Tag Archives: Chứng Nhân

Thay đổi 360 độ – Đi trên dây thừng căng

Chào các bạn,

Hôm nay mình tình cờ đọc được Note rất hay “I find him 360 degrees changed“ của bạn Hoài Chung trên Facebook mà ĐCN đã có dịp giới thiệu với các bạn qua bài hát ““If you can do it, you’re a hero” .

Hoài Chung kể về cảm xúc của bạn về bạn Tân Nguyễn, người được chọn làm một trong hai sinh viên tiêu biểu đứng lên đọc diễn văn tốt nghiệp của trường đại học Brown. Note ngắn của Hoài Chung đem tới một cái nhìn thật gần gũi với Tân.
Continue reading Thay đổi 360 độ – Đi trên dây thừng căng

Ở một lớp học khác thường

Thầy Thiện có nhiều đóng góp cho người khiếm thị tiếp cận tin học

(SVVN) Lần đầu tiên, các trường đại học trong nước có một lớp học dành riêng cho người khiếm thị. Đó là lớp Tin học văn phòng cho người khiếm thị, thuộc trường ĐH Văn Lang TP. HCM, do thầy Trần Bá Thiện đảm nhiệm – một lớp học đặc biệt.
Continue reading Ở một lớp học khác thường

Một trái tim son của nghề giáo

Người thầy ấy 50 tuổi, có 14 năm đứng lớp và cũng chừng ấy năm làm công tác phổ cập cho bậc tiểu học ở Gò Công Đông, Tiền Giang. Gặp tôi, thầy say sưa kể về trường lớp, về học trò trước khi nói đến những vất vả, bất hạnh của riêng mình.
Continue reading Một trái tim son của nghề giáo

Cậu bạn chuyên Lý “siêu” thực nghiệm

(Dân trí) – Gương mặt trắng trẻo toát lên vẻ thư sinh. Đó là ấn tượng đầu tiên của mọi người khi tiếp xúc với Phạm Tiến Hùng, lớp B0K22A, khối THPT chuyên Vật lý, ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG Hà Nội), chủ nhân Huy chương bạc cuộc thi Olympic Vật lý châu Á 2010.
Continue reading Cậu bạn chuyên Lý “siêu” thực nghiệm

Đói no gì cũng phải học

Học bổng – Giải thưởng “Bạn tôi – người vượt khó”

Đói no gì cũng phải học

TT – Trong đợt về quê vừa rồi, tôi biết được câu chuyện của các em, một câu chuyện lạ lùng, tưởng khó có thật trên đời…

Phan Thị Kim Nhung giữ lời mẹ dạy: đói cũng học, no cũng học – Ảnh: N.T.L.Dung

Continue reading Đói no gì cũng phải học

Hai nữ sinh mở thư viện sách miễn phí… giữa công viên

(Dân trí) – Chủ nhật hàng tuần, khu “nhà chòi” trong công viên Lê Văn Tám, Q.1, TPHCM lại nhộn nhịp người tìm đến đọc sách miễn phí. Thư viện mini giữa công viên này là ý tưởng của hai nữ sinh vốn rất mê sách.

Hai cô gái đều là sinh viên năm ba của Trường ĐH Kinh tế TPHCM: Nguyễn Thu Hiền, khoa Tài chính Doanh nghiệp và Nguyễn Thị Thảo, khoa Marketing.
Continue reading Hai nữ sinh mở thư viện sách miễn phí… giữa công viên

Rơi lệ trước tấm gương học sinh quên mình cứu bạn

Thứ Ba, 11/05/2010 – 08:26

(Dân trí) – Nghe tiếng kêu cứu của nhóm bạn dưới hồ, Hà và Hậu nhanh chóng nhảy xuống cứu bạn. Vật lộn với dòng nước, Hà và Hậu đã đưa được hai bạn gái vào bờ. Xót xa khi thấy hai bạn khác vẫn đang cố vùng vẫy tuyệt vọng, Hà lại lao ra dòng nước sâu….
Continue reading Rơi lệ trước tấm gương học sinh quên mình cứu bạn

Cô giáo Triều lên rừng xóa “trắng”

Cô giáo Triều chăm chút từng nét vẽ cho học trò
Ảnh: Trương Quang Nam

.

Một cô gái chưa đầy 30 tuổi đã kiên trì từ năm này sang năm khác viết đơn tình nguyện lên vùng cao mở lớp mẫu giáo cho trẻ đồng bào Ma Coong. Đó là cô giáo Trần Thị Kim Triều, quê ở xã Xuân Trạch, H.Bố Trạch, Quảng Bình.

Cựu giám đốc cưu mang gần 100 người vô gia cư

VnExpress

Trên đường công tác, thấy một thanh niên khắp mình lở loét, kiến lửa bu đầy đang nằm vật vã trên một vũng nước ở công viên, ông Hoàng dừng xe, vực chàng trai dậy và đưa về nhà chăm sóc.

Nhớ…

Thương nhớ Trịnh Công Sơn

Anh đi ngày “Cá tháng tư”
Có ai nói dối tạ từ người thân?
Cuộc đời thật – dối – giả – chân
Cung đàn ngân lắng muôn phần tin yêu

Hoa thơm sớm nở tàn chiều
Nhân gian day dứt bao điều trở trăn
Muôn đời ấy Quả lòng Nhân
Hạt bụi nào lẫn muôn phần cỏ cây
Đường tên Anh tận trời Tây
Mấy ai đến được cõi này nhân gian
Dẫu rồi vàng đá nát tan
Thì muôn năm có lẫn vàng với thau ?

Ngày nói dối, xót xa đau
Nén hương lòng sáng một mầu tri ân
Trời cao xanh có thấu chăng
Nắng cuộc đời vẫn thắm hồng tin yêu

1.4.2010
Trần Vân Hạc

Đi và Đến với DRD

Đi ra thế giới bên ngoài: điều đó bao giờ cũng có sức hấp dẫn đầy mê hoặc với mình thời trẻ, và ngay cả bây giờ khi đã sắp cầm trong tay cái sổ lương hưu. Mình luôn tâm niệm lời dạy của Đạt Lai Lạt Ma, về một trong những bí quyết sống hạnh phúc “ Mỗi năm một lần đi tới một nơi nào đó mà mình chưa từng đến”, nhưng vì hoàn cảnh gia đình và công việc dạy học nên ít khi thực hiện được. Bấy lâu, mình tự an ủi rằng tuy chưa đến được nhiều nơi mới, chí ít mình đã có thể tìm về những yêu thương xưa: Sài Gòn, Nha Trang và Đà Lạt.

Những ngày tháng ba 2010 này dường như mình đi nhiều quá! Tạm gác lại những bận rộn của công việc và gia đình, đi theo tiếng gọi của những niềm yêu, của sự quyến rũ cho một cuộc viễn du. Giờ đây trong mình còn đọng lại vô vàn cảm xúc từ những chuyến đi.

Những cuộc ra đi, đến những nơi mới gặp gỡ, tạ từ – với thật nhiều cảm xúc và lưu luyến đã để lại một dấu ấn sâu nặng và tốt đẹp trong lòng. Mình đã có những trải nghiệm dễ chịu thích thú ở những nơi mới qua, thấy được rằng đất nước mình giàu đẹp và xao xuyến một tình yêu quê.

Này Tây Đô duyên dáng với đêm hóng gió ở bến Ninh Kiều ngắm người ta dạo mát. Mình đã cuốc bộ một chặng rất dài với đôi chân thường vội để bước chậm đến một quán bình dân, thưởng thức món bánh chạo tôm được giới thiệu là một trong những món đặc biệt của Cần Thơ. Ngon thực cũng vì đói nữa do đi bộ. Thực thú vị với cảnh sông nước chợ Nổi Cái Răng tấp nập buôn bán trên ghe của người nông dân Nam bộ. Khi ngồi xe dạo qua phố phường tráng lệ của Đà Nẵng, mình cảm nhận rõ ràng sự thay đổi rất tốt đẹp của thành phố (có ngôi trường đại học ở đó mình có nhiều kỉ niệm trong đời )- so với 22 năm trước. Rồi một ngày vui đón gió và nắng trên thuyền máy, ngao du 6 tiếng trên sông Thu Bồn, để thấy cảnh quê hương mình tuyệt đẹp, nhất là khi đồng hành có những anh – chị – em mến yêu.

Nhưng xin được các bạn dành sự chú ý cho một địa điểm tại Sài Gòn – một thành phố quen thuộc mình vẫn đi về mỗi năm vì những thâm tinh theo tiếng gọi của yêu thương : Nơi ấy là Hội quán Đời Rất Đẹp– một nơi mình mới đến lần đầu mà sao cảm thấy quen thuộc và thân thương quá! Cái tên Đời Rất Đẹp cứ như những nốt nhạc vui, êm dịu ngân nga trong lòng, giống như giai điệu của bản nhạc Beautiful That Way của nhạc sĩ Nicola Piovani do Noa hát trong phim Life Is Beautiful mình từng đưa link và giới thiệu với các bạn ở đây:

Beautiful That Way

Chính vì những cảm xúc tuyệt vời của nhóm chúng mình trong đêm hôm đó, nên mình muốn gửi lời cám ơn đến Đàm Lan, người đã giới thiệu- kết nối cho cả nhóm đến với những người bạn ở hội quán DRD. Vâng Đời Rất Đẹp, một nơi gặp gỡ của những tình yêu lớn với cuộc đời, với con người, nơi hội tụ những nụ cười rộng mở sáng tươi, vượt lên thân phận của kiếp người, toạ lạc tại một địa điểm yên tĩnh khung cảnh thật đẹp ở số 91/ 6N đường Hoà Hưng, Phường 12 Quận 10., thành phố Hồ Chí Minh.

Có lẽ Đời Rất Đẹp chưa được nhiều người biết đến, bởi DRD mới được khai trương ngày 12/ 3/ 2010. Cả nhóm không thể đến vào đêm khai trương hội quán như ý muốn, nhưng đêm 23/ 3 / 2010 tại hội quán là một đêm rất đẹp, rất thơ và đầy nhạc của cả nhóm. Mọi người có mặt đã đồng cảm sâu sắc và ngập tràn hạnh phúc.

Các bạn và học trò thân đều biết mình vô cùng yêu thích nhạc Trịnh Cộng Sơn. Mình đã giới thiệu giọng ca Thuỷ Tiên với CD đầu tiên của người ca sĩ rất đặc biệt này cho các thân hữu. Sự ngưỡng mộ của mình với Thuỷ Tiên và Trịnh Công Sơn không chỉ dừng ở đó, mà từ thành phố núi xa xôi mình đã về tận Sài Gòn để được nghe Lệ Thu với Thuỷ Tiên và các ca sĩ khác vào một đêm Rơi Lệ Ru Người tôn vinh Trịnh Công Sơn. Hơn thế nữa, những nhân vật của Đời Rất Đẹp trong phim ảnh, và âm nhạc, trong hiện thực được ca ngợi ở những bài viết trên trang ĐCN, trong đó có sự khâm phục dành cho ca sĩ vượt lên số phận Thuỷ Tiên trong Hạt Giống Tâm Hồn – Quyền Lực Đích Thực

Hạt giống tâm hồn – Quyền lực đích thực

Trên bài Bạn Biết Giá Trị Của Mình

Đêm đó tại Đời Rất Đẹp, một bất ngờ thật thú vị khi cả nhóm được gặp ca sĩ Thuỷ Tiên, cùng với Chị Hoàng Yến, một nhân vật nổi tiếng trong và ngoài nước được mệnh danh: “ Người Mang Trái Tim Không Khuyết Tật “ của hơn 30 bài viết trên các báo và tạp chí gần đây. Thạc sĩ Võ thị Hoàng Yến là người sáng lập và điều hành chương trình Khuyết Tật và Phát Triển từ năm 2005, cũng là một giảng viên giảng dạy môn Hành Vi khoa Xã Hội Học ĐH Mở – Bán Công TP.HCM. Tháng 11 -2009, chị đã được trao giải Kazuo Itoga (Kazuo Itoga Memorial Prize), giải thưởng tôn vinh những cá nhân ở châu Á – Thái Bình Dương có những đóng góp nổi bật cho cuộc sống của người khuyết tật. Các bạn có thể đọc để hiểu thêm về DRD ( Đời Rất Đẹp) trên website http://www.drdvietnam.com

Và về chị Hoàng Yến trên rất nhiều link của các website và báo mạng khi bạn google tên Võ thị Hoàng Yến.
hay trên link này : http://drdvietnam.com/page/YenVo

.

Xin được trích dẫn ở đây một đoạn ngắn trong bài trả lời của Hoàng Yến cho VTV-Sức Sống Mới, (tác giả đã gửi cho nhóm của mình) để các bạn có khái niệm về DRD.

Hội quán DRD – Đời Rất Đẹp là ý tưởng của người sáng lập DRD- Chương trình Khuyết tật và Phát triển (Disability Resource and Development) và được sự đồng tình ủng hộ của tất cả các thành viên của DRD và bạn bè thân hữu. Đời Rất Đẹp nhằm tạo một sân chơi cho NKT, một nơi NKT có thể gặp gỡ, trao đổi, tham gia sinh hoạt với những người bạn không khuyết tật trên cơ sở bình đằng về cơ hội và cùng giúp nhau phát triển. Bao năm qua chúng ta vẫn kêu gọi NKT hòa nhập XH, khuyến khích và khích lệ các thành viên khác trong XH tạo điều kiện để NKT hòa nhập. Nhưng hòa nhập thế nào được khi mà môi trường sinh hoạt còn đầy rào cản, các nơi sinh hoạt vẫn không thể nào tiếp cận được, khi vẫn còn nhiều người nhìn NKT với ánh mặt tội nghiệp hay không thoải mái với cảm giác bị làm phiền khi NKT cần giúp đỡ.

Khi NKT đến hội quán họ sẽ cảm nhận được đây là “nơi của họ”, một nơi để họ cảm thấy rằng mình không hề đơn độc, một nơi họ có thể thể hiện khả năng/ tài năng của mình, một nơi họ có thể chia sẻ những khát khao về cuộc sống.Người không khuyết tật đến với hội quán để thấy rằng NKT không hề thiếu khả năng, không phải chỉ là gánh nặng cho gia đình hay xã hội mà họ vẫn có thể vui sống, làm việc, và cống hiến nếu họ có được cơ hội.

Khi đến với hội quán, tham gia các sinh hoạt, thật sự chia sẻ và thật sự lắng nghe – nghĩa là thật sự mở rộng trái tim để có thể đến được với nhau – ta sẽ cảm nhận được rằng Đời Rất Đẹp chứ không không phải “Đời sao mà chán quá!” như ta vẫn thường nghĩ khi cảm thấy cô đơn, hay trong khi tuyệt vọng….

Phần bất ngờ nhất của đêm 23/ 3 là nhóm chúng mình được nghe ca sĩ Thuỷ Tiên hát live, cùng giọng hát khi solo khi hát bè tuyệt vời, với ngón đàn tài hoa của chị Hoàng Yến. Cảm hứng và sự đồng cảm sâu sắc đã khiến cả nhóm lắng hồn mình theo những bài hát của Trịnh Công Sơn. Mình đã nghe không biết bao lần những bài hát do Thuỷ Tiên và các ca sĩ khác hát live hay trực tiếp trên TV, và CD như Rừng Xưa Đã Khép, Em Hãy Ngủ Đi, Xin Cho Tôi, Biết Đâu Nguồn Cội, Để Gió Cuốn Đi, …, nhưng chưa bao giờ lại thấy xúc động và hay đến vậy!

Vì thế, chị Tuý Phượng với cảm hứng dạt dào, đã lên hát rất tuyệt Hai Bài Không Tên số 1 và 2 của Vũ Thành An. Thuỳ Dương, cô em hiền như maseur của cả nhóm cũng góp giọng ca trong trẻo ngọt ngào qua Biển Nhớ, và Cho Đời Chút Ơn.

Bài hát cuối cùng, Hãy Yêu Nhau Đi, bài hát chưa đựng triết lý sống của mình đã khép lại một đêm ấm áp, trải lòng ra với chuyện của chúng mình, chuyện của những người dũng cảm vượt lên số phận, đầy ắp tiếng cười sau những giây phút lắng hồn với âm nhạc:

…..
Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người

Hãy yêu nhau đi bên đời nguy khốn
Hãy yêu nhau đi bù đắp cho trăm năm
Hãy yêu nhau đi cho ngày quên tháng
Dù đêm súng đạn, dù sáng mưa bom


Hãy trao cho nhau muôn ngàn yêu dấu
Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau
Trái tim cho ta nơi về nương náu
Được quên rất nhiều ngày tháng tiêu điều

Hội Quán DRD đang ở những ngày đầu tiên của tháng khai trương, còn mới mẻ. Với chi phí phải bỏ ra cho việc thuê mặt bằng rộng rãi, thoáng mát, ở một nơi yên tĩnh( với mức 34 triệu đồng / tháng), và trăm nghìn những thứ phải lo toan để có được một hội quán kết nối những trái tim, làm nơi sinh hoạt, học tập và huấn nghệ, … vì sự phát triển của cộng đồng PWDs, mà nhiều người cho rằng đây là một ý tưởng rất liều lĩnh của chị Hoàng Yến, DRD thực sự rất cần được mọi người chúng ta, nhất là các bạn ở thành phố Hồ Chí Minh biết đến và nhiệt tình ủng hộ.

Rất mong các bạn sẽ quan tâm, đọc các thông tin về dự án và chương trình Khuyết tật và Phát triển, về hội quán DRD của chị Hoàng Yến trên www.drdvietnam.com và xin mời các bạn thử một lần ghé thăm hội quán vào một lúc nào đó trong ngày hay đêm, một mình hay với cả nhóm bạn, càng đông càng vui. Chắc chắn rằng các bạn sẽ hài lòng với không gian, cảnh vật, cách bài trí, các món giải khát, và yêu mến những người làm việc ở DRD.

Các bạn đừng quên quảng bá cho thật nhiều người biết và đến với DRD trong 2 chương trình đặc biệt cho 3/ 4 và 9/ 4, nhân kỉ niệm ngày giỗ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Như thế là các bạn đang góp phần ủng hộ cho sự phát triển của Chương trình Khuyết tật và Phát triển, cộng đồng PWDs, và Đời Rất Đẹp .

Sắp tới ngày giỗ thứ 9 của người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn, xin các bạn một phút tưởng nhớ, thắp nén hương lòng đến người nhạc sĩ, mà âm nhạc của ông chúng ta ai cũng đắm say.

Thân ái chúc các bạn một ngày vui với những bài hát nhạc Trịnh bạn sẽ nghe trong ngày hôm nay, ngày mai 1/ 4 trên ĐCN và sắp tới ở DRD, số 91/ 6N đường Hoà Hưng, Phường 12 Quận 10., thành phố Hồ Chí Minh.


.
.

Người phụ nữ Thái hết lòng vì văn hóa dân tộc

Khi tôi hỏi thạc sỹ khoa học Lò Mai Cương “Điều tâm huyết nhất của mình trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa Thái là gì?” chị tươi cười, trong đôi mắt của chị như có hai đốm lửa:

– Đó là việc bảo tồn và phát triển chữ Thái, đưa chữ Thái vào giảng dạy trong nhà trường và cho người dân.

Vợ chồng chị Lò Mai Cương

Còn giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Sơn La thạc sỹ văn học Hoàng Kim Ngọc, thủ trưởng trực tiếp của chị vui vẻ:

– Đó là một người tài năng và tâm huyết!

Gặp chị, ai cũng bị cuốn hút bởi tình yêu nghề dạy học, tình yêu và nỗi trăn trở với việc bảo tồn và phát huy vốn văn hóa dân tộc. Là người con của dân tộc Thái, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn hóa, giáo dục. Bố chị là ông Lò Văn Mười, cố trưởng ty giáo dục khu tự trị Thái Mèo, chính ông đã từng khởi xướng và bước đầu thành công trong việc cải tiến chữ Thái. Chị không bao giờ quên được những con chữ đầu tiên do người cha thân yêu dạy. Còn mẹ chị, Cầm Thị Minh là người rất giỏi những điệu “khắp” cổ và sáng tác những tác bài hát mới của dân tộc Thái. Tự bao giờ, những lời ca mượt mà đằm lắng cùng những thiên truyện thơ bất hủ của dân tộc đã thấm vào chị, như mạch nước nguồn trong mát của quê hương không bao giờ vơi cạn.

Do nhiều yếu tố khách quan, người Thái ở Việt Nam có đến 8 hệ chữ khác nhau, bởi vậy việc tìm hiểu kho tàng văn hóa vô giá của tổ tiên để lại gặp nhiều khó khăn. Số người biết chữ ngày một ít đi. Kho tri thức quí báu ấy ngày có nguy cơ mai một. Chưa nói rằng, trước sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của xã hội. Một vấn đề lớn đặt ra là phải có một bộ chữ thống nhất được đưa vào giảng dạy, nhất là phải được số hóa, tạo điều kiện cho lớp trẻ và cộng đồng quốc tế dễ dàng tìm kiếm bằng các công cụ hiện đại của Internet.

Chính vì vậy ngay từ khi còn công tác ở trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Sơn La chị luôn trăn trở với việc xây dựng một bộ chữ chung và số hóa được bộ chữ đó. Nhưng khi bắt tay vào công việc, chị mới thấy có quá nhiều trở ngại, mà trước hết bộ chữ ấy phải đáp ứng được yêu cầu dân tộc và hiện đại, được người Thái ở các vùng miền và quốc tế thừa nhận. Thế là chị không quản ngày đêm, thử nghiệm, so sánh, cải tiến đưa 65/72 mẫu kí tự mã hóa vào Unicode. Chị vui lắm, bởi qua bộ font chữ cái do chị cải tiến và số hóa này đã được lựa chọn đại diện cho ngôn ngữ của cộng đồng người Thái ở Việt Nam và được nhóm kỹ thuật Unicode chọn và cấp mã nguồn. Người Thái ở khắp các tỉnh đều điện về và trực tiếp đến xin chị font chữ về sử dụng và đều rất khâm phục vì hiệu quả cao.

Tác giả TVH cùng chị Lò Mai Cương tại Hội thảo về việc dạy và học chữ Thái tại Lạng Sơn ngày 27–28.3.2010

Không thể kể hết được công sức của chị khi bắt tay nghiên cứu công trình này từ đầu những năm 90 và được thông qua từ năm 2005. Song chị không muốn nói về mình, chị thầm lặng cho ra đời nhiều đứa con tinh thần được cộng đồng người Thái và nhân dân các dân tộc nâng niu, đón nhận, đó là những áng văn, thơ, tục ngữ ca dao, những pho sử nổi tiếng của dân tộc Thái: “Tiễn dặn người yêu”, “Tục ngữ, ca dao Thái”… “Tâm tình tiếc thương”, “Tâm tình trêu ghẹo yêu thương… Chương trình dạy chữ Thái của chị cùng nhóm nghiên cứu đã được triển khai dạy trong trường Cao đắng Sư phạm và toàn tỉnh.

Gần đây khi Đảng và Nhà nước có chủ trương đưa ngôn ngữ dân tộc vào giảng dạy trong nhà trường và dạy cho cán bộ, viên chức đang công tác ở vùng miền núi và dân tộc khi và “Mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa dân tộc Thái” (VTIK), thuộc Trung tâm vì sự phát triển bền vững miền núi (CSDM) ra đời, chị như được chắp thêm đôi cánh.

Với cương vị là trưởng phòng bồi dưỡng, chị có thêm nhiều điều kiện để phát huy năng lực và ước nguyện của mình. Chị được giao nhiệm vụ phụ trách công việc bồi dưỡng tiếng và chữ Thái cho các trường dân tộc nội trú của 11 huyện thị, học sinh, cán bộ, viên chức, lực lượng vũ trang…

Đặc biệt năm 2010 này chị tham gia nhiều mảng đề tài về chữ viết, phong tục tập quán, trang phục… trong đề tài nghiên cứu cấp tỉnh: “Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Thái ở Sơn La trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do chính ủy viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch Hội đồng Nhân dân, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La Thào Xuân Sùng là chủ nhiệm đề tài.

Người viết bài này có quá trình sống và làm việc ở Tây Bắc 30 năm, quen biết gia đình chị đã lâu, mỗi lần đến thăm gia đình chị lại càng thêm khâm phục người chồng yêu quí của chị đã vượt lên mọi định kiến hẹp hòi, cổ hủ để quán xuyến việc nhà, chăm sóc con nhỏ cho chị đi học 6 năm trời để có bằng đại học và thạc sỹ suốt từ năm 1989 và dành cho chị thời gian nghiên cứu khoa học.

Chị không dấu nguyện vọng cháy bỏng của mình:

– Anh ạ, chữ Thái được hồi sinh, nhiều người đã đọc thông viết thạo, em vui vô cùng, bởi đó là cánh cửa mở ra để kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần tốt đẹp của cha ông.

Hướng về phía trời xa, chị trầm ngâm:

– Hiện nay Bảo tàng tỉnh Sơn La có đến 3.000 cuốn sách bằng chữ Thái cổ, nhưng kho tài sản vô giá ấy liệu có bền vững mãi trước sự tác động của thời gian. Em chỉ muốn được lãnh đạo các cấp quan tâm cho phép số hóa kho sách ấy giữ cho muôn đời con cháu.

Tôi thật sự khâm phục tài năng, nghị lực, tâm huyết và thành công của chị. Dẫu biết rằng năm nay chị 48, cái tuổi đang độ chín. Phải chăng ước mơ cháy bỏng của người cha thân yêu năm nào, cùng khát vọng từ bao đời đã tiếp thêm ngọn lửa niềm tin và tình yêu văn hóa Thái đã chắp cánh cho chị, để chị thực hiện được những tâm nguyện, hoài bão đẹp đẽ của mình với quê hương, với dân tộc.

Trần Vân Hạc

“Tiếng gọi” của bạn là gì?

Chào các bạn,

Mỗi người chúng ta sinh ra là để làm việc gì đó trong đời. Người ta nói việc đó đã được tiền định, hoặc do nhân duyên kiếp trước hoặc là ‎ ‎ý chúa hoặc là cái gì đó trong gin của ta. Điều đó gọi là “tiếng gọi” (calling), tiếng kêu đưa ta vào con đường đặc biệt của riêng ta.

Nhiều người đang say mê điều họ làm từng giây đồng hồ sẽ xác nhận với bạn là họ đang làm điều họ được sinh ra để làm, vì họ cảm thấy thật sự say mê và hạnh phúc, dù điều đó đôi khi có thể mang đến biết bao là gian nan khổ ải.

Khi đã tìm ra được tiếng gọi trong lòng, tìm ra được sứ mệnh của mình rồi, mọi sự thành dễ dãi—tiền bạc, danh tiếng, thành công, thất bại… không thành vấn đề. Cứ mỗi ngày làm theo tiếng gọi, phục vụ sứ mệnh của mình, thì chuyện gì khác cũng đều trở thành không quan trọng. Chính vì thế mà có những người đã sẵn lòng mất tất cả, kể cả sinh mạng mình, chiến đấu cho tổ quốc, hay vào những khu rừng hẻo lánh để truyền đạo cho thổ dân ăn thịt người, hay hy sinh vượt mọi gian khổ để trở thành ca sĩ… Liếc mắt điểm nhanh qua chuyên mục Chứng Nhân của Đọt Chuối Non ta có thể nhận ra sự tập trung dữ dội vào sứ mệnh của mình của những người đã tìm ra tiếng gọi— Cô giáo Thùy Trâm, chị Nguyễn Thị Tiến tìm xác đồng đội, Robert Poduna trầm lặng trên đồi Buông, nhà cách mạng Y Ngông Niê Kdăm, Cô giáo Huỳnh Huệ, ca sĩ Thủy Tiên, Nguyễn Hữu Vinh lưu đày trên đảo xanh, Bùi Văn Toản ghi dấu tù nhân Côn Đảo.

Bí mật thành công là tìm được tiếng gọi trong lòng mình.

Nhưng, ngoại trừ một thiểu số may mắn nghe được tiếng gọi, đối với đa số người trên thế giới, tiếng gọi đó luôn luôn là một bí mật.

Tức là, bí mật thành công là tìm được tiếng gọi luôn luôn bí mật đó 🙂 Nhưng đã là bí mật thì không thể bật mí được. 🙂 Đó là vấn đề của đại đa số người, và vì thế mà đa số chúng ta thường cảm thấy đi qua cuộc đời như bèo dạt mây trôi, đời đẩy đến đâu trôi đến đó, chứ cũng chẳng biết sứ mệnh mình là gì.

Nếu bạn là một trong những người như thế thì, chào mừng bạn bước lên thuyền (cho cùng hội cùng thuyền)!

Những người đã nghe tiếng gọi đều xác nhận một điều là họ luôn luôn có thôi thúc trong lòng về một chuyện nào đó, không bỏ qua được. Thôi thúc có nhiều hình thức—khi thì ồ ại như đại dương, khi thì nhẹ nhàng như gió thoảng, nhưng điều giống nhau là thôi thúc luôn có mặt ở đó, luôn rỉ rả ngày này qua tháng nọ trong lòng, không trả lời nó thì không xong.

Để mình chia sẻ với các bạn kinh nghiệm riêng của mình. Từ năm 17 tuổi, mình đã có một câu hỏi trong đầu: “Làm thế nào để Việt Nam ra khỏi chiến tranh đói nghèo và thành cường thịnh?” Câu hỏi này chẳng có gì ồ ạt cả, nhưng nó cứ ở đó trong đầu ngày đêm, không chịu tắt công-tắc, rất phiền toái. Vì vậy mình nghiên cứu đủ thứ môn trên trời dưới đất để tìm câu trả lời—luật, tâm lý học, kinh tế học, chính trị học, triết học, thánh kinh…. hằng mấy chục năm không nghĩ. Rất nhiều khi rất bực mình vì chẳng tập trung tâm trí vào việc gì khác được… Và trong bao nhiêu năm mình chẳng hề nghĩ đến tiếng gọi của mình là gì, luôn luôn cảm thấy như mình chẳng có tiếng gọi gì ráo, vì làm nghề gì thấy cũng trống trải. Mãi cho đến những năm về sau này mình mới “ngộ” ra là mình đã có một tiếng gọi cả mấy mươi năm mà không thấy… tức là làm gì mà giúp được quê mẹ một tí thì mình vui, còn không thì làm bất kì việc gì trên đời cũng thấy trống trải.

Có lẽ là nhiều người chúng ta có những thôi thúc tương tự, nhưng ta không biết rằng đó là tiếng gọi của mình, có lẽ vì ta không để ‎ý đến nó, hoặc là bị những cái ồn ào khác trong đời sống bận rộn hàng ngày lấn át, làm ta không nghe được nó. Nhưng có lẽ cách dễ nhận ra nhất là ta không vui với việc ta đang làm. Cảm thấy trống trải và vô nghĩa. Đó rất có thể là dấu hiệu ta đang có một tiếng gọi bên trong mà chưa nghe được, và chưa bắt tay với nó được.

Thường ta hay chạy theo những tiếng nói bên ngoài—bố mẹ nói học cái này tốt cái kia xấu, bạn bè nói làm việc này việc kia kiếm ra tiền lẹ—cho nên ta không nghe được tiếng gọi bên trong. Hoặc đôi khi ta nghe, nhưng chẳng buồn làm gì với nó vì ta không muốn thay đổi cuộc sống hiện tại.

Mình nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy đã sống rất trọn vẹn, cho đến khi ta đã đi theo tiếng gọi trong lòng.

Trong thời gian chờ đợi, chúng ta nên làm hai điều: (1) Học và thực tập những kỹ năng tốt để xây vốn liếng, và để luôn luôn sẵn sàng cho tiếng gọi, dù tiếng gọi đó là gì. Và (2) tĩnh lặng thường xuyên để có thể nghe những tiếng nói của quả tim mình.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Người ghi dấu tù nhân Côn Đảo

“Tôi sắp trả được món nợ với anh em rồi” – ông Bùi Văn Toản bùi ngùi nói khi thông báo về bản danh sách tù nhân Côn Đảo 1940-1945 vừa hoàn thành. Nhưng nghe giọng ông, biết là còn lâu ông mới cho phép mình nghỉ ngơi trong cuộc hành trình ngược về quá khứ đã chọn.

Hằng ngày, ông Toản dành hết thời gian cho việc sưu tầm, nghiên cứu về các cựu tù Côn Đảo – Ảnh: Gia Tiến

Trong khi người người nếu không chen chân trong cuộc đua chóng mặt về phía tương lai thì cũng tìm mọi cách để an trú trong hiện tại, ông Toản lại nhọc nhằn lặn lội đi ngược thời gian.

Bùi Văn Toản – tù nhân Côn Đảo, cặp danh từ ấy đã đi song song trong cuộc đời ông kể từ những chuyến tàu lưu đày chở những chàng trai, cô gái tuổi 20 nhắm thẳng hướng địa ngục trần gian đến ngày nay, khi nổi danh là một chuyên gia về nhà tù Côn Đảo.

“Đó là một mối duyên, là nhiệm vụ” – ông giải thích giản dị về lựa chọn của mình.

Mối duyên giữa địa ngục

Nhà tù Côn Đảo là một địa ngục trần gian, điều ấy ngày nay ai cũng đã biết, đã thấy qua những xà lim, hầm tối, chuồng cọp qua bao năm hòa bình vẫn còn nguyên sự thù nghịch với cuộc sống.

Người ta chỉ không biết những người tù đã tồn tại, đã sống, đã vượt qua địa ngục ấy như thế nào, bằng cách nào và Bùi Văn Toản bảo ông đã được giao nhiệm vụ làm một người kể chuyện.

Ấy vậy nhưng cũng có nhiều nơi hiểu lầm, ngỡ chúng tôi dựa vào chút quá khứ mà trục lợi khiến tôi rất buồn lòng. Nhưng rồi nghĩ đến những anh em đã nằm lại không còn chút tro bụi, giờ chỉ còn cái tên trong cuốn sách nên lại cắn răng đi, đi từ Nam chí Bắc. Sưu tầm được danh sách mấy ngàn, vài trăm người được thân nhân nhận ra, tìm về là may mắn lắm rồi

Đó là những ngày trại tù câu lưu (tù không được kết án) 6B sôi động với những đợt tuyệt thực, chống chào cờ, đòi chế độ cho tù chính trị.

Máu đổ hằng ngày, đi đu dây giữa sự sống và cái chết, những người tù đã chọn con đường sống thật đàng hoàng. Trại 6B làm báo, diễn văn nghệ, tổ chức các lớp học ngay giữa những cơn mưa dùi cui, ma trắc, vôi bột, lựu đạn cay, những đợt siết bóp lương thực.

Vốn là một sinh viên văn hay chữ tốt, Bùi Văn Toản thường xuyên lãnh phần biên tập, trình bày báo. Và những tờ báo từ trại 6B vẫn giữ được sự chỉn chu đến kỳ lạ kể cả khi nhìn với con mắt hôm nay.

Toản còn được giao giữ gìn báu vật của toàn trại là chiếc radio và mấy cục pin để thỉnh thoảng cả phòng tự thưởng một buổi cập nhật tin tức bên ngoài. Và một việc tối quan trọng khác nữa: lập danh sách toàn trại để khi có dịp thì truyền ra ngoài đấu tranh yêu cầu giao trả tự do.

Mối duyên ghi chép, sao lục đến từ đấy, nhiệm vụ lưu giữ thông tin của những người bạn tù cũng đến từ đấy.

Có khi một trang giấy pơluya vừa tỉ mẩn chép xong đã phải bỏ vào miệng nhai nuốt để tránh bị phát hiện. Có khi người bạn tù vừa rủ rỉ đọc tên thật, bí danh, quê quán vừa cùng nhau lặng đi nhớ những ngày thơ ấu thanh bình hôm trước, hôm sau đã bị tra tấn, đàn áp đến chết…

“Và cái duy nhất họ còn lại trên đời chính là chút thông tin trong mảnh giấy vụn. Tôi nghĩ đến cha mẹ, vợ con, anh em họ đang trông chờ nơi quê nhà mà thấm thía những việc người may mắn được sống như mình sẽ phải làm. Không chỉ là những cái nắm tay, những lời hứa trước phút lâm chung của anh em, mà là những công việc sẽ phải làm bằng hai, ba lần sức người, thay phần những người đã không về” – ông Toản giải thích về mối duyên của cuộc đời mình với số phận những tù nhân Côn Đảo.

Sau giải phóng, về với cuộc sống công chức không được bao năm, ông Toản xin nghỉ hưu non để thực hiện tâm nguyện của mình.

Trở đi trở lại Côn Đảo, tìm lại đồng đội, xác minh những câu chuyện, cuộc sống kỳ diệu của những người tù chính trị Côn Đảo đã được ông lần lượt tái hiện qua các tác phẩm Ác liệt Côn Đảo, Côn Đảo – 6.694 ngày đêm, Những tờ báo của tù nhân Côn Đảo, Huyền thoại Côn Đảo

Những câu chuyện thật được quay lại như một cuốn phim không thể thật hơn được nữa đã làm rơi nước mắt bao nhiêu người trong những cuộc họp mặt hội cựu tù, nhưng vẫn chưa làm yên lòng tác giả của nó. Món nợ vẫn còn.

Ông Bùi Văn Toản cầm cuốn sách Tù nhân Côn Đảo 1940-1945 vừa chuyển về từ nhà in chiều 26-3 – Ảnh: Gia Tiến

Đám giỗ, đám giỗ…

Một ngày đầu năm 2000, chúng tôi nhận được một lá thư yêu cầu đăng giúp một mẩu tin nhỏ với nội dung là lạ “Cung cấp miễn phí thông tin về ngày mất, địa điểm bia mộ của các tù nhân Côn Đảo. Liên hệ Bùi Văn Toản”.

Tìm đến và tôi được biết đằng sau thông báo chỉ vỏn vẹn hai dòng kia là những ngày tháng ông Toản gò lưng trong Trung tâm Lưu trữ quốc gia khu vực 2 dò tìm, trích lục, sao chụp, ghi chép, đối chiếu, dịch thuật hàng chồng hồ sơ của nhà tù Côn Đảo, tòa tiểu hình, tòa đại hình, tòa án binh, tòa hình sự…

Có tài liệu còn lưu rất đầy đủ từng bản cung, có tài liệu chỉ vài dòng nguệch ngoạc, có tập vừa động đến đã vụn nát từng mảnh, nhưng những kinh nghiệm vượt khó chi li học được trong tù và sự thôi thúc mãnh liệt đã giúp ông chắt lại được những thông tin dù nhỏ nhất.

Các hồ sơ hầu hết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và ghi tên người không dấu, ông còn cẩn thận ghi lại đặc điểm nhân dạng, nếu may mắn có ảnh để tránh nhầm lẫn.

Mẩu thông tin được đăng báo. Nhà ông Toản không lúc nào ngớt khách. Những bà mẹ tay xách giỏ lác đựng đòn bánh tét và một mảnh thư nát, tấm giấy căn cước ố vàng đến tìm, dò tên chồng, tên con. Những phụ nữ, anh thanh niên ngơ ngác và đầy hi vọng mang theo một lời trăng trối của mẹ, của bà là phải cố tìm thông tin về cha.

Một bà mẹ ở Bến Tre đã khóc hết nước mắt khi ông Toản tìm ra thông tin và cả tấm ảnh của chồng bà. Lần đầu tiên con bà biết mặt cha và gia đình được thắp nén nhang lên bàn thờ không phải vào ngày giỗ chung 27-7.

Được làm người khách quý nhất dự đám giỗ hôm ấy, vai ông Toản thấm không biết bao nhiêu nước mắt của những người trong gia đình, những giọt nước mắt đã đọng lại từ bao năm.

Thêm một đám giỗ nữa, một đám nữa… Tất cả đã khiến ông Toản vượt qua những khó khăn trong cuộc sống riêng, ngày ngày cầm mẩu bánh mì “định cư” luôn trong thư viện để tìm, tìm nhiều hơn nữa thông tin, giải mã những con số tù vô tri vô giác.

Cứ như thế hơn mười năm. Cuốn Côn Đảo – danh sách hi sinh và từ trần xuất bản năm 2009 cung cấp thông tin về 3.276 người tù đã mất tại Côn Đảo trong giai đoạn 1930-1975.

Hai tập Tù nhân Côn Đảo 1940-1945 chuẩn bị xuất bản sẽ cung cấp thông tin về hơn 5.000 người tù nữa. Mỗi người chỉ có nửa trang tập hợp thông tin thiết yếu nhất như họ tên, quê quán, ngày bị bắt, ngày ra tòa, phần ghi tội danh vắn tắt “vận động lật đổ chính quyền, tập hợp lực lượng bất hợp pháp”, “phản nghịch”, “chống lại công cuộc bảo vệ quốc gia” và những bản án “tử hình, khổ sai, biệt xứ, cấm cố trong hầm” cũng đủ làm tim người đọc đập mạnh, đủ làm dịu đi nỗi khắc khoải của mất mát trong lòng những thân nhân.

Có những địa danh như Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc xuất hiện dày đặc trong cùng một thời điểm, vẽ nên rất rõ nét một phong trào yêu nước tại địa phương.

Mười năm ấy, ông Toản đã xử lý một lượng tài liệu cao khoảng vài trăm mét, đã học thêm phần mềm Access để xử lý số liệu, đã trở lại giảng đường và khai thác những đề tài về Côn Đảo để làm luận văn thạc sĩ và đang chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ sử học.

Thế nhưng cực nhất với ông lại là việc xuất bản và đưa những cuốn tài liệu rất quý ấy đến tay những người cần nó.

“Những cuốn sách dày cả ngàn trang, chứa tin tức về mấy ngàn người tù Côn Đảo khi xưa đương nhiên chẳng thể mang ra nhà sách bày bán, chẳng thể có doanh thu. Hội cựu tù chúng tôi phải đi vận động kinh phí để in ấn, rồi lại gom góp kinh phí để… đi tặng”.

Đơn vị này cho giấy, đơn vị kia cho công in, bản quyền tác giả thì… không tính, ông Toản cùng bạn bè thân thiết lặng lẽ gom góp lộ phí, ôm đồm những bản danh sách nay đã có hình vóc như một cuốn đại từ điển lên xe máy, xe đò đi đến từng tỉnh, vào từng tỉnh ủy, ủy ban trao tặng với mong muốn duy nhất: thân nhân những người cựu tù trong tỉnh có dịp được mở cuốn sách tìm tên người nhà và những người chưa có chế độ chính sách sẽ được Nhà nước lo đầy đủ.

Trở thành khách mời danh dự của hàng trăm đám giỗ, được nghe thêm hàng ngàn câu chuyện về những người bạn đồng cảnh tù ngục là phần thưởng lớn nhất với ông Toản đến ngày này.

Ông mới vui mừng gọi điện báo tin: theo chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Lao động – thương binh và xã hội sẽ tổ chức họp bàn việc lập bia tưởng niệm những người tù chính trị hi sinh tại Côn Đảo vào tuần sau.

Chỉ đống sách mới đưa từ nhà in về, ông trầm giọng: “Bia đá thật cần để anh em chúng tôi không bị lãng quên, mong bộ tiến hành làm sớm. Phần tôi, tôi chỉ có thể lập bia giấy cho anh em mà thôi…”.

PHẠM VŨ
Phóng viên Tuổi Trẻ