xuống vườn chiều
Lại viết kỳ tích yêu lạ khác
Phải không em ?
Không lời đáp chỉ bàn tay lạnh ướt
Em đã buông tay tôi đi tự lúc nào
Còn đây hơi ấm nôn nao
Chia tay đến một câu chào cũng không
Vườn chiều mênh mông
Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số
Cầu mong đấy chỉ là cái cớ
Để em đi
Máy bay địch đã bay xa mãi
Sẽ là cái cớ để em về
Nhưng máy bay địch đã bay xa xa mãi
Người tương tư thơ ấy vẫn chưa về…
Bài 4
ĐÁM CƯỚI BẠC
Xin trời đất linh thiêng
Nhận chúng con một bái
Sau bão giông là mưa thuận gió hòa
Sau lũ lụt là đồng xanh trái chin
Ba mươi năm dài hay ngắn
Đầm ấm một lương duyên ?
Xin mẹ cha cô bác
Xin những ai ba mươi năm trước
Dự mừng hôn lễ chúng tôi
Nay đã về trời làm gió làm mưa
Nhận chúng tôi một bái
Lời trăm năm thắm nửa đoạn đường.
Xin hồn con tội nghiệp mẹ cha nghèo
Vội vàng giã biệt
Xin mái nhà của cha giột nát
Một đàn con lợp không xong
Hư không hỡi hư không
Bái này còn ân hận mãi.
Xin bạn bè xa ngoái lại
Xin bạn bè gần đừng đi
Ba mươi năm tưởng mới hôm qua
Hôi hổi bàn tay tình bạn
Đá vàng hoạn nạn hoan ca
Bái này xin tình nhận.
Còn bái ngũ chúng tôi tạ nhau
Ba mươi năm ta lại lễ tơ hồng
Vẫn xinh đẹp là em ngày ấy
Vẫn đấng nam nhi là anh ngày ấy
Con cháu ta nếp tẻ một sân đời
Nào cho anh một nụ hôn lửa cháy.
Đám cưới cổ đổ rượu nàng Vân
Đám cưới tân ba tầng rượu chát
Chúng mình cưới nhau
Chỉ có trà đào và quy gai quy xốp
Thuốc là điếu vấn sợi vàng
Và tiếng máy bay địch đã bay xa.
Em chưa một lần làm hoàng hậu
Khăn đóng áo dài thêu
Ai đó tặng đôi gối cưới
Chim câu quấn quýt đến bây giờ
Bạn bè tặng rất nhiều thơ
Vần điệu một đời rơi nước mắt.
Ba mươi năm em vẫn em chân chất
Rượu làng Vân em rót mời anh
Ly rượu chát anh mừng mình
Vui gì mà em đẹp thế ?
Ba mươi năm vẫn hôn nồng nàn thế ?
Đám cưới cổ bỗng nhiên tân.
Em nhận tất cả những lời mừng
Rồi trả lời mừng từng người một
Nhờ giữ dùm cho hai mươi năm sau
Trong đám cưới vàng
Em xin nhận lại
Đeo cổ tình một chiếc kiềng yêu.
Đêm ấy anh mơ thấy đám cưới vàng
Em làm hoàng hậu
Gót hài thơ thẩn chờ ai
Anh giật mình gọi tỉnh
Em cười trong tiếng trách yêu
Rượu làng Vân say lịm…
Bài 5,6
Bài 5
SÔNG TƯƠNG
Gió thổi qua mắt em
Gió mang theo vị mặn
Mắt em nhìn đâu sao lâu chớp thế
Có phải em dong thuyền ra bể
Lỡ rớt mái chèo trên sông Tương ?
Hỏi em anh bỗng nhiên buồn
Chiều nhạt nắng tóc xõa vai nhạt nắng
Sông Tương
Sông Tương ở đâu
Mà ai cũng đi qua sông Tương nhỉ
Ai đi qua cũng rớt mái chèo ?
Bài 6
TRĂNG MẬT
Ngày nhành hoa yêu kiều
Đồng đất hoang vu nắng hạ
Rón rén đến gần nằm dài trên cỏ
Anh đăm đắm mắt
Đu đưa hương gió thay lời
Anh nhận đón hương em tận ngực
Trăm vòng trời biếc anh bay.
Đêm một khoé trăng tươi
Vắt veo ngang cửa gió
Hai bàn tay anh đỡ
Sữa Trăng khát những ngụm đầy
Đàn chưa thôi réo rắt
Anh nâng thơ ngang ngực
Trăng mỏng mảnh hoà tan.
Rồi em phì nhiêu như đồng xanh
Rồi em ngát thơm trang sách
Rồi em vợ một đời.
Bài 7
VIẾT TRÊN GIƯỜNG BỆNH
1
Lời phỉ phui anh chưa định viết
Cho mai sau về cuộc đời mình
Giấc ngủ bệnh hỏa thiêu thân xác
Thân em dâng một sông tình
Biển vô cảm chìa ngàn tay sóng
Đón tro đời một thời yêu
Em trói sóng lời ru mềm lắm
Mơ hồ buồn sóng lặng về khơi
Đã thề yêu nhau trọn đời
Đời đã trọn đâu mà trốn
Vú tình còn sữa nuôi con
Câu ru nhập xác hóa hồn
Mở mắt
Em rạng ngời gương nguyệt
2
Kìa sao gương nguyệt lại mưa
Trong nhạt nhòa đã ló ra nắng trời
Nhện buồn sao chửa giăng vui
Chấu chưa cắn hết những lời tro than
Tình yêu chưa đứt sợi đàn
Tay thịt vẫn nắm mát bàn tay da
Tay da nào chịu rời xa
Tay thịt chong mắt thiết tha khấn thầm
Tai tri kỷ,mắt tri âm
Tình yêu đắng ngọt từng vần thơ buông
Xin đừng thảng dại thìa thương
Ngoài trời nắng vãi đầy vườn giọt hoa
Giọt nào cho cuộc tình ta
Để khi tắt nắng ta ra nhặt về.
Thơ Nguyễn nguyên bảy
LikeLiked by 1 person
Năm 2004 tôi về Sài Gòn, được anh bạn tên Ba Đào chép cho bài thơ Bói Kiều, không biết của thi sĩ nào, tôi đọc thích lắm vẫn có ý hỏi tìm tác giả. Cuối năm rồi (2010) về lại Sài Gòn được anh Ba Đào cho nguyên tập thơ tổ trảng của thi sĩ rất lạ, tên là Nguyễn Nguyên Bảy, tôi đem theo về Mỹ, đọc hết, mới hay bài Bói Kiều tôi thích năm nào là của ông “thầy” này. Nay lướt mạng, thấy viết bài Sông cái của ông thầy, tôi xin chép lại bài Bói Kiều để mua vui cùng bà con ta lúc nhó nhà, nhớ quê.
.
Bói Kiều
.
Tôi bói Kiều xin một chút vui
Thương phận mình phúc mỏng
Sao chỉ thấy Tiền Đường vỗ sóng
Hiển hiện đôi môi chon chót Thuý Kiều cười.
Cay đắng Kiều cay đắng lắm tôi ơi
Khốn khổ Kiều khốn khổ lắm tôi ơi
Cho dẫu Kiều chẳng có hồi đoàn viên Kim Trọng
Kiều vẫn sống tôi ơi.
Bể trầm luân ai bể bằng đời Kiều
Đi hết bể trầm luân nàng sống mãi
Tâm trí tôi nụ cười nàng nở nói
Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao.
Xuân Tùng kính chào qui vị.
LikeLiked by 1 person