Tân Nhạc VN – Thơ Phổ Nhạc – “Người Em Sầu Mộng” – Lưu Trọng Lư & Y Vân

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Người Em Sầu Mộng” (“Một Mùa Đông II”) của Thi sĩ Lưu Trọng LưNhạc sĩ Y Vân.

Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1911 – 10 tháng 8 năm 1991) là tên thật của ông. Ông người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc Học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.

Ông chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu của ông: các tập thơ “Tiếng Thu” (1939), “Người Con Gái Sông Gianh” (1966), “Từ Đất Này” (1971), “Hồng Gấm”, “Tuổi Hai Mươi” (kịch thơ, 1973).

luutronglu2

Mặc dù ông là một trong những người cổ động cho Thơ Mới sôi nổi nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu. Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc.

Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho Phong trào Thơ mới.

Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi Nhân Việt Nam.

Sau 1954, ông là Tổng Thư Ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam.

Năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.

Năm 1991, ông mất tại Hà Nội. Con trai thứ chín của ông là đạo diễn Lưu Trọng Ninh.

Là một trong những người tiên phong của Phong trào Thơ Mới, những bài thơ của ông theo nhận xét của Hoài Thanh – Hoài Chân: “nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta” đã góp phần khẳng định vị thế của Thơ Mới.

luutronglu7

Hình ảnh:

…Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô…
(Tiếng Thu)

hay người mẹ với:

…Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước dậu thưa
(Nắng Mới)

trong thơ Lưu Trọng Lư đã trở thành những biểu tượng vượt thời gian.

Nhạc sĩ Y Vân thời trẻ.
Nhạc sĩ Y Vân thời trẻ.

Nhạc sĩ Y Vân là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền Tân Nhạc Việt Nam từ cuối thập niên 1950 đến 1990. Nhiều sáng tác của ông đã trở thành bất hủ và vẫn được trình diễn bởi những ca sĩ hiện thời.

Nhạc sĩ Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu, sinh năm 1933 tại Hà Nội (quê gốc ở Thanh Hóa). Thuở niên thiếu, ông từng theo học nhạc với GS NS Tạ Phước và cũng đã sáng tác từ rất sớm. Mồ côi cha, nhà nghèo, gia đình ông phải dắt díu nhau nương náu trong một túp lều ở ngõ chợ Khâm Thiên. Chính vì thế, ông rất thương mẹ và các em, ông phải đi dạy đàn để lo cho gia đình.

Năm 1952 ông vào Nam, tiếp tục sáng tác, chơi nhạc, hòa âm và dạy nhạc, ngoài ra ông còn viết sách dạy nhạc và đàn guitar. Ông là người đi tiên phong cho dòng Nhạc Trẻ với những bài hát có giai điệu Chachacha, Disco, Twist như: “Sài Gòn”, “Ảo Ảnh”, “60 Năm Cuộc Đời”, “Thôi”.

Thời gian sau năm 1975, ông tham gia Đoàn Ca Nhạc Hương Miền Nam, rồi nhận viết nhạc cho nhiều nguồn: viết nhạc phim, nhạc nền cho sân khấu…

Nhạc sĩ Y Vân có 2 đời vợ và 8 người con. Ông mất vào ngày 28 tháng 11 năm 1992 (tức ngày 05 tháng 11 năm Nhâm Thân – âm lịch). Hưởng thọ 60 tuổi (đúng như dự đoán của ông trong bài “60 Năm Cuộc Đời”)

Y Vân có nghĩa là “Yêu Vân”, tên của tiểu thư Tường Vân – người yêu đầu tiên của ông. Ông chọn tên này từ khi chuyện tình giữa ông và tiểu thư Tường Vân tan vỡ. Một số ca khúc của ông đã được viết với tâm sự mất mát này như: “Đò Nghèo”, “Ảo Ảnh”, “Nhạt Nắng”…

Sự nghiệp sáng tác của ông có khoảng trên dưới 200 tác phẩm. Tác phẩm “Lòng Mẹ” của ông rất nổi tiếng và được xem như một trong những ca khúc kinh điển tiêu biểu, sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình mẹ. Tác phẩm “Lòng Mẹ” được ông sáng tác vào năm 1952. Từ đó đến nay, bài hát đã được nhiều ca sĩ thể hiện, vì thế nó là một bài hát rất quen thuộc với người Việt Nam từ ngày nó ra đời cho đến ngày nay.

Ngoài “Lòng Mẹ”, các ca khúc còn lại của ông trong phạm vi bài này cũng nổi tiếng không kém và thường được các ca sĩ nhiều thế hệ tiếp tục trình diễn cho đến giờ.

Đồng thời ông còn cùng Lan Đài đồng sáng tác hai quyển sách Tự Học Tây Ban Cầm cũng rất phổ biến:

– Tự học Tây Ban Cầm (nhạc thời trang – nhạc Jazz)
– Tự học Tây Ban Cầm (phương pháp Flamenco)

luutronglu_bìa sách1

Thi phẩm “Một Mùa Đông” (Thi sĩ Lưu Trọng Lư)

(I)

Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.

Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.

Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.

Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.

Đây là dải Ngân Hà,
Anh là chim Ô Thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.

Để mặc anh đau khổ,
Ái ân giờ tận số,
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!

(II)

Em là gái trong khung cửa,
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.

Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.

Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân?

Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ?
Cho mộng tràn gối chăn?

(III)

Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu,
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo,
Cùng cười những chuyện thế gian đau.

Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.

Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.

Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.

(IV)

Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.

Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.

luutronglu_NESM1

luutronglu_NESM2

Thi khúc “Người Em Sầu Mộng” (Nhạc sĩ Y Vân)

Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa

Em chỉ là em gái thôi
Người em sầu mộng muôn đời
Tình như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặcmuôn thu nét tuyệt vời

Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau buồn
Ai bảo em ngồi bên song
Cho vương nợ thi nhân

Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ đêm Xuân tràn
Cho tình giăng đầy trước ngõ
Cho mộng tràn gối chăn

Em chỉ là em gái thôi
Người em sầu mộng muôn đời
Tình như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời

Dưới đây mình có các bài:

– Chuyện Tình Thơ Mộng: Lưu Trọng Lư & Phùng Thị Cúc
– Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
– Nhạc sỹ Y Vân với tài sản của 60 năm cuộc đời

Cùng với 5 clips tổng hợp thi khúc “Người Em Sầu Mộng” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

luutronglu1

luutronglu_Cô nữ sinh Phùng Thị Cúc

Chuyện Tình Thơ Mộng: Lưu Trọng Lư & Phùng Thị Cúc

(Phạm Vũ)

Nhân dịp kỷ niệm 101 năm ngày sinh của Lưu Trọng Lư – chúng ta tìm hiểu về Tiểu sử và Mối tình nên thơ của ông:

Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.

Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn.

Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973).

Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu. Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc.

Nhận xét của Hoài Thanh – Hoài Chân: “… thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.

Chuyện tình thơ mộng giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư với nữ sinh Phùng Thị Cúc
Trong Thi nhân Việt Nam (của Hoài Thanh, Hoài Chân), Lưu Trọng Lư được đánh giá cao với những bài thơ nổi tiếng như: Nắng mới, Tiếng thu, Thơ sầu rụng, Một mùa đông, Giang hồ, Còn chi nữa, Thú đau thương, Chiều cổ… Bài thơ “Một Mùa Đông” kể lại một câu chuyện tình thơ mộng nhưng dang dở của thi sĩ với cô gái xinh đẹp Phùng Thị Cúc.

– Phùng Thị Cúc sinh ngày 18/8/1920 tại làng Châu Ê, xã Thủy Bằng, ven đô Huế, quê nội ở xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bà là con ông Phùng Duy Cẩn từng làm quan triều Nguyễn, có thời làm tham công chỉ huy việc xây lăng Khải Định. Mồ côi mẹ từ lúc 3 tuổi, bà theo cha sống ở Tây Nguyên. 6 tuổi đã theo cha sống khắp các tỉnh vùng cao nguyên trung phần ròng rã 9 năm, rồi mới về Huế học Trường Đồng Khánh.

Năm 1946, bà tốt nghiệp nha khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội khóa đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn quốc kháng chiến, bà ra vùng tự do phục vụ cho cách mạng. Vì một cơn bạo bệnh, Phùng Thị Cúc được đưa sang Pháp điều trị. Tại Pháp sau khi khỏi bệnh, Phùng Thị Cúc tiếp tục theo học và tốt nghiệp bác sĩ nha khoa. Sau đó Phùng Thị Cúc đã kết hôn với bác sĩ Bửu Điềm. Tên Điềm Phùng Thị ra đời từ đó. Mãi đến năm 30 tuổi, bà mới đến với nghệ thuật điêu khắc. Vào năm 46 tuổi, bà có cuộc triển lãm đầu tiên và được công chúng Pháp chào đón nồng hậu. 36 tác phẩm điêu khắc của bà được đặt khắp lãnh thổ nước Pháp. Tên tuổi của Điềm Phùng Thị đã nổi danh khắp châu Âu. Những năm cuối đời bà quay về sống ở quê hương và đã mất ở Huế năm 2002.

Trở lại với thời điểm và nguyên cớ ra đời của bài thơ Một mùa đông.

Khi đó Cúc mới là một cô nữ sinh, từ Huế ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Trên chuyến tàu tốc hành Huế – Hà Nội, cô được người chị là bạn của Lưu Trọng Lư gửi gắm nhà thơ trông nom giùm em gái, với lời dặn thân tình “Dọc đường giúp em một chút”.

Cúc là một cô gái Huế sang trọng, đài các, hoa khôi của Trường Đồng Khánh. Gương mặt kiều diễm với đôi mắt đẹp mang nét buồn vời vợi cùng nụ cười thiên thần có má lúm đồng tiền đã hút hồn nhà thơ đa tình của chúng ta ngay từ phút đầu gặp gỡ. Suốt chặng đường dài hai người cũng chẳng có chuyện gì nhiều để nói với nhau. Cúc im lặng ngắm cảnh dọc đường. Và nhà thơ thì lẳng lặng nhìn ngắm giai nhân.

Khi tàu về đến ga Hà Nội, nhìn thấy trên gương mặt người đẹp thoáng chút lo lắng, vì đây là lần đầu tiên cô tới Thủ đô, nhà thơ đã hỏi địa chỉ và tình nguyện đưa cô đến tận nơi. Thi sĩ đã thực hiện đúng lời bạn dặn dò và chắc hẳn đó cũng là “mệnh lệnh của trái tim” chàng.

Tìm đến đúng địa chỉ, Lưu Trọng Lư đưa Cúc lên tận căn gác nhỏ, nơi có căn phòng của những người bạn, người chị của cô đang ở. Chào hỏi, dặn dò rồi bịn rịn chia tay. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì tình cờ Lưu Trọng Lư gặp thi sĩ Phạm Hầu – người bạn nhỏ của nhà thơ khi đó đang học Cao Đẳng Mỹ thuật ở Hà Nội. Phạm Hầu mời Lư vào nhà chơi. Khi lên gác, bước vào một căn phòng, mở cửa sổ ra, nhà thơ giật mình khi nhìn thấy người bạn đường xinh đẹp mà mình vừa chia tay ít phút trước đây đang ở ngay bên khung cửa sổ của căn phòng đối diện. Vậy là không một chút đắn đo, Lư quay sang nói ngay với bạn: “Mình ở luôn đây với cậu được không?”. Phạm Hầu nhiệt tình vui vẻ đồng ý ngay. Lưu Trọng Lư vui sướng ngây ngất. Nhà thơ chỉ còn biết cảm ơn trời đất đã run rủi cho mình được gặp mối duyên may mắn kỳ lạ này. Suốt mùa đông năm đó, giữa cái giá lạnh của tiết trời Hà Nội nhà thơ đã được sống trong sự ấm áp dịu nhẹ của một mối tình sáng trong, thơ mộng.

Ở căn phòng bên này cô gái cũng không thể vô tình. Bởi ngay lần đầu tiên, khi nhà thơ nhìn qua cửa sổ đã bắt gặp đôi mắt Cúc mở to, sững sờ nhìn người anh “dẫn đường” rồi sau đó bối rối mỉm cười rời khỏi khung cửa. Sau này, thật lạ lùng mỗi khi nhà thơ bất thần mở cửa sổ lại nhìn thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang cắm một lọ hoa. Cũng có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư mơ mộng. Cũng có khi nghe một tiếng ho nhẹ, nhà thơ mở hé cửa nhìn sang lại bắt gặp nụ cười bối rối, e thẹn của người đẹp. Cũng có lần khi mở cửa sổ, nàng không hề ngước lên nhìn, cho đến lúc cánh cửa như tự nó khép lại. Lại có lần không biết vì chuyện gì, Cúc ném sang bên này một cái nhìn hờn giận, trách móc khiến nhà thơ ngơ ngẩn suốt một buổi chiều.

Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình Lưu Trọng Lư – Phùng Thị Cúc

Mọi việc dường như chẳng có gì khác lạ: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế nhưng sự trông đợi nhớ nhung đã thấm vào gan ruột từng ngày từng ngày một. Làm sao có thể nhớ hết được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của thi sĩ đa tình, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Một mùa đông ra đời. Bài thơ gồm 4 đoạn kể lại một “love story” trong mộng ảo mà thấm đẫm những nỗi đau có thật.

Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.
Đây là dải Ngân Hà,
Anh là chim Ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Để mặc anh đau khổ,
Ái ân giờ tận số,
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!

Nhà thơ đã lí giải thật tài tình tâm trạng và nỗi lòng của mình. Có lẽ đây là đoạn thơ có những câu thơ ấn tượng hơn cả:

…Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân?
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ?
Cho mộng tràn gối chăn?

Thật thú vị khi được biết rằng trong bài thơ lãng mạn này lại chứa đựng những câu chuyện hoàn toàn có thực. Nhà thơ Lưu Trọng Lư kể rằng, sau một thời gian sống cạnh nhau, tình cảm của hai người cũng có “bước phát triển” mới. Theo sự sắp đặt của những người bạn, có lần hai người đã đi chơi chùa Thầy cùng với một nhóm bạn. Sau một hồi leo núi, nhìn chung quanh chẳng thấy ai, chàng và nàng ngượng ngập đi bên nhau. Đến trưa cả nhóm mới trở lại sân chùa cùng ăn trưa. Bữa trưa có gà quay và rượu vang Pháp. Bắt chước mọi người, Cúc cũng uống vài li rượu nho. Đôi má ửng hồng và cặp môi nhuốm màu nho chín, rơi trên trán vài lọn tóc đen nhánh… Tất cả đã tạo thành một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh lớn:

… Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.

Câu chuyện tình thơ mộng đã không dẫn đến một kết thúc có hậu. Họ mãi mãi là một đôi tình thân giữa một nghìn trùng xa cách. Đến năm 1975 họ mới có dịp gặp lại nhau. Cúc từ Pari về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào đã là bà Điềm Phùng Thị – một điêu khắc gia nổi tiếng thế giới. Hôm đó Hội Nhà văn mở tiệc mừng các trí thức, nghệ sĩ ở nước ngoài về, trong đó có Điềm Phùng Thị và họa sĩ Mai Trung Thứ là người đã say mê vẽ bức chân dung Tôn Nữ Lệ Minh (vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư) năm 17 tuổi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dắt tay Điềm Phùng Thị đến chỗ vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư đang ngồi và nói: “Đối mặt nhau rồi, ngâm lại bài thơ ngày xưa đi.” Tên tuổi của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị được lưu danh trong từ điển Larousse, đó là một niềm tự hào đáng kể. Nhưng cũng là một niềm vinh hạnh lớn khi bà trở thành nhân vật chính trong một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Lưu Trọng Lư.

TÓM TẮT

Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Những bài thơ mang âm hưởng trữ tình lãng mạn, thanh thoát, giàu nhạc điệu của ông, được công chúng đương thời nồng nhiệt chào đón, đã góp phần đem lại sự chiến thắng cho Thơ Mới trong buổi ban đầu.

Phùng Thị Cúc tức là Điềm Phùng Thị – là nhà điêu khắc nổi tiếng trên thế giới, được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse.

Mối tình giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư và cô nữ sinh Phùng thị Cúc thật là một mối tình nên thơ, trữ tình nhất và cũng xứng tầm “trai tài, gái vừa sắc lẫn tài” … dù có ngang trái, chính sự ngang trái này khiến cho cả hai tình nhân nhớ mãi không thôi, vì…

“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở…” (Hồ Dzếnh)

Nhạc sĩ Y Vân.
Nhạc sĩ Y Vân.

Y Vân và ảo ảnh cuộc đời

(Lê Hữu [Trong sách “Âm Nhạc Của Một Thời”])

“Yêu cho thấy bao lâu đài chỉ còn vài trang giấy”
(“Ảo ảnh”, Y Vân)

Một con đường sắt / trăm con tàu…

Câu hát ấy nghe được trong bài “Đêm tái ngộ” của Y Vân. Một cô bạn tôi nói rằng cô yêu nhạc Y Vân vì những câu hát nói về “con tàu và sân ga” như thế. Tôi nói như vậy thì cô yêu những… sân ga chứ đâu phải là yêu nhạc Y Vân. Cô bạn cười, nói rằng có nhiều bài nhạc nói về sân ga nhưng cô yêu những bài của Y Vân hơn cả. “Bài ‘Tiễn em’ của Phạm Duy và Cung Trầm Tưởng chẳng hạn,” cô nói, “cũng hay vậy, nhưng có vẻ… Tây quá.”

Tôi chắc không phải chỉ có “trăm con tàu” thôi mà biết bao nhiêu là con tàu đến và đi trong cuộc đời này, không làm sao đếm hết được. Sân ga vẫn nằm đấy, im lìm, hiu quạnh, như cõi lòng trống vắng, quạnh hiu của một người vừa tiễn đưa một người.

Hình ảnh con tàu và sân ga thường vẽ ra cảnh tượng buồn bã của một cuộc chia tay. Chia tay với con tàu, hay chia tay với sân ga, cũng là chia tay với một mối tình. Mối tình nào, tiếng còi tàu nào còn đeo đuổi cô bạn tôi mãi đến tận bây giờ, như đã đeo đuổi người nhạc sĩ đã viết nên những bản tình ca không hạnh phúc về những lứa đôi yêu nhau mà chẳng được gần nhau.

“Vì đời ai biết ta hơn mình!”

Vắng con tàu sân ga thường héo hắt
Thiếu anh lòng em thấy quạnh hiu

Câu hát ấy ở trong bài “Ảo ảnh” của Y Vân.

Sân ga là “chứng nhân” của bao cuộc hội ngộ và chia phôi, nụ cười và nước mắt, hợp tan và tan hợp.

Một trong những bài phổ thơ hay nhất của Y Vân, “Đêm giã từ”, nói về nỗi buồn sân ga trong giờ phút tiễn đưa của đôi tình nhân.

Mưa buốt lạnh trong đêm / đứng trên thềm ga vắng
hắt hiu ngọn đèn vàng / em tiễn anh
Mưa gió lùa qua hiên / giữa khi mình lưu luyến
thì tiếng còi lạnh lùng xé màn đêm

Tiếng còi tầu “lạnh lùng” không chỉ “xé màn đêm” mà còn… “xé đôi lòng” (nói như câu hát trong bài “Biệt ly” của Dzoãn Mẫn, “Ôi, còi tầu như xé đôi lòng!”…).

Anh bước vào toa trong / mắt không rời ga vắng
Trời mưa chỉ làm buồn chúng mình thêm…

Ánh sáng cây đèn úa soi trên thềm
Còn đó chăng / là bóng em và bóng đêm

Còn nỗi buồn nào sâu hơn, tái tê hơn nỗi buồn sân ga “hắt hiu ngọn đèn vàng”, khi tiếng còi tàu xa dần, khi bóng con tàu mờ dần trong tiếng mưa đêm, chỉ còn lại “bóng em và bóng đêm”

Bài hát đã buồn, qua giọng buồn rã rượi của Thanh Thúy, nghe càng buồn hơn.

Những câu chuyện về “con tàu và sân ga”, về một người ra đi, một người ở lại, thường là những chuyện không mấy… vui, có lẽ vì vậy Y Vân phải viết thêm “Đêm tái ngộ” để cho câu chuyện tình buồn “Đêm giã từ” ấy có một happy ending cho hợp lẽ tuần hoàn của đất trời, hợp rồi tan, tan rồi hợp.

Em đứng đây chờ anh trước thềm ga
hiu hắt cây đèn đêm giã từ xưa…

Anh bước xuống tàu / ngơ ngác vài giây
khi thấy em cười sau ánh đèn soi
Nhìn nhau mà nói không nên lời
Nơi cũ lúc xưa tay rời / thì nay lại tay cầm tay

“Tay cầm tay”, như thế cũng tạm ổn, tuy nhiên sau đó cảm thấy vẫn… chưa đủ, nhạc sĩ bèn phải viết thêm “Nụ cười tái ngộ” để có một kết thúc tròn đầy, có nhân có hậu (như là… tên thật của ông, Trần Tấn Hậu). Bài hát được yêu thích qua những giọng Trúc Mai, Lệ Thanh, Carol Kim…

Ôi, nụ cười thắm trên môi
Tủi hờn xưa đã vơi / những đau thương xa rồi…
Nếu hạnh phúc là giấc mơ / thì đã tròn ý thơ
không còn mong chờ

Sau nước mắt chia phôi là “nụ cười tái ngộ”. Y Vân là thế, là con người nghệ sĩ yêu cái đẹp và đầy lòng nhân bản.

Bài nhạc buồn nhất của Y Vân không phải là “Đêm giã từ”, và cũng không phải là bài “Buồn”.

Buồn như ly rượu đầy / không có ai cùng cạn
Buồn như ly rượu cạn / không còn rượu để say

Bài nhạc buồn nhất là bài có cái tựa cũng chỉ một chữ thôi, bài… “Thôi” (phổ thơ Nguyễn Long). Nhạc điệu và lời hát nghe sướt mướt, sụt sùi không kém gì bài “Sang ngang” của Đỗ Lễ.

Thôi em đừng khóc nữa làm gì…
Thôi em đừng tiếc / em đừng tiếc / đừng tiếc nữa
đừng để lòng anh trở lại kiếp u buồn…
Thôi, thôi bờ vai đừng rung động
đã hết rồi còn khóc nữa chi em

Nghe “Thôi” qua những giọng Thái Thanh, Hùng Cường, Jo Marcel mà nghe tim thắt lại, nghe ruột gan tái tê, héo hắt.

Một bài nhạc khác cũng khá buồn là “Chiều mưa công viên”, nghe được qua những giọng Lệ Thanh, Mỹ Thể, Lệ Thu…

Chiều mưa công viên / ghế đá buồn tênh
Chiều mưa rét mướt / cỏ non trăm cánh
Ai thương ai dưới mưa buồn không?
Mưa trong đôi mắt chờ trông…
Mưa như mưa đã ngàn năm…

Như sợ rằng “Chiều mưa công viên” vẫn chưa đủ buồn, nhạc sĩ dắt ta đi vào chiều mưa… nghĩa trang.

Chiều mưa nghĩa trang / trời sa xuống thấp
Buồn không tiếng khóc / nhớ thương hết rồi
Người qua nghĩa trang / lòng xưa thức giấc
Nghe mưa lạnh lùng / nhớ nhau vô cùng…
(“Chiều mưa nghĩa trang”)

Trong cái sống có chập chờn nỗi chết, trong xum họp có bàng bạc nỗi ly tan. Đôi lúc ta còn nghe ông “triết lý vụn” về cuộc sống bề bộn, về nỗi khát khao tìm đến sự bình an trong tâm hồn sau những miệt mài đeo đuổi, tìm kiếm. Như trong “Đồi thông”, một bài Blues.

Hoài công tìm kiếm / trên bước đi thăng trầm
còn đâu đẹp hơn bên gốc thông ngàn
Lặng nghe muôn tiếng ca / quên niềm ưu phiền
vì đời ai biết ta hơn mình!

Bài hát nghe được qua những giọng Anh Ngọc, Duy Trác, Lệ Thu, Ban hợp ca Thăng Long, mỗi giọng có những nét đẹp riêng trong cách thể hiện.

Hay như “Hoàng hôn trên bãi biển”, một bài Rumba, nói về những giấc mơ hư ảo của đời người, như những vết chân, những lâu đài trên cát.

Nhớ câu xưa rằng,
“Đừng làm lầu trên cát vàng để rồi lầu tan theo sóng”…

Bóng ai xa rồi / mờ dần
Bàn chân gót trần / còn hình nằm soi trong nắng
Sóng xa vô tư dâng lên
tựa như chiếc khăn / ai đem xóa đi không còn
một vết chân mềm…

Hay như “Ảo ảnh”, một bài Boston (sau đổi thành Rumba), nói về những đuổi bắt chiếc bóng tình yêu.

Yêu cho thấy bao lâu đài
chỉ còn vài trang giấy

Kìa phồn hoa còn đó
Những con đường buồn vui lộng gió
Những ân tình chìm trong lòng phố
cũng theo hư không mà đi

Thật khó mà kể ra cho hết được các bài nhạc của Y Vân, và cũng khó mà nói được giọng hát nào là “độc quyền” hoặc thích hợp với nhạc Y Vân, cho dù một vài ca sĩ từng hát nhiều bài của Y Vân như Lệ Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Tâm… Tuy nhiên, có thể kể ra những giọng hát được xem là gắn liền với những bài hát phổ biến nhất của Y Vân, như:

Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết với “Đôi mái chèo trăng”; Thanh Thúy với “Lòng mẹ”, “Đêm giã từ”; Minh Hiếu với “Ngăn cách”; Hồng Phúc với “Tình yêu thủy thủ”; Mai Trường-Trần NgọcHồng Phúc với “Những bước chân âm thầm”; Phương Tâm với “60 năm”, “20 – 40”, “Thần tượng”; The Cat’s Trio (ban nhạc nữ) với “Đêm đô thị”; Ban hợp ca Thăng Long với “Đồi thông”; Duy Trác với “Đừng lừa dối nhau”, “Tôi sẽ đưa em về”; Sĩ Phú với “Người em sầu mộng”; Hà Thanh với “Cánh hoa thời loạn”, “Tưởng vọng”; Thái Thanh với “Thôi”, “Thương về năm Cửa Ô xưa”; Lệ 5 Thanh với “Chiều mưa công viên”, “Hoàng hôn trên bãi biển”; Yến Vỹ với “Sài Gòn”; Trúc Mai với “Về miền Tây”, “Bóng người cùng thôn”; Hoàng Oanh với “Xa vắng”, “Tình chàng ý thiếp”, “Đôi mắt người xưa”; Nhật Trường với “Khi em nhìn anh”; Duy Khánh với “Hãy yêu tôi”; Khánh Ly với “U hoài”; Lệ Thu với “Ảo ảnh”; Mỹ Thể với “Thương anh”; Túy Phượng với “Người yêu lý tưởng”; Connie Kim với “Tình lính”; Carol Kim với “Đêm tái ngộ”; Vy Vân với “Đại lộ hoàng hôn”; Ngọc Long với “Những bước chân trên cao nguyên”; Ban Sao Băng với “Tôi trở về thành phố”; Hùng Cường với “Thúy đã đi rồi”; Mai Lệ Huyền với “Thiên thần mũ đỏ”; Elvis Phương với “Tát nước đầu đình”…

Có thể nói không ca sĩ nào ngày ấy mà không từng hát một bài nào của Y Vân.

“Tưởng lòng là mây theo gió về”

Em yêu gì xa vắng
cho trời mây ướp buồn!

Tôi tin rằng thật khó mà tìm được chữ nào hay hơn và “thơ” hơn chữ “ướp” trong câu hát trên. Câu ấy ở trong bài “Những bước chân âm thầm”, phổ một bài thơ năm chữ của Kim Tuấn. Lạ một điều, câu hát ấy cũng như những câu hát được nhiều người yêu thích trong bài nhạc ấy, không thấy có trong bài thơ được Y Vân phổ nhạc, chẳng hạn:

Anh yêu tình nở muộn
Chiều tím mầu mến thương

Tôi chắc những người yêu thơ sẽ thích hai câu “thơ” ấy. “Tình nở muộn”, nghe không “mới” hay sao!

Mắt biếc sầu lắng đọng
Đèn thắp mờ bóng đêm

Hai câu này cũng được Y Vân thêm vào, làm cho bài thơ nghe “thơ” hơn và làm cho bài nhạc có một khí hậu trầm mặc của những “rặng thông già lặng câm”, của “gió rét về lạnh căm” và của “từng bước, từng bước thầm”, như vẽ lên hình ảnh thật cô đơn của một người lặng lẽ đếm bước trong chiều, tìm về những tháng năm kỷ niệm đã phôi pha.

Câu thơ “Tay đan đầy kỷ niệm” của Kim Tuấn được Y Vân đổi khác đi một chữ thành “Tay đan sầu kỷ niệm”, nghe “buồn” hơn và lắng đọng hơn.

“Đời biết ai thương mình!…” (câu hát cuối, cũng được Y Vân thêm vào). Bài hát kết thúc như một dấu hỏi lửng lơ, như nỗi buồn vướng vất, không trôi đi được, làm sâu thêm nỗi cô đơn của kẻ độc hành.

Thường thì khi phổ nhạc một bài thơ, vì những lý do “kỹ thuật”, nhạc sĩ có thể thay đổi chút ít lời thơ, hoặc có khi phải đặt thêm lời cho bài thơ phổ nhạc. Những “sáng tạo” này của Y Vân chảy xuôi chiều với mạch thơ và phù hợp với tổng thể của bài thơ, cho thấy “tay nghề” phổ thơ của người nhạc sĩ .

Người ta yêu “Những bước chân âm thầm” là yêu nhạc điệu ấy lẫn những lời hát thật đẹp ấy, và cũng yêu cả những giọng hát trầm ấm của Mai Trường-Trần Ngọc-Hồng Phúc quyện vào nhau (cách thể hiện của Ban hợp ca Thăng Long và Ban Sao Băng sau này nghe cũng hay không kém). Có vẻ như bài hát ấy hát “đơn ca” nghe không được hay, dẫu là những giọng ca xuất sắc.

“Những bước chân âm thầm” của Y Vân và “Anh cho em mùa xuân” của Nguyễn Hiền được xem là hai bài phổ thơ Kim Tuấn hay nhất. Rõ ràng là Y Vân đã làm cho người ta đi tìm bài thơ “Kỷ niệm” của Kim Tuấn, và cũng làm cho nhiều nhạc sĩ tìm đến thơ Kim Tuấn để phổ nhạc, và để mong có được “Những bước chân âm thầm” khác.

Không kể những bài nhạc phổ thơ như “Đêm giã từ” và “Thôi”, giới yêu nhạc cũng yêu thích những bài nhạc tình của Y Vân phổ từ thơ Lưu Trọng Lư, như “Người em sầu mộng”:

Ai bảo em là giai nhân / cho lệ đêm xuân tràn
cho tình dâng đầy trước ngõ / cho mộng tràn gối chăn

Hoặc “U hoài”:

Anh xin / muốn xin em đừng nói
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay…
Hãy như chiếc sao băng / băng mãi
để lòng buồn / buồn mãi không thôi

Hoặc những bài phổ thơ Đinh Hùng, như “Hãy yêu tôi”:

Tôi không yêu sao có má em hồng?
Tôi không buồn sao có mắt em trong?
Tôi không yêu sao có phấn hương nồng?
Tôi không mộng sao có lá thư xanh?

Một bài phổ thơ khác là “Dung nhan mùa hạ” (thơ Hoàng Huy), nghe được qua những giọng Duy Trác và Nhật Trường với lời hát khá “lập dị”. Bài hát, có lẽ vì thế ít được phổ biến.

Khi em tắm nắng / cho tôi xin hai thước mặt trời
Vẻ kiêu sa thần vệ nữ ngàn đời…
Xin cho ngây ngất / bên dung nhan đan trắng hạ này
và cho xanh giấc ba mươi

“Xa vắng” và “Tình chàng ý thiếp” có thể gọi là phóng tác ý thơ “Chinh phụ ngâm khúc”, kể về nỗi lòng chinh phụ của những “cánh hoa thời loạn”, với con tim héo hắt, với âu lo thẫn thờ và nỗi nhớ thương dằng dặc qua bao năm chờ tháng đợi mỏi mòn.

Đợi chàng một hai năm / hay là cả đời xuân xanh
Ngày nao đầu pha tuyết sương vẫn mong tái ngộ một lần…
Ngày anh xa vắng / tóc buông giữ vẹn lời thề
Ước mong ngấn lệ ngày về / thay dòng nước mắt khi đi
Vì trời làm phong ba / nên đời hội ngộ chia ly

Lệ rơi nhiều hơn nước mưa
dẫu cho bốn biển chẳng vừa
(“Xa vắng”)

Bao nhiêu là nước mắt của bao nhiêu người vợ trẻ “tóc buông giữ vẹn lời thề”, cam chịu nỗi tàn phai nhan sắc và phòng không chiếc bóng lạnh lùng buổi chinh chiến điêu linh. Lời ca tiếng nhạc nghe mà não lòng.

Ngày ngày ra đứng / trước thềm nhìn theo lối xưa…
Thiếp bên song cửa / nhìn trăng úa
Chàng ngoài chân mây / gội mưa bay…

Từ chàng xa vắng / má hồng điểm trang với ai
Nước dâng rồi vơi / lòng thiếp biết bao giờ nguôi
Thẫn thờ trâm lệch / buồn thương nhớ
Lỏng vòng lưng eo / sầu tương tư
Nhạt làn môi son / hờn duyên lỡ / những mùa xuân qua
(“Tình chàng ý thiếp”)

Nhiều bài của Y Vân, tuy không phải nhạc phổ thơ, nhưng là những bài nhạc rất thơ, với những lời nhạc đẹp tựa lời thơ.

Như những lời tả tình tả cảnh “Hoàng hôn trên bãi biển”.

Hoàng hôn nắng soi trên biển xanh
Người đi vết chân in cồn cát trắng
Lặng nghe những âm thanh mơ hồ
ngàn con sóng xô ven bờ
tưởng lòng là mây theo gió về

Tôi chắc những người yêu thơ sẽ thích câu “thơ” ấy, “Tưởng lòng là mây theo gió về…”

Trời mây dắt nhau đi vào đêm mình tôi đứng đây nghe chiều lên tiếng Chữ “dắt” ấy, tôi chưa thấy ai sử dụng hay hơn.

Có khi là nỗi xót xa và tiếc nuối vì không giữ được tình yêu:

Những neo thuyền yêu đương thường dễ đứt
khiến bao chiều trên bến tịch liêu
(“Ảo ảnh”)

Có khi là những lời tự tình ngọt ngào của những lứa đôi yêu nhau:

Tôi sẽ đưa em về / miền hoa thơm cỏ biếc
Chiều hôn trên làn tóc / mùa thu in mầu mắt
Tôi sẽ đưa em về / mà không lo thiếu tình yêu
(“Tôi sẽ đưa em về”)

Hay… “sẽ đưa em đi”:

Em là chim Yến nhỏ / anh khoác áo vân du
Đường xa em có ngại / áo mây anh ấp ủ
Ta tìm lên núi Tình / Ta đến suối
Yêu Đương rồi đi thăm bến
Mộng / sẽ qua đồi Ái Ân…
(“Khi em nhìn anh”)

Bài nhạc được yêu thích qua giọng hát khá truyền cảm của Nhật Trường, Sĩ Phú. Chữ “Yến” viết hoa trong bản nhạc được cho là… tên cô gái nào đó, mối tình nào đó của Y Vân, thực hư không rõ. Tương tự, có những lời giải thích không giống nhau về bút danh “Y Vân” của ông, với cái họ “Y” nghe tựa như họ của người sắc tộc thiểu số ở cao nguyên Trung phần. Người thì cho rằng nhạc sĩ có mối liên hệ khá mật thiết với “phố núi” nào đó ở cao nguyên (qua những bài “Tiếng trống cao nguyên”, “Những bước chân trên cao nguyên”…). Người thì nói rằng cái tên ấy có nghĩa là… “Yêu” cô gái tên “Vân” nào đó. (Đến “Y Vũ”, tên của người nhạc sĩ là em trai của ông, thì chẳng thấy ai… giải thích chi cả). Những chuyện ấy chỉ là “nghe vậy biết vậy” và cũng chẳng mang ý nghĩa gì đối với sự nghiệp âm nhạc của Y Vân; hơn thế nữa, ông không có khuynh hướng bộc lộ những chuyện riêng tư nên ai muốn nói gì thì nói, ông vẫn lặng thinh, vì… “đời ai biết ta hơn mình”.

“Bao năm nước mắt như suối nguồn…”

Một nhạc sĩ tên tuổi thường có ít nhất một, hai bài nhạc nào đó gắn liền với tên mình. Khi nhắc đến tên bài nhạc ấy, người ta nghĩ ngay đến tên nhạc sĩ ấy. Có khi chỉ một bài nhạc thôi cũng đủ làm nên tên tuổi người nhạc sĩ. Nhiều nhạc sĩ sáng tác chỉ mong có được một bài nhạc gắn liền với tên mình, trong lúc ấy Y Vân không chỉ có một mà khá nhiều bài gắn liền tên ông, đến nỗi người ta tự hỏi những bài nào trong số ấy là… “Y Vân” nhất. Nếu phải chọn ra ba bài, theo tôi, đấy là những bài “Lòng mẹ”, “Sài Gòn” và “60 năm” (còn gọi là “60 năm cuộc đời”). Nói đến tên bài nào trong số những bài ấy, người ta lập tức bật ra ngay cái tên “Y Vân” chứ không nói lầm sang tên một nhạc sĩ nào khác. Bài thứ nhất ngợi ca trái tim của người mẹ, làm cho những đứa con yêu mẹ mình hơn. Bài thứ hai ngợi ca cuộc sống tươi đẹp, làm cho người ta thêm yêu thành phố từng là thủ đô của miền Nam. Bài thứ ba ngợi ca tình yêu và cuộc sống, làm cho những đôi tình nhân thêm gắn bó nhau.

“Lòng mẹ” đến nay vẫn được xem là bài hát classic về người mẹ tiêu biểu nhất và hay nhất, hiểu theo nghĩa bài hát quen thuộc nhất, được nhiều người nghe, nhiều người hát và nhiều người yêu thích nhất. (“Mẹ tôi” của Nhị Hà và “Quê mẹ” của Thu Hồ cũng là những bài khá cảm động và lấy được nhiều nước mắt của những đứa con mất mẹ).

Hầu như không ai… biết hát mà không từng hát một đôi câu bài “Lòng mẹ”. Hầu như không ca sĩ nào mà không từng hát “Lòng mẹ”, và giọng Thanh Thúy, theo tôi, cho nhiều cảm xúc nhất. Nhạc điệu man mác, lời hát bình dị, đơn sơ nhưng nghe dạt dào tình cảm như là tấm lòng của người mẹ.

Sau những chữ “như” là những cách ví von mang theo nhiều hình ảnh, nhiều ý tưởng thật gần gũi, thân quen.

Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào
Tình mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào
Lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào…

Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu
Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ
Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ

Và những lời thật cảm động về “lòng mẹ thương con”.

Dù cho mưa gió không quản thân gầy mẹ hiền
Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền…

Bao năm nước mắt như suối nguồn
chảy vào tim con / mái tóc trót đành đẫm sương

Nghe những câu hát ấy không ai mà không nghe lòng chùng xuống, không nghe tim thắt lại và chỉ ước mong ngày nào được… “quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu”.

“Lòng mẹ” có lẽ là bài hát được sử dụng nhiều nhất trong đám táng người mẹ nào vừa xa lìa thế gian này.

Giống như đề tài về tình yêu, đề tài “người mẹ” là vô tận, và các nhạc sĩ vẫn còn tiếp tục sáng tác về đề tài này trong một cố gắng để vượt qua được “Lòng mẹ” của Y Vân, nhưng trước sau vẫn chỉ là… những cố gắng vô ích.

Khi hát bài “Lòng mẹ” là khi ta nghĩ về, nhớ về người mẹ của mình, là đấng sinh thành, là người đã trao tặng cho ta đời sống này. Người mẹ trong bài hát của Y Vân không chỉ là, không còn là bà mẹ của riêng ông mà là của tất cả những ai có được một người phụ nữ yêu quý trên đời này để gọi là “Mẹ”. Có một cách nói quen thuộc chúng ta vẫn nghe, đại để “Mỗi chúng ta đều mắc nợ (hay “đều mang ơn”)…” nhằm ca ngợi hoặc đề cao ai đó–đôi lúc quá lố–về những thành tựu hoặc cống hiến có ý nghĩa đặc biệt cho công chúng, tôi cho là sẽ không có gì quá đáng khi nói rằng chúng ta cần cám ơn tác giả bài “Lòng mẹ”, cám ơn người nhạc sĩ đã nói thay cho chúng ta những điều ta muốn 10 nói về người mẹ của mình hay những bà mẹ yêu dấu trên thế gian này mà không diễn được ý của một đứa con.

Tôi cũng tin rằng một trong những việc làm mà Y Vân cho là ý nghĩa nhất trong đời mình là ông đã dâng tặng bà mẹ mình bài hát ấy, như dâng tặng bông hoa thơm ngát của lòng biết ơn.

Điều “tệ hại” nhất là cố tình khoác cho bài hát nói về trái tim của người mẹ ấy tấm áo có… màu sắc chính trị, như: “Nhạc sĩ Y Vân sáng tác bài ấy từ nỗi xót thương bà mẹ mình bị… cảnh sát ‘chế độ cũ’ bắt giam vì vi phạm giờ giới nghiêm, nửa đêm ra máy nước công cộng giặt quần áo cho con…” (trong lúc ai cũng biết bài hát ra đời trong những năm “thanh bình” hiếm hoi ở miền Nam vào cuối thập niên 1950’s, khi mà mọi sinh hoạt của người dân kéo dài thâu đêm suốt sáng, và chẳng ai biết “giới nghiêm” là… cái gì).

Khác với bài “Lòng mẹ”, “Sài Gòn” với tiết tấu vui tươi nhộn nhịp qua những giọng Yến Vỹ, Trúc Mai, Carol Kim… thời ấy, được xem là bài Cha Cha Cha đầu tiên của nhạc Việt. “Sài Gòn” của Y Vân và “Ghé bến Sài Gòn” của Văn Phụng được kể là những bài nhạc hay nhất nói về thủ đô miền Nam, về một thành phố trẻ trung, tươi đẹp và tràn đầy sức sống.

“60 năm” còn “kích động” hơn cả “Sài Gòn” nữa, với thể điệu Twist và với nhạc điệu náo hức như giục giã những lứa đôi phải gấp gáp “yêu nhau đi, chiều hôm tối rồi”, phải vội vàng lên để mà chạy đua với chiếc kim thời khắc của tình yêu, vì cuộc sống ngắn ngủi. Hãy đến gần nhau hơn, hãy cho nhau những thương yêu ngọt ngào, vì… “được bao năm sống mà yêu nhau”.

Em ơi, có bao nhiêu
sáu mươi năm cuộc đời!
Khi xa em rồi / anh biết thương yêu ai
nên ta yêu nhau / thì yêu cho trọn đời
Em ơi, ta sống là bao!…

Nếu cần kể thêm bài nhạc nào của Y Vân được yêu thích và phổ biến rộng rãi trong những năm đầu thập niên 1960’s, không thể không nhắc đến “Ngăn cách”, là câu chuyện tình buồn của những lứa đôi yêu nhau mà nào có được gần nhau. Bài hát gắn liền với những giọng Thanh Thúy, Minh Hiếu.

Từ ngày mai ngăn cách
hết rồi là khi đưa đón…

Thời của “Ngăn cách” là thời của những Slow, Boston, Blues…, thời của tiếng nhạc bềnh bồng trôi đi chầm chậm trong bóng tối mờ mờ của các phòng trà, các vũ trường, trong đó không bao giờ thiếu những bài của Y Vân như “Ngăn cách”, như “Đừng lừa dối nhau”, như “Chiều mưa công viên”, như “Người em sầu mộng”, như “Tôi sẽ đưa em về”, như “Đêm giã từ”, như “Ảo ảnh”:

Những ân tình em đong bằng nước mắt
khóc cho đầy hai chữ tình yêu

Phấn hương nồng em xem tựa tấm áo
đã thay màu ân ái từ lâu

“Đã có ‘Ngăn cách’ nên tìm thêm ‘Ảo ảnh’; đã có ‘Ảo ảnh’ nên tìm thêm ‘Tưởng vọng’”, câu ấy đọc thấy nơi bìa sau một bản nhạc của Y Vân, như muốn kết hợp thành một “bộ ba” nhạc tình Y Vân. Tuy nhiên “Tưởng vọng”, bài nhạc ngợi ca thiên chức cao quý của người phụ nữ, có vẻ ít được đón nhận như hai bài kia.

Không có em sao có nàng Tô Thị
Không có em sao có Hòn Vọng Phu…

Không có em ai biết lòng chinh phụ
Không có em ai nhớ người chinh phu

Tưởng vọng về đôi mi nhìn xuôi xuống
ngày ngày ôm ấp con thơ / em khẽ ru câu dịu hiền

Bài hát nghe được qua những giọng Hà Thanh, Phương Dung ngày ấy.

Trong số những sáng tác của Y Vân, có những bài ông soạn chung với các nhạc sĩ khác, như “Chiến sĩ của mùa xuân”, “Về dưới mái nhà”, “Đường đi lối về”, “Gió hiền”, “Mây chiều” với Xuân Tiên; “Tiếng hát quê hương” với Xuân Lôi; “Cát biển” với Lê Trọng Nguyễn; “Hình ảnh quê xưa” với Hoàng Trọng; “Chuyến tàu tiễn biệt” với Minh Kỳ; “Hai chuyến tàu đêm” với Trúc Phương; “Đôi mắt người xưa” với Nghiêm Phú Phi; “Mùa thương tay đợi mắt chờ”, “Vòng tay giữ trọn ân tình” với Đỗ Kim Bảng; “Tìm về” với Lan Đài; “Đò ngang” với Tuấn Khanh; “Đừng đùa với tình yêu” với Phạm Mạnh Cương; “Đời còn ngăn cách nhiều hơn” với Cao Hoàng…

Về nhạc phổ thơ, người yêu nhạc thường nhắc đến những bài “Người em sầu mộng”, “U hoài”, phổ thơ Lưu Trọng Lư; “Một lần cuối”, phổ thơ Nguyễn Bính; “Hãy yêu tôi”, “Em tự nghìn xưa chuyển bước về”, phổ thơ Đinh Hùng; “Thương về năm Cửa Ô xưa”, phổ thơ Tạ Tỵ; “Đêm giã từ”, phổ thơ Thể Vân; “Những bước chân âm thầm”, phổ thơ Kim Tuấn; “Thôi”, phổ thơ Nguyễn Long; “Về miền Tây”, phổ thơ Văn Thế Bảo; “Đồi thông”, ý thơ Nguyễn Đình Toàn (bài thơ “Không dưng”); “Buồn”, ý thơ Tạ Ký (bài thơ “Buồn như”)… Có thể kể thêm ít bài dân ca và phổ ca dao như “Tát nước đầu đình”, “Lý ngựa ô”, ”Lý con sáo”, “Lý quạ kêu”, “Lý qua đèo”…

Y Vân còn viết nhạc cho các phim truyện, như “Thúy đã đi rồi”, “Xa lộ không đèn”, “Như giọt sương khuya”, “Như hạt mưa sa”…, thường là các bài nhạc chính trong bộ phim cùng tên. Không chỉ sáng tác, ông còn được biết đến như một trong những nhạc sĩ soạn hòa âm tên tuổi thời ấy, bên cạnh các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Lê Văn Thiện…, đồng thời còn là nhạc trưởng của “Ban nhạc Y Vân” và có một trung tâm sản xuất băng, dĩa nhạc tên “Mây Hồng”.

Cây đàn muôn điệu, cuộc sống muôn màu

Gió nhẹ tựa như
hơi thở của người yêu
buồn mà duyên dáng

Câu hát ấy ở trong bài “Tình yêu thủy thủ” (1965) của Y Vân và là câu tôi thích nhất trong bài hát ấy. “Buồn mà duyên dáng”, tôi chưa hề nghe ai nói thế bao giờ. Làn gió biển mơn man trên da thịt tựa như hơi thở nhẹ nhàng của người mình yêu, buồn mà duyên dáng. Câu hát thật đẹp!

Người khác có thể thích những câu hát khác trong bài ấy, như là:

Anh là thủy thủ / mang lòng biển cả
trao về tình em…

Anh là thủy thủ / yêu đời biển cả
như người tình chung

“Người tình chung”, cách gọi ấy không mới hay sao!

Tình nào cho em / Tình nào cho nước

“Nước” ở đây vừa là đất nước, vừa là sông nước, là biển cả.

Không rõ là có bao nhiêu chàng trai khi “lên đường nhập ngũ tòng quân” đã tình nguyện vào binh chủng… hải quân chỉ vì yêu bài “Tình yêu thủy thủ”, chỉ biết rằng bài hát ấy qua giọng hát thật ấm áp của Hồng Phúc và Ban nhạc Y Vân, đã phổ biến rộng rãi và được yêu chuộng đến mức Y Vân phải viết thêm bài “Tình yêu phi công” và “Tình lính” nữa cho… đủ bộ và cho công bằng, để “hải lục không quân” đều vui vẻ cả làng (tuy nhiên “Tình yêu thủy thủ” vẫn được yêu chuộng hơn). Sau “Tình yêu thủy thủ”, có khá nhiều bài nhạc tiếp theo của các nhạc sĩ khác viết về những chàng trai ôm mộng hải hồ, về những bông “hoa biển” và về những “người yêu của lính”… biển (như “Hoa biển” của Anh Thy, “Thủy thủ và biển cả” của Y Vũ, “Một lần xa bến” của Trường Sa, “Tình ca người đi biển” của Trường Hải, “Tâm tình người lính thủy” của Anh Thy & Thanh Viên, “Vùng biển trời và màu áo em” của Nguyễn Vũ… vân vân). Những chàng thủy thủ có một thời được “lên điểm”, một thời… “bao nhiêu bến, bấy nhiêu tình”, cũng là nhờ bài hát ấy, “Tình yêu thủy thủ”.

Người ta yêu “Tình yêu thủy thủ” không phải chỉ ở những câu hát như thế mà còn ở thể điệu Hully Gully trẻ trung, vui nhộn, được xem là bài Hully Gully đầu tiên của nhạc Việt (“Đêm huyền diệu”, “Thần tượng”… là những bài tiếp theo của Y Vân cùng một thể điệu).

“Tình yêu thủy thủ” là một bài “nhạc lính”, nói rộng hơn, một bài “nhạc thời trang” vào thuở ấy. Y Vân vẫn được xem là người nhạc sĩ đi tiên phong trong các thể điệu mới (Cha Cha Cha, Twist, Agogo, Surf…); và hơn thế nữa, có khả năng đặc biệt là rất bén nhạy và thích ứng nhanh chóng các trào lưu âm nhạc thế giới để đưa vào dòng nhạc Việt các kiểu mẫu “thời trang âm nhạc” mới nhất, thịnh hành nhất, như người bắt mạch được thị trường tiêu thụ để dọn ra những “món ăn” lạ miệng, hấp dẫn và hợp khẩu vị khách hàng.

Khi mà cơn bão Twist quét ngang vòm trời âm nhạc châu Âu, khi mà đâu đâu cũng nghe “Come on, let’s twist again…”, và khi mà mọi người không thể nào… ngồi yên một chỗ được khi điệu nhạc kích động ấy trỗi lên thì một nhà sản xuất băng đĩa nhạc tìm đến Y Vân. “Phải có một ‘Let’s twist again’ cho nhạc Việt chứ!” Và thế là… “Đêm đô thị” ra đời, vang vang trên khắp các “đô thị” miền Nam. Bài nhạc nghe rất “Saigon by night”.

Màn đêm xuống dần
muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng
Kìa bao phố phường / bao mái lầu chìm trong bóng đêm
Lá lá lá lá la la!… / Lá lá lá lá la la!…
Đời đẹp quá… há ha hà há há ha… bài thơ!

Tiếp đến là những bài Twist mang theo những con số, “60 năm”, “20 – 40”, và tiếp đến là những “Người yêu lý tưởng”, “Tình lính”, “Tình yêu và tuổi trẻ”, “Tình yêu và giông tố”, “Tình yêu dưới ánh mặt trời”… đã lôi cuốn các nhạc sĩ khác nhập cuộc để lại có thêm nhiều bài Twist nữa, tạo nên cơn lốc sôi động, cuồng nhiệt của “kích động nhạc” (tên gọi thuở ấy), đồng thời cũng mang đến cho nền âm nhạc miền Nam giữa thập niên 1960’s một khuôn mặt mới và một phong cách trình diễn mới, “hợp thời trang” hơn và quyến rũ hơn.

Trong lời nhạc của Y Vân, ta “bắt” được những câu hát khá “đặc biệt”, cho thấy những “sáng tạo” của ông không chỉ trong “ý nhạc” mà còn ở “lời ca” nữa.

“20 – 40” chẳng hạn, kể về một chuyện tình trái ngang, lỡ làng.

Năm anh hai mươi / em mới sinh ra đời…
Khi em còn trong nôi / anh đã lo việc đời
Ôi, hai mươi năm u hoài
Đầu vừa điểm phai / gặp nhau tưởng duyên may
Ngờ đâu tình duyên đã lỡ rồi / lỡ tuổi lỡ thời
(Chuyện tình “20 – 40” ấy ngày nay là chuyện… thường tình, chẳng ai thắc mắc, nên cũng chẳng việc gì mà phải “Nay ta không xứng đôi / Thôi thôi chờ kiếp sau…”, như là câu hát trong bài).

“Thần tượng” chẳng hạn, một bài hát khá “thời thượng”.

Nếu em không cùng anh / sống chung trong cuộc đời
chỉ là người yêu thôi / em sẽ là thần tượng

Câu hát cuối lặp đi lặp lại, nhỏ dần… “Nếu chỉ là người yêu / em sẽ là thần tượng…” Những lời ấy quả có đúng. Không có “thần tượng” nào bền vững mãi với thời gian. Khi không còn được đặt trên bệ thờ nữa thì thần tượng hóa thành xác phàm. Bài hát không mấy được hoan nghênh có lẽ vì… đúng quá, và vì các “thần tượng” ấy chỉ muốn được làm… “thần tượng của muôn đời”.

“Đừng lừa dối nhau” chẳng hạn, được tác giả ghi bên dưới tựa bài nhạc là “Tặng những mối tình không trọn vẹn”, là những nghi ngại, ngờ vực trong tình yêu.

Đừng lừa dối nhau / đừng nói yêu khi ta gần nhau
Đừng lừa dối nhau / vì biết đâu tin nơi tình yêu

“Cánh hoa thời loạn” chẳng hạn, kể về nỗi niềm của những người tình, những người vợ trẻ thời chiến chinh.

Xin anh che chở / tấm đời nhỏ bé hậu phương
như câu chuyện tình “Người hùng và giai nhân”

Những cánh hoa hồng
bên hàng rào kẽm / hầm chông
vẫn mong bàn tay / người đem tưới vun trong vườn

Bài hát qua giọng Hà Thanh, nghe mà xót xa, tội tình.

Trong số những bài nhạc được yêu thích một thời của Y Vân vẫn có những bài về tình yêu thuở ban đầu. Tình đầu là mộng ước, là giấc mơ tươi đẹp nhất của một thời tuổi trẻ.

Nhớ lần đến trường đón em
Ôi, đẹp thay ngày mới quen!
Tờ thư xanh giữ làm tin / kỷ niệm giây phút đầu tiên
mà nhiều đêm trắng / dệt bóng hình em yêu
(“Đời còn ngăn cách nhiều hơn”)

Bài hát, qua những giọng nữ mềm mại của Tuyết Mai-Kim Tước-Túy Hồng quyện lẫn vào nhau, như khơi dậy cả “một trời kỷ niệm”.

Mỗi người đều cần có một ngôi trường để luyến tiếc, để nhớ về… Nhớ về ngôi trường cũ là nhớ về những người thầy người bạn, những giờ ra chơi và một sân trường phượng vĩ.

Một ngày tôi còn nhớ / đầy trường hoa phượng vĩ
Tạm xa bao bạn cũ / nào ai biết ra đi
là sẽ không quay về…
(“Từ biệt mái trường xưa”)

Nét nhạc Y Vân có dấu ấn riêng và ảnh hưởng ít nhiều đến sáng tác của các nhạc sĩ sau ông. Nhiều người vẫn lầm tưởng “Ai nói yêu em đêm nay”, một bài Slow của Trần Thiện Thanh, hoặc “Kim”, một bài Twist của Y Vũ, là của Y Vân. Trong những bài “Những tâm hồn hoang lạnh” của Y Vũ, “Tôi đưa em sang sông” của Y Vũ & Nhật Ngân… người ta nghe phảng phất nét nhạc (và cả lời ca) của Y Vân, qua những dấu thăng (dièse) hoặc dấu giảm (bémol) ở nốt nhạc cuối trong câu, tạo cảm giác lơ lửng, mênh mang.

Có thể nói được rằng Y Vân là nhạc sĩ của mọi thể loại, mọi thể điệu và mọi đề tài của nhạc Việt những thập niên 50’s, 60’s, 70’s. Từ “Đêm đô thị” đến “Ngoại ô đèn vàng”; từ “Đồi thông” đến “Hoàng hôn trên bãi biển”; từ “Người yêu lý tưởng” đến “Người vợ hiền”; từ “Phận má hồng” đến “Cánh hoa thời loạn”; từ “Thần tượng” đến “Ảo ảnh”… Nghe nhạc Y Vân, người ta nghe thấy có hạnh phúc và khổ đau, có nụ cười và nước mắt, có hội ngộ và chia phôi, có hình ảnh người mẹ, người cha, người vợ hiền, người lính chiến, có tình yêu đôi lứa, có tình tự dân tộc…, tựa như ông muốn ôm hết cuộc sống vào lòng vậy. Nói cách khác, cuộc sống hiện ra muôn màu muôn vẻ trong nhạc Y Vân. Như câu nói của Robert Schumann, nhà soạn nhạc và phê bình âm nhạc nổi tiếng của Đức, “Họa sĩ biến thơ thành tranh; nhạc sĩ biến tranh thành âm nhạc”, Y Vân, ông đã vẽ ra những “bức tranh đời” nhiều màu sắc và sinh động bằng nét cọ thần kỳ là những nét nhạc, những nốt âm thanh tràn đầy cảm xúc.

Cũng do khả năng nhạy bén, đáp ứng mọi khuynh hướng, trào lưu âm nhạc, và thích ứng mọi tình thế nữa, người ta không ngạc nhiên khi biết rằng từ sau cuộc đổi đời năm 1975 ông chuyển sang viết nhạc phim và hòa âm, một chọn lựa khá phù hợp và là điều có thể hiểu được. Những sáng tác hiếm hoi của ông về sau này ít được phổ biến, và điều này cũng… có thể hiểu được.

Dòng suối nhạc của Y Vân biến đổi không ngừng, khi thì êm đềm hiền hòa, khi thì cuồn cuộn xối xả, như dòng chảy của cuộc sống đổi thay từng ngày, từng giờ. Sức sáng tác của Y Vân thật sung mãn và nguồn nhạc hứng trong con người nghệ sĩ ấy vẫn luôn dạt dào, như cuộc sống vẫn lao nhanh về phía trước. Bằng cây đàn muôn điệu và bằng những cung bậc kỳ diệu, ông đã tạo nên ở quanh ông một thế giới âm thanh thật phong phú và biến hóa đa dạng, đôi lúc khá bất ngờ và ngoạn mục như chàng nghệ sĩ đu bay giữa không trung tràn đầy tiếng nhạc, hay như những ngón tay mềm mại thoăn thoắt bay lượn trên những phím đàn. Âm nhạc của Y Vân đến được với mọi người, mọi tầng lớp, mọi đối tượng. Dường như ai cũng tìm được ở nhạc Y Vân một bài nào mình yêu thích, ai cũng từng hát một đôi bài hay một đôi câu của Y Vân. Nói khác hơn, âm nhạc của Y Vân, bằng mọi ngả đường và bằng những cách riêng của ông, đã tới được và chạm được trái tim người yêu nhạc.

* * *

Anh muốn sống riêng trong một thế giới
xa loài người / xa cuộc đời đầy đắng cay
Nơi đây anh là nghệ sĩ không tên
đem nhạc tình / ghi tràn đầy cung điệu buồn

Những câu hát ấy ở trong bài “Thúy đã đi rồi”, Y Vân viết chung với Nguyễn Long, là bài nhạc chính trong cuốn phim cùng tên (đạo diễn Nguyễn Long thực hiện cuối năm 1961). Ước muốn được làm “nghệ sĩ không tên” của ông có vẻ không dễ thực hiện chút nào, vì ông đã trót là nhạc sĩ “có tên” tuổi với nhiều bài nhạc gắn liền tên ông; và hơn thế nữa, sau ngày ông lìa đời, ở trong nước, ngoài nước người ta vẫn cứ hát mãi nhạc của ông, vẫn cứ… “Sài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!…”

Nhiều người vẫn nói rằng vì Y Vân viết bài Twist “60 năm cuộc đời” nên ông cũng từ biệt cuộc đời này vào đúng năm… 60 tuổi, hoặc khi viết bài ấy ông đã tiên tri rằng ông sẽ lìa đời năm 60 tuổi. Đúng ra, ông mất năm 59 tuổi (1933 – 1992), người ta đã “rộng tay” tính theo… tuổi âm lịch để cho “lời tiên tri” của ông được ứng nghiệm. Gần một năm sau ngày ông mất, bà mẹ ông, người từng là nguồn nhạc hứng cho ông viết nên bài hát nổi tiếng “Lòng mẹ”, cũng lặng lẽ qua đời. (Tôi không nghe nói có ai đi tìm kiếm dấu vết bà mẹ ấy như đi tìm kiếm dấu vết những “Diễm xưa”, những “Hoàng Thị Ngọ”… là nguồn nhạc hứng cho những bài nhạc tình được người đời yêu thích).

Tôi thích một bài Twist khác của ông hơn, nghe vừa vui vui lại vừa buồn buồn.

Tình đời nhiều lúc mỉa mai
Cuộc đời nghìn đắng nghìn cay
Vui đó sầu đây… / Thôi thế là thôi!…
(20 – 40)

Bài hát nghe được với giọng Phương Tâm, cô ca sĩ một thời “chuyên trị” những bài “kích động nhạc” của Y Vân. “Thôi thế thì thôi!… / Thế thôi thì thôi!…”, giọng nữ chính đã dứt tiếng, những giọng nam phụ họa vẫn còn lặp đi lặp lại, nhỏ dần, nhỏ dần…

Tôi nghĩ đến những niềm vui và nỗi buồn trong bài hát ấy, trong câu chuyện tình trái ngang, lỡ làng ấy, làm cho hai kẻ yêu nhau không đến với nhau được. Tôi cũng nghĩ đến những nụ cười và nước mắt trong những tấn tuồng vẫn diễn ra giữa cuộc đời “vui đó sầu đây” này. Tôi cũng nghĩ đến những phút cuối ông lặng lẽ từ biệt thế gian này để đi về một thế giới khác, không rõ trong đầu ông khi ấy có nghe vọng lên câu hát ông đã viết ra như một dấu chấm hết cho bài hát “dở khóc dở cười” ấy. Thôi thế thì thôi!… / Thế thôi thì thôi!…

Y Vân, ông đã từng làm bao người cùng khóc cùng cười với ông. Ông đã ngợi ca tình yêu, ông đã mang những lứa đôi lại gần nhau hơn và yêu nhau hơn, vì chỉ sợ mất nhau, chỉ sợ không giữ được nhau. Ông đã ngợi ca cuộc sống, ông đã làm cho người người thương yêu cuộc đời hơn, dẫu cho đời sống có lúc không được như ý muốn và không phải là lúc nào cũng đẹp. Ông đã ngợi ca tình người, ông đã làm cho người người thương quý nhau hơn và tử tế với nhau hơn, như tình nghĩa vợ chồng, như tình thân bè bạn, như tình yêu chan chứa của những đứa con dành cho đấng sinh thành… Phía sau những dòng kẻ nhạc của ông người ta nhìn thấy được trái tim đầy tình nhân bản.

Y Vân, ông đã cố làm cho cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn, hay ít ra trông có vẻ tươi đẹp hơn. Dường như ông vẫn muốn tin rằng, dẫu có thế nào đi nữa thì mọi chuyện sau cùng vẫn đi đến một kết thúc 17 tốt đẹp. Điều có có xảy đến hay không, không ai biết chắc. Nói rằng ông có tài “tiên tri” để thấy trước là ông chỉ góp mặt góp tiếng với thế gian này có 60 năm thôi, tôi không tin lắm, thế nhưng tôi tin rằng ông đã thấy trước là–như ông đã viết ra trong bài “Đồi thông”–suốt một đời “hoài công tìm kiếm trên bước đi thăng trầm…”, ông chẳng tìm thấy được gì ở cuối đường, ngoài nỗi… trống không.

Và tôi cũng tin rằng không phải là ngẫu nhiên ông viết nên những câu hát…

Người đi tiếc chi cho thêm buồn
tìm thư thái trong tâm hồn
thì đừng xây mơ trên cát vàng
(“Hoàng hôn trên bãi biển”)

Như những lâu đài bằng giấy, như những dấu chân trên cát sóng biển sẽ xóa nhòa, liệu còn có nghĩa gì, khi mà những phù hoa phù phiếm, những phấn son cuộc đời rồi… “cũng theo hư không mà đi”.

Liệu còn có nghĩa gì, khi mà ông đã phải chia tay với cuộc sống ông vẫn muốn làm cho tươi đẹp hơn, và khi mà những “muôn màu muôn vẻ” của cuộc sống ấy, chung cuộc chỉ như những màu sắc lung linh, óng ánh của những bong bóng xà phòng, thật mỏng manh và tan biến trong thoáng chốc như là… ảo ảnh cuộc đời.

(Lê Hữu [Trong sách “Âm Nhạc Của Một Thời”])

Nhạc sĩ Y Vân.
Nhạc sĩ Y Vân.

Nhạc sỹ Y Vân với tài sản của 60 năm cuộc đời

(VTC News) – Không chỉ thành công với bolero, rumba, ngay cả với các điệu nhạc sôi động như twist, rock, nhạc sĩ Y Vân đều để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc bất hủ.

Sol vàng là chương trình tôn vinh những ca sĩ, nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam và được nhiều thế hệ khán giả yêu mến.

Sau một loạt các đêm nhạc tôn vinh các ca sĩ nổi tiếng, Văn Cao là nhạc sĩ đầu tiên được tôn vinh tại chương trình này, Sol vàng tháng 8 sẽ tiếp tục tôn vinh một tên tuổi nghệ sĩ nữa, đó chính là tác giả của ca khúc nổi tiếng Lòng mẹ.

Sol vàng – Nhạc sĩ Y Vân:

Y Vân là một nhạc sĩ tiêu biểu của tân nhạc Việt Nam thập niên 1950 đến 1990. Nhắc đến Y Vân, người yêu nhạc không thể không biết các ca khúc để đời của ông như Lòng mẹ, Sài Gòn, 60 năm cuộc đời, Những bước chân âm thầm, Ảo ảnh…

Các sáng tác của ông đã trở thành bất hủ, nhiều thế hệ người yêu nhạc hầu hết đều thuộc nằm lòng ca khúc của ông, từ giai điệu da diết ‘Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…’ cho đến những lời ca tươi tắn yêu đời ‘Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi…’

Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu, sinh năm 1933, mất năm 1992, quê gốc Thanh Hóa. Thuở niên thiếu, ông từng theo học nhạc với giáo sư, nhạc sĩ Tạ Phước và cũng đã tập tành sáng tác từ rất sớm.

Nhà nghèo, mồ côi cha, cả nhà nhạc sĩ sống nương tựa vào nhau trong một túp lều xiêu vẹo. Chính vì thế, ông rất thương mẹ và các em, ông phải đi dạy đàn để nuôi gia đình.

Năm 1952 nhạc sĩ Y Vân vào Nam, tiếp tục sáng tác, chơi nhạc, hòa âm và dạy nhạc, ông còn viết sách dạy nhạc và đàn guitar. Y Vân là người đi tiên phong cho dòng nhạc nhẹ với những bài hát có giai điệu chachacha, disco, twist như: Sài Gòn, Ảo ảnh, 60 năm, Thôi, Kim…

Sau năm 1975, Y Vân làm việc cật lực bất kể ngày đêm để tạo cuộc sống tương đối cho gia đình. Ông tham gia đoàn ca nhạc Hương Miền Nam, ngoài ra còn tham gia viết nhạc phim, nhạc nền cho sân khấu.

Tác giả 60 năm cuộc đời có 2 đời vợ và 8 người con. Ông mất năm 1992, hưởng thọ 60 tuổi, đúng như bài hát do chính mình sáng tác: ‘Em ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời…’

Đêm nhạc Y Vân chủ đề 60 năm cuộc đời gồm 3 phần: Đêm đô thị, Về dưới mái nhà và 60 năm cuộc đời. Theo đạo diễn Đinh Anh Dũng, đêm nhạc sẽ chắt lọc 14 ca khúc nổi tiếng nhất của nhạc sĩ để trình diễn.

Trong phần một Đêm đô thị sẽ là những ca khúc có giai điệu sôi động như twist, rumba…, những điệu nhạc mà Y Vân được xem như tiên phong trong dòng chảy nhạc trẻ lúc bấy giờ.

Phần hai Về dưới mái nhà là những khúc ca trữ tình sâu lắng. Phần ba60 năm cuộc đời gồm những ca khúc mang nhiều tâm trạng cô đơn, hối tiếc trong những cuộc tình dang dở. Kết chương trình là ca khúc 60 năm cuộc đời cũng chính những ngày tháng mà nhạc sĩ Y Vân đã sống và cống hiến cho âm nhạc.

Những bài hát nổi tiếng nhưng hết sức quen thuộc của Y Vân sẽ được các giọng ca hải ngoại và những ca sĩ nổi tiếng trong nước trình bày như: Hương Lan, Thái Châu, Đàm Vĩnh Hưng, Ngọc Anh, Đông Đào, Dương Triệu Vũ, Tuấn Hiệp, Nhóm Nam Việt… thể hiện, chắc chắn sẽ mang đến những giây phút thưởng thức âm nhạc thú vị dành cho khán giả.

Sol vàng – Y Vân 60 năm cuộc đời được truyền hình trực tiếp vào lúc 20h ngày 8/8/2015 trên VTV9 và tiếp sóng trên VTV Huế, Đài PTTH Đà Nẵng, Đài PTTH Lâm Đồng, Đài PTTH Bình Phước và Đài PTTH Quảng Ngãi.

(Thiên An)

oOOo

Người Em Sầu Mộng – Ca sĩ Sĩ Phú:

 

Người Em Sầu Mộng – Ca sĩ Hoàng Oanh:

 

Người Em Sầu Mộng – Ca sĩ Ý Lan:

 

Người Em Sầu Mộng – Ca sĩ Vũ Khanh:

 

Người Em Sầu Mộng – Ca sĩ Trần Thu Hà:

 

Leave a comment