Xóm cao bồi trên đỉnh đèo hiu quạnh

vnexpress


Trên quốc lộ 25 đoạn qua đèo Chư Sê thuộc xã H’Bông (huyện Chư Sê, Gia Lai) có một khu dân cư nhỏ được mệnh danh là xóm bò hay xóm cao bồi. Dân ở đây hầu như đều chăn bò thuê, có nhà nhận đến cả trăm con.

Thế hệ trẻ của xóm chăn bò. Ảnh: Tùy Phong
Thế hệ trẻ của xóm chăn bò. Ảnh: Tùy Phong

Chỉ cần đi ngang qua, dù nhắm mắt cũng nhận ra khu dân cư này, bởi cái mùi ngai ngái của phân khắp một đoạn đường dài.

Gọi là xóm cho oai chứ thực ra nhà ở đây rất thưa thớt, phần lớn tạm bợ, cạnh nhà thường có những cái chuồng và những đống phân bò to tướng. Dân cư phần đông là đồng bào J’rai bản địa, số còn lại đều đến từ các tỉnh miền Trung với hoàn cảnh nghèo, không nghề nghiệp. Họ nhận và gắn với nghiệp chăn bò thuê âu cũng chỉ vì miếng cơm manh áo.

Con đường nhỏ đầy dấu chân và phân bò dẫn đến nhà vợ chồng lão “cao bồi” mù Nguyễn Văn Lo (50 tuổi), Nguyễn Thị Hiển (48 tuổi), làng Ring 2, xã H’bông. Đấy là một căn lều tôn dựng tạm, mỗi khi có cơn gió thoảng qua những tấm tôn cạ vào nhau nghe ken két đến rợn tai.

Căn lều chừng hơn 20m2 trống huơ trống hoác ấy là mái ấm 5 con người (vợ chồng ông Lo và 3 con trai). Nhiều năm nay mái lều này chống chọi với tình cảnh mùa nắng thì nóng nực hơn bên ngoài, còn mưa thì chỉ có nước co ro trong chiếc chăn mỏng.

Phía sau nhà là một cái chuồng lớn nhốt 60 con bò gia đình ông Lo nhận chăn thuê. Châm điếu thuốc, ông Lo kể: Năm 2004, gia đình dắt díu nhau rời xã Bình Thành (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) với hành trang ba không (không vốn, không đất canh tác, không trình độ) lên làng Ring 2 nhận chăn bò thuê cho một đại gia.

“Tôi mù lòa, bà vợ đau ốm liên miên nên thằng con lớn Nguyễn Hữu Đăng là trụ cột đứng ra nhận hợp đồng chăn 60 con bò. Thằng Đăng là lao động chính, 2 đứa em song sinh của nó là lao động phụ chăn dắt”. Đăng chỉ mới 20 tuổi, học đến lớp 4 thì nghỉ, hai cậu em sinh đôi năm nay 16 tuổi cũng học chưa hết cấp I.

Ông Lo chậm rãi rít thuốc: “Như hiện tại đã là tốt hơn nhiều so với ở quê rồi đấy. Hồi ở quê, cả nhà làm đủ thứ nghề không tên nhưng cuộc sống vẫn cứ mãi thiếu trước hụt sau”. Với 60 con bò nhận chăn theo phương thức khoán mỗi đầu là 250.000 đồng một năm, phần phân bò thuộc sở hữu người chăn, thì thu nhập cả cả nhà cũng được hơn 50 triệu đồng mỗi năm. Nghĩa là bình quân một lao động chính cũng thu trên 2 triệu đồng một tháng, lao động phụ thì 1,5 triệu đồng.

Nói chung, nghề này tuy cực khổ, hôi hám, thu nhập cũng chẳng nhiều nhưng được cái ổn định. Chịu khó chắt chiu thì 5 miệng ăn vẫn có thể nói là không phải lo đói, theo chủ nhà.

“Cao bồi” trong chuồng bò. Ảnh: Tùy Phong

Kể về nỗi cơ cực của nghề này, anh Đăng tiếp lời cha, có những hôm mưa gió bão bùng nhưng họ vẫn phải luồn rừng chăn bò, chỉ sợ chúng đi lạc mất. Có lần bò lạc phải đi tìm đến mấy ngày liền lận, cũng phải cố thôi chứ nếu không thì tiền đâu mà đền cho chủ. Cứ khoảng 8h sáng, mấy anh em thay phiên nhau lùa bò ra bãi chăn, đến tối khi bò no đẫy bụng mới về. Người ở nhà thì xúc phân đem ra phơi.

Cạnh nhà ông Lo là căn lều của anh Nguyễn Kim Tuấn (46 tuổi, quê ở tỉnh Thừa Thiên – Huế). Anh loay hoay xúc phân trong chuồng bò.

Anh Tuấn kể, ở quê, 2 vợ chồng dù làm đầu tắt mặt tối nhưng cũng chỉ đủ lấp 4 miệng ăn (2 vợ chồng và 2 con nhỏ). Năm nào mất mùa, gặp hạn hán, thiên tai lũ lụt thì cả nhà luôn trong cảnh đói rét. Nghe người quen rỉ tai về một cuộc sống dễ thở hơn nên cả gia đình quyết định Tây nguyên tiến. Mới đó mà gia đình anh Tuấn gắn với cái nghiệp chăn bò thuê đã được hơn 7 năm trời.

Theo anh Tuấn thì khu vực này có hơn 6.000 con bò, với khoảng 40 trại, mỗi trại có từ 60 đến hơn 100 con, chủ yếu là bò của hai ông Phúc và Huy (ông Huy là con rể ông phúc). Trước đây, nghề này khá dễ dàng nhưng hiện tại việc chăn dắt rất khó khăn và cơ cực hơn nhiều. Rừng bị phá, rẫy thi nhau mọc lên, do đó bãi chăn thả thu hẹp lại và khan hiếm dần. Bò phải đi xa hơn và khi về đến chuồng, lượng phân rơi rớt khá nhiều trên đường đi. Mà hễ sơ sẩy để bò vào rẫy người ta thì thế nào cũng bị chặt chân, chặt đuôi. Bên cạnh đó là nạn trộm cắp bò cũng xảy ra nhiều hơn và hành vi, thủ đoạn ngày càng táo tợn hơn.

Hợp đồng làm ăn được ký kết giữa chủ bò và người chăn thuê theo hai phương thức. Nuôi rẽ là cứ mỗi con bò đẻ được hai con bê, chủ thu về một con. Nuôi tính theo đầu bò, nghĩa là người nuôi lấy tiền chăn dắt và phân, còn bò vẫn là của chủ. Theo hợp đồng, bò chết vì dịch bệnh, thiên tai là nguyên nhân khách quan nên nếu còn xác thì không phải đền. “Vì vậy, nhiều khi chúng tôi phải luồn rừng mấy ngày liền chỉ để tìm… xác bò”, anh Tuấn bộc bạch.

Từng đàn bò về chuồng lúc hoàng hôn. Ảnh: Tùy Phong
Từng đàn bò về chuồng lúc hoàng hôn. Ảnh: Tùy Phong

Ban đầu, hầu hết số “cao bồi” đến từ các tỉnh miền Trung gắn với cái nghiệp chăn bò chỉ vì trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, khi đã ổn định, họ bắt đầu có động cơ cao hơn, mơ ước cao hơn. Họ đang cố chắt bóp tiền cho con cái học hành hòng thay đổi số phận.

Chỉ vào đống phân bò to tướng đang phơi, anh Tuấn cho biết, đây là thu nhập chính của gia đình bởi mỗi khối phân khô hiện tại có giá đến 550.000 đồng. Đó là giá bán tận gốc chứ những người thu mua bán lại đến hơn triệu đồng. Phân được dân trồng tiêu ở các huyện Chư Sê, Chư Pưh và người trồng cà phê khắp Gia Lai, Đăk Lăk rất ưa chuộng nên làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đấy, thậm chí bạn hàng cứ gọi điện thoại hối suốt.

Cứ chừng hai ngày là gia đình xuất bán một lần nếu trời nắng, trời mưa thì lâu hơn. Nói về mùi ngai ngái của phân bò, anh Tuấn cười: “Chúng tôi ngửi riết nên cũng quen rồi”. Nói chung, nếu chịu khó thì hai vợ chồng mỗi tháng cũng có thể kiếm được 6 triệu đồng để trang trải chuyện ăn uống hàng ngày và lo cho 2 cháu học hành. Còn tiền chăn đầu bò (chừng 20 triệu đồng một năm) coi như là của để dành cho các con đi học cao hơn trong tương lai.

Anh Tuấn bộc bạch, nghề này hơi cực một chút nhưng cho thu nhập cũng tốt. Ở quê làm gì kiếm được việc ngon lành như vậy. “Tui dự định, khi nào các con học xong, có việc làm ổn định thì sẽ nghỉ hưu kiếm chuyện khác mà làm. Đây không thể nào là cái nghiệp gắn cả cuộc đời mình được”, người đàn ông nói.

Trên một bãi chăn bò, hàng chục đứa trẻ loắt choắt người J’rai đang nô đùa. Cậu bé Rah Mah Tih, đang học lớp 4 cho biết, cứ một buổi đến trường, buổi còn lại em phụ ba mẹ đi chăn bò. Một công đôi việc, Tih đồng thời dắt theo các em để tiện trông chừng cho ba mẹ yên tâm đi rẫy.

Tih kể thêm rằng, những ngày mùa nắng, đám trẻ của Tih thường mang theo gùi để nhặt phân khô. Khi nào đống phân ở nhà đủ khối thì gọi người đến bán cũng kiếm được một số tiền kha khá để mua sách vở, quần áo…

Ngọc Linh

One thought on “Xóm cao bồi trên đỉnh đèo hiu quạnh”

Leave a comment