Be still – Tĩnh lặng

Chào các bạn,

Chúng ta nói đến tĩnh lặng như là đích điểm của triết lý Đông phương, đặc biệt là Phật triết. Niết Bàn – Nirvana, điểm đến của đường Phật – có nghĩa là “Lửa đã tắt.” Và đương nhiên hình ảnh Phật Thích Ca luôn là một hình ảnh tĩnh lặng

Nhưng khi nói đến Tây phương (Âu Mỹ) thì hình ảnh Chúa Giêsu đau đớn đội mũ gai, hay buồn thảm trong vườn Gethsemane, hoặc Đức Mẹ than khóc là hình ảnh rất quen thuộc.

Có vẻ như Đông Tây là hai luồng văn hóa đối nghịch nhau.

Tuy nhiên, đi ngược thời gian một chút, văn hóa Tây phương, trở về nguồn ở thời Cựu Uớc, tức là phần cổ của Thánh kinh Kitô giáo, thì Be till – tĩnh lặng – cũng là văn hóa chính của Tây phương. A, nhưng Cựu Ước là Do thái giáo, tức là ở Trung Đông, tức là vùng giữa (Trung) của phương Đông. Nghĩa là vẫn là Đông phương, không phải Tây phương.

Nếu các bạn bắt đầu lùng bùng trong đầu thì để mình chậm lại một chút.

Chúng ta thường đồng hóa Kitô giáo với Tây phương (tức là Âu Mỹ). Kitô giáo tức là Christianity. Từ gốc là Chrīstus (La tinh) hay Χριστός (Khristós – Hy Lạp cổ), biến thành Christo, Cristo, Christ, Kitô… là tên hiệu của Giêsu, có nghĩa là “the Anointed One” (Người Đã Được Xức Đầu Lên Trán), tức là đã được chọn làm Vua, theo truyền thống Do thái.

Christianity (Kitô giáo) lấy Christ (Kitô, hiệu/chức của Giêsu) làm chính. Cả tên và hiệu đầy đủ của Giêsu là Giêsu Kitô, Jesus Christ – Jesus là tên, Christ là hiệu.

Thánh kinh Kitô giáo có hai phần: Cựu Ước là phần đầu, tức là trước khi Chúa Giêsu hạ sinh. Phần đó gọi là Cựu Ứớc, và là nửa đầu của Thánh kinh Kitô giáo. Nhưng Cựu Ước cũng chính là Thánh kinh Do thái giáo ngày nay; nghĩa là, nửa đầu của Thánh kinh Kitô giáo – gọi là Cựu Ước – cũng chính là Thánh kinh Do thái giáo. Và Do Thái là Đông phương (Trung Đông), không phải Tây phương.

Phần sau của Thánh kinh Kitô giáo, gọi là Tân Ước, là từ Giêsu đến sau này. Nhưng Giêsu là người Do Thái, tức vẫn là Trung Đông, tức Đông phương.

Nhưng Kitô giáo (Christianity) thì lại phát triển mạnh ở phương Tây (Châu Âu và Mỹ Châu, tức là Âu Mỹ). Nghĩa là Kitô giáo bắt nguồn từ phương Đông – Do thái giáo và Giêsu – rồi phát triển ra phương Tây (Âu Mỹ).

Ngày nay người ta thường đồng hóa Kitô giáo (Christianity) với Âu Mỹ (Tây phương). Nhưng thật sự không phải là như thế – Kitô giáo bắt nguồn từ Đông phương, rồi phát triển ra Tây phương, tức là có cả Đông và Tây trong đó.

Tạm xong đoạn lịch sử Đông Tây này. Hy vọng các bạn đã nắm được. Nếu lùng bùng trong đầu, xin đọc lại một hay hai lần thì sẽ rõ. Cho xin lỗi nếu mình đã làm đầu bạn lùng bùng.

Ý mình muốn nói là văn hóa Kitô giáo bắt nguồn từ Đông phương và cũng lấy Tĩnh lặng làm đích điểm như như Phật triết (và Đạo học Lão tử) của Đông phương.

Cực Ước nói rất nhiều về Tĩnh lặng:

“Hãy tĩnh lặng, và biết ta là Chúa.” Psalm 46:10. (Be still, and know that I am God). (Chữ God dịch là Chúa cho tiện, nhưng có thể là Chúa, Chúa Trời, Trời, Ông Trời, Trời Đất, Thượng Đế… tùy theo câu).

“Hồn tôi thực sự tìm thấy ngơi nghỉ trong Chúa.” Psalm 62:1. (Truly my soul finds rest in God).

“Rồi một trận gió lớn và dữ dội xé núi và làm nát đá trước mặt Chúa, nhưng Chúa không ở trong gió. Sau trận gió là động đất, nhưng Chúa không ở trong động đất. Sau động đất lửa đến, nhưng Chúa không ở trong lửa. Và sau lửa tiếng thì thầm dịu dàng [của Chúa] đến.” 1 Kings 19:11-12. (Then a great and powerful wind tore the mountains apart and shattered the rocks before the Lord, but the Lord was not in the wind. After the wind there was an earthquake, but the Lord was not in the earthquake. After the earthquake came a fire, but the Lord was not in the fire. And after the fire came a gentle whisper).

“Trái tim con không kiêu hãnh, Chúa ơi, mắt con không cao kỳ; con không quan tâm đến những điều lớn lao hay những thứ quá kỳ diệu cho con. Nhưng con đã tĩnh lặng và yên lặng.” Psalm 131:1-2. (My heart is not proud, Lord, my eyes are not haughty; I do not concern myself with great matters or things too wonderful for me. But I have calmed and quieted myself).

“Vâng, hồn tôi ơi, tìm nghỉ ngơi trong Chúa; hy vọng của tôi đến từ Ngài.” Psalm 62:5. (Yes, my soul, find rest in God; my hope comes from him).

“Chúa sẽ chiến đấu cho bạn; bạn chỉ cần tĩnh lặng.” Exodus 14:14. (The LORD will fight for you; you need only to be still).

“Chúa soạn bàn tiệc cho con trước mặt kẻ thù con.” Psalm 23:5 (You prepare a table for me in the presence of my enemies).

“Khi nằm trên giường, quan sát trải tim mình và tĩnh lặng.” Psalm 4:4. When you are on your beds, search your hearts and be silent).

“Đừng sợ, đứng vững, và thấy sự cứu rỗi Chúa sẽ làm cho bạn hôm nay.” Exodus 14;13. (Fear not, stand firm, and see the salvation of the Lord, which he will work for you today).

“Tĩnh lặng trước Chúa và kiên nhẫn đợi Ngài; đừng bồn chồn.” Psalm 37:37. (Be still before the Lord and wait patiently for him; fret not yourself).

“Trong yên lặng và lòng tin là sức mạnh của bạn.” Isaiah 30:15. (In quietness and in trust shall be your strength).

Tàm tạm thế, để các bạn hiều là cả hai nền văn hóa (Đông phương và Âu Mỹ) đều có truyền thống tĩnh lặng của phương Đông làm gốc.

Chúc các bạn luôn tĩnh lặng.

Mến,

Hoành

© copyright 2022
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Một bình luận về “Be still – Tĩnh lặng”

  1. Đọc bài này em càng hiểu tầm quan trọng lớn lao của Chúa với những người con theo Chúa. Chỉ cần tĩnh lặng, còn lại Chúa sẽ làm cho. Điều này không thấy trong Phật giáo. Nhưng em nghĩ, chỉ cần tĩnh lặng, Phật sẽ làm cho – Chắc suy nghĩ này của em cũng không sai.

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s