Đọc các bài âm nhạc VN, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Tiếp nối theo chuỗi bài Dân ca Dân nhạc Miền Nam, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn một thể loại dân nhạc phổ thông nhất của Miền Nam. Đó là Vọng Cổ. Giai điệu chính trong bộ môn Cải Lương.
Nhạc sĩ Giang Tuyền trong bài Nguồn Gốc Cổ Nhạc Việt Nam dưới đây sẽ cho chúng ta tìm hiểu tổng quát hơn về lịch sử của thể loại dân nhạc độc đáo này:
“Các nghệ sĩ cổ nhạc [miền nam] đã không ngừng sáng tác trong gần một thế kỷ qua, với mục đích ngày càng phát triển bộ môn cổ nhạc được phong phú hơn. Theo tài liệu ghi lại, thì vào khoảng năm 1915 – 1916 có một loại hát gọi là “ca salon”. Ðó là một lối hát rất đơn giản, không có cảnh trí gì hết. Chỉ có một bộ ván. Trước bộ ván để một cái bàn chưn cheo. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem rất nghiêm trang. Có lẽ do ảnh hưởng của loại nhạc triều đình từ xưa còn rớt lại. Thường thì ca bản tứ đại lớp đầu. Chuyện thì dựa trên chuyện Lục Vân Tiên hay Kiều… Sau đó mới đến “ca ra bộ” có tánh cách tài tử.
“Dần dần có một số đông thấy được cái hay của sự ra bộ ấy, bèn bàn nhau đem lên sân khấu mà diễn, rồi dựng cảnh, rồi tuồng tích, và sau cùng là thành cải lương vào năm 1920. Ðầu tiên là gánh của thầy Andre Thân ở Sa Ðéc, rồi mới tới gánh của thầy Năm Tú ở Mỹ Tho…
“Danh từ Cải Lương được xuất hiện đầu tiên tại gánh hát Tân Thinh của ông Trương Văn Thông vào năm 1920. Sau đó, các gánh khác lần lượt ra đời, như Văn Hí Ban ở Chợ Lớn, Tập Ích Ban ở Thốt Nốt, Tái Ðồng Ban ở Mỹ Tho. Hai chữ Cải Lương là do gọi tắt từ câu ‘cải biến kỳ sự, sử ích tự thiên lương’ (đổi những gì cũ còn lại ra thành những gì mới và hay). Những nghệ sĩ theo ngành cải lương đều tin có Tổ Nghiệp, nên hàng năm họ làm Lễ Giỗ Tổ vào ngày 12 tháng 8 âm lịch.
“Nói đến cổ nhạc không ai có thể bỏ qua được bài Vọng Cổ, một loại bài hát đã làm say mê bao nhiêu triệu con tim Việt Nam do tính chất mùi mẫn lúc trình diễn cũng như tự do ngân dài mỗi đầu câu của người hát.
“Nguyên thủy của chữ Vọng Cổ là do từ Dạ Cổ Hoài Lang (đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chàng), do ông Cao Văn Lầu, biệt hiệu là Sáu Lầu quê ở Tân An đến định cư ở Bạc Liêu lúc còn nhỏ. Ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang vào khoảng năm 1918, và chịu nhiều ảnh hưởng của bài Tứ Ðại Oán và bài Hành Vân. Khởi đầu, bài Dạ Cổ Hoài Lang chỉ có 20 câu, mỗi câu 2 nhịp, lần lần thành 4 nhịp đầu tiên hát trên sân khấu Tập Ích Ban năm 1921, và thành 8 nhịp trên sân khấu Tái Ðồng Ban năm 1922.
“Năm 1934, cố nghệ sĩ Lư Hoa Nghĩa (thân phụ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga) chuyển bài Dạ Cổ Hoài Lang thành bài Vọng Cổ. Năm 1936, cố nghệ sĩ Năm Nghĩa đã sửa thành 16 nhịp. Khoảng đầu năm 1951, cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã phát triển thành bài vọng cổ 32 nhịp mà đa số nghệ sĩ cải lương hiện nay vẫn còn hát.” (Nhạc sĩ Giang Tuyền)
Đầu tiên mình giới thiệu đến các bạn bài Dạ Cổ Hoài Lang của nhạc sĩ Sáu Lầu, là bài cha đẻ của bài Vọng Cổ.
Bài Vọng Cổ có 6 câu. Về sau trong thể điệu Tân Cổ Giao Duyên được các soạn giả cắt ngắn đi 2 câu, còn lại 4 câu.
Nói đến Vọng Cổ thì phải nói đến:
– Danh cầm Đàn Tranh, Bảy Bá (tức soạn giả Viễn Châu – ông vua sáng tác Vọng Cổ & Tân Cổ Giao Duyên),
– Danh cầm Đàn Kìm, Năm Cơ,
– Đệ nhất Danh cầm Guita, Văn Vĩ (1929-1985),
– Sầu Nữ Út Bạch Lan,
– Huy Chương Vàng Thanh Tâm – Hữu Phước (1932-1997),
– Nữ nghệ sĩ Hương Lan,
– Ông Hoàng Vọng Cổ Út Trà Ôn (1918-2001), …
Trong nghệ thuật ghi ta phím lõm, quan trọng nhất là cách nhấn chữ “xang”. Thầy Văn Vĩ thành danh trong phong cách nhấn này. Cũng cùng một chữ “xang” nhưng Thầy nhấn ra nhiều âm điệu tuyệt kỷ khác biệt rung động không thể tả. Kế đến là âm điệu Bán Ngân Giang bất tử của Thầy cho đến ngày nay vẫn chưa có người thay thế. Đặc biệt nhất Thầy có ngón đàn rất khỏe. Xưa nay các nhạc sĩ chỉ đàn dây cỡ 16 đến 18 nhưng còn Thầy thì toàn đàn dây cỡ 20, loại dây mà rất hiếm có nhạc sĩ nào đàn nổi vì dây cỡ 20 lớn và cứng nên rất khó nhấn.

Bậc nhất đào thương trong bộ môn Cải Lương miền Nam là cô Út Bạch Lan. Cô là người học trò đầu tiên của Thầy Văn Vĩ khi hai người bắt đầu khởi nghiệp. Hai người còn là hai anh em do nguyên nhân hai bà mẹ cùng nhau kết nghĩa chị em. Biệt danh “Sầu Nữ” của cô Út Bạch Lan là do mọi người từ các đồng nghiệp cùng các khán, thính giả khắp nơi thương mến tặng cho vì một làn hơi mang chất giọng kim thiên phú truyền cảm có một không hai qua nhiều thế hệ không ai thay thế. Xưa nay không có một tuồng tích hoặc bài ca nào do cô trình diễn mà không lấy được nước mắt của gần như hầu hết các khán thính giả ái mộ khắp nơi.

Huy Chương Vàng (Giải Thanh Tâm) Hữu Phước cũng có một giọng ca trời cho đặc biệt ấm áp ngọt lịm như nhung đã một thời làm mưa làm gió trên các sân khấu cải lương trong thập niên 60-70. Ái nữ của ông, nữ nghệ sĩ Hương Lan chẳng những đã nối nghiệp cha mà còn tạo riêng cho mình một phong cách đặc biệt xa hơn trong các bài ca tình tự quê hương miền Nam với một làn hơi thiên phú truyền cảm độc nhất vô nhị.



“Vua Vọng Cổ”, “Ông Hoàng Vọng Cổ”, và “Đệ Nhất Danh Ca” là các mệnh danh của những người sành điệu ái mộ Danh ca Út Trà Ôn trong suốt hơn nửa thế kỷ qua tặng cho ông. Xuất thân là nông dân, ông có một giọng ca đặc biệt chân chất và trữ tình của người miền sông Hậu. Bất cứ khi nào nói đến tài ca vọng cổ thì những khán, thính giả sành điệu cổ nhạc không thể nào không nghĩ ngay đến ông và Sầu nữ Út Bạch Lan. Vua Vọng Cổ Út Trà Ôn là thân sinh của nữ ca sĩ Bích Phượng ngày nay.
Tiếp theo mình có bài “Đàn Guitar Phím Lõm” của GS Trần Quang Hải sẽ giúp các bạn tham khảo thêm về lịch sử sáng tạo cây đàn phím lõm đặc trưng dành cho các thể loại Vọng Cổ, Đờn Ca Tài Tử, và Cải Lương của miền Nam, Việt Nam.
Mời các bạn cùng thưởng thức các âm giai của thể điệu Vọng Cổ, bắt đầu với bài cha đẻ của bài Vọng Cổ, tức bài Dạ Cổ Hoài Lang, do các nghệ nhân đặc truyền của Cổ Nhạc trình diễn.
Túy Phượng

(GS Trần Quang Hải)
Guitar phím lõm còn có các tên gọi khác như: guitar vọng cổ, guitar cải lương, lục huyền cầm. Đó là loại nhạc cụ độc đáo của Việt Nam được biến cải dựa trên cây đàn guitar của phương Tây trong quá trình phát triển của loại hình âm nhạc tài tử và cải lương ở Nam bộ.
Để có được cây đàn guitar phím lõm như hôm nay, đó là cả một quá trình thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ phương Tây khác nhau và chính ngay cây guitar phím lõm tự nó cũng đã là một quá trình điều chỉnh, cải biến để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình cảm, kỹ thuật đa dạng và phong phú. Đầu thập niên 30 của thế kỷ trước, guitar xuất hiện trong nhạc tài tử cải lương rồi chìm vào quên lãng, mãi đến những năm cuối thập niên 30, khi nó được các tay đờn lão luyện của âm nhạc tài tử cải lương khoét lõm phím và thổi vào nó những “chữ đờn” mê hoặc lòng người, giới tài tử cải lương mới công nhận rằng nó là nhạc cụ không thể thiếu trong các ban nhạc của mình và guitar phím lõm được sủng ái từ đó…
Câu hỏi “Tại sao phải đi thử nghiệm các loại nhạc cụ Tây phương để bổ sung cho dàn nhạc tài tử?” vẫn còn một lời giải đáp ẩn. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào trả lời câu hỏi đó. Các nhạc cụ dân tộc của chúng ta không chuyển tải hết nội dung của âm nhạc tài tử cải lương buộc các nghệ nhân phải tìm những nhạc cụ khác để bổ khuyết hay đó chỉ là một sự thử nghiệm với tính chất hiếu kỳ?
Mặc dù ngày nay, guitar phím lõm không còn xa lạ gì với người dân Việt Nam, nhất là đối với khán thính giả cải lương. Song hiểu thấu đáo cội nguồn của cây đàn này không phải là điều đơn giản. Cho đến nay còn rất ít sách vở nói về lai lịch của nó.
Trong một số sách chuyên khảo về nhạc cải lương như: Tìm hiểu âm nhạc cải lương (Đắc Nhẫn), Sân khấu cải lương (Gs. Hoàng Như Mai) không thấy đề cập nhiều đến cây đàn ghi-ta phím lõm. Trong Nhạc khí dân tộc Việt (Võ Thanh Tùng), phần nhạc khí guitar phím lõm chỉ đi vào khía cạnh tính năng nhạc cụ… Chỉ có tài liệu duy nhất tương đối đầy đủ (tuy chưa có điều kiện phổ biến rộng rãi) đó là công trình nghiên cứu dày hơn 100 trang của nhạc sĩ Kiều Tấn với tựa đề “Tìm hiểu cây đàn ghi-ta phím lõm trong âm nhạc tài tử và cải lương” (luận văn tốt nghiệp đại học khoa Lý luận âm nhạc – Nhạc viện Tp.HCM 1991-1992).

Violoncello, violin và piano thử chơi nhạc tài tử cải lương
Năm 1927, tại Sài Gòn có ông Jean Tịnh rồi ông Sáu Hiệu thử dùng violoncello để chơi một số bài bản tài tử cải lương nhưng không thành công do âm vực đàn quá trầm.
Sau đó ông Jean Tịnh tiếp tục thử nghiệm với cây đàn violin, có khi có sự phụ họa piano của một người bạn Pháp. Cùng thời điểm này, ở Sóc Trăng có các ông Sáu Tài, Bảy Cảnh cũng dùng violin để chơi nhạc tài tử. Âm thanh violin mềm mại, truyền cảm, gần với giọng hát, có thể chơi được các bài bản hơi Nam và hơi Bắc. Vì vậy một số nghệ nhân đàn cò nổi tiếng thời bấy giờ đã dùng violin để chơi nhạc tài tử cải lương. Sự thành công bước đầu đó thúc giục giới nhạc công nhạc tài tử cải lương tiếp tục những thể nghiệm với những nhạc cụ khác của phương Tây.
Mandolin vào cuộc – “dây xề bóp” và “dây xề buông”ra đời
Vào khoảng năm 1930 ở Rạch Giá có các ông Giáo Tiên, Bảy Thông, Ba Lạc, Năm Lắm… rất nổi tiếng trong việc dùng mandolin để chơi nhạc tài tử, cải lương. Song đứng về góc độ của một nhạc công, họ cũng chưa hài lòng lắm vì mandolin âm thanh sáng, trong trẻo nhưng với hệ thống phím điều hòa, nó chỉ đàn được những bản hơi Bắc, còn các bản hơi Nam thì không xử lý được và nhất là thiếu sự trầm ấm gần gũi với giọng hát. Cũng chính vì nhược điểm này mà một số người chuyển qua dùng guitar. Tuy nhiên, có lẽ do người thử nghiệm đàn guitar không phải là những tay đờn cự phách và guitar vẫn chưa được khoét phím lõm nên không lưu lại ấn tượng gì trong giới nhạc tài tử cải lương, để rồi guitar chìm vào trong quên lãng.
Để chơi được các bản hơi Nam, các nhạc công đã liên tưởng đến cây đàn nguyệt với những phím sâu dùng để nhấn ngón, thế là người ta khoét lõm phím đàn của mandolin, và mandolin phím lõm ra đời.
Vào khoảng năm 1934-1935 các ông Hai Nén và Hai Nhành là những người đầu tiên sử dụng mandolin phím lõm.
Mandolin phím lõm mắc dây đơn (thay cho dây đôi) và dùng hệ thống dây: Sol, Do, Sol, Ré thay cho hệ thống dây: Sol, Ré, La, Mi. Trong giới nhạc lúc bấy giờ gọi là “dây xề bóp” (vì phải bấm nốt Xề trên dây Xàng – “bấm” gọi nôm na là “bóp”).
Không lâu sau, người ta thấy rằng, nốt Xề với nốt bấm không hiệu quả bằng nốt Xề dùng trên dây buông. Vì vậy, người ta lên dây Xàng (nốt Do) cao hơn 1 cung để thành dây Xề (nốt Ré). Hệ thống dây bây giờ đổi lại là : Sol, Ré, Sol, Ré. Hệ thống dây này được gọi là “dây xề buông”.
Guitar phím lõm – ông hoàng của dàn nhạc tài tử cải lương xuất hiện
Mandolin phím lõm ra đời, tuy đã giải quyết được vấn đề trình tấu những bài bản thuộc hơi Nam, nhưng kỹ thuật diễn tấu đã gây nhiều khó khăn cho nhạc công. Đầu tiên, độ căng cứng của dây đàn mandolin làm cho nhạc công quá đau tay với những ngón nhấn, phím đàn quá hẹp khó nhấn sâu, không phù hợp cho việc đệm bài Dạ cổ hoài lang giọng nam ca. Trong lúc này, bài Dạ cổ hoài lang đã chuyển qua nhịp 8 và là bài bản chủ đạo đang tung hoành trên các sân khấu cải lương. Thêm vào đó, âm vực không trầm ấm, không mềm mại khó tạo được sự “mùi mẫn”. Mandolin phím lõm chưa đáp ứng được hết những đòi hỏi của nhạc tài tử cải lương.
Trong lúc mandolin phím lõm chưa chinh phục được giới nhạc tài tử cải lương và chưa kịp đặt cho mình một cái tên thì năm 1937 đàn guitar “tái xuất giang hồ”. Nhưng lần này, guitar mang diện mạo khác, đó là các phím đàn được khoét lõm như mandolin phím lõm. Người thực hiện khoét lõm cây đàn guitar và thay những dây nylon bằng dây kim loại có thể là ông Trần Bửu Lương (Mười Út) – một nghệ nhân đồng thời là một thợ làm đàn guitar ở Sài Gòn.
Ông Chín Hòa được xem là người đầu tiên sử dụng guitar phím lõm để đàn vọng cổ với đĩa hát Asia thu bài Dạ cổ hoài lang nhịp 8 Nặng gánh nợ đời do nghệ sĩ Năm Nghĩa ca. Và cũng từ đó, mandolin phím lõm nhường bước trước sự phát triển và không ngừng hoàn thiện của guitar phím lõm.
Đầu tiên đàn guitar phím lõm ra đời được mang tên là “lục huyền cầm” tuy nó chỉ có 4 dây. Cho đến ngày nay, nó được sử dụng phổ biến với hệ thống gồm 5 dây, đó là cả một quá trình cải biến, điều chỉnh với sự đóng góp của nhiều nghệ nhân danh tiếng trong làng nhạc tài tử cải lương.
Những bước phát triển để hoàn thiện của guitar phím lõm
Dây Sài Gòn
Ông Chín Hòa là người đầu tiên đờn bài vọng cổ bằng guitar phím lõm để thu âm, nhưng tiếng đờn của ông chưa được mượt mà, êm ái, vì ông là người chơi đàn nguyệt. Để mọi người thật sự thích thú, say mê tiếng guitar phím lõm phải kể đến công lao và tài nghệ của hai ông Ba Kéo và Armand Thiều ở Sài Gòn. Hai ông đã tạo nên một phong cách chơi đàn được giới tài tử cải lương Nam bộ tôn trọng như một “trường phái” của Sài Gòn. Cũng từ đó, tuy hệ thống dây các ông đang dùng là hệ thống “dây xề buông” nhưng được mọi người hâm mộ và gọi là “dây Sài Gòn”.
Dây Rạch Giá
Khoảng năm 1938, xuất hiện một lối đánh vọng cổ nghe khác hẳn “dây Sài Gòn”, đầu tiên được ông Trần Bửu Lương (Mười Út) chơi và sau đó là các ông Mười Còn, Bảy Hàm… Hệ thống dây này là hệ thống dây đàn mà ông Giáo Tiên ở Rạch Giá đã thử nghiệm trên đàn mandolin vào khoảng năm 1930 như đã nói trên, nên nên người ta gọi là “dây Rạch Giá”. Người đầu tiên sáng tạo ra các chữ đàn vọng cổ trên “dây Rạch Giá” cho guitar phím lõm là ông Mười Út.
Đàn octavina
“Dây Sài Gòn” và “dây Rạch Giá” chỉ thuận tiện cho thế bấm ngón tay khi bậc hò là Sol (giọng nam), còn khi bậc hò là Ré (giọng nữ) thì bị tréo ngón tay. Để đàn với bậc hò là Sol mà không có cảm giác phải ca “lòn” đối với giọng nữ, người ta nghĩ đến việc thu nhỏ kích thước cây guitar phím lõm lại. Vì vậy, khoảng năm 1938-1939 một kiểu đàn mới ra đời, cây đàn này nhỏ hơn guitar nhưng lớn hơn mandolin và người ta đặt cho nó tên gọi là “ghi-ta măng-đô”. Điều đáng chú ý là cây đàn này có có bàn phím dày và độ lõm cũng được khoét sâu hơn. Âm sắc lạ và cả nam lẫn nữ đều ca chung trên một bậc hò nên được nhiều người ưa thích. Theo ông Giáo Thinh, sở dĩ cây đàn này sau được gọi là octavina, có lẽ do viết tắt từ 2 chữ: octave (quãng và Việt Nam mà ra.)
Dây Tháp Mười (dây hò đậy)
Ở thời điểm này, dây đàn guitar phím lõm cũng như octavina dùng dây số 1 và 2 có tiết diện tương đối lớn nên độ căng của dây khá cứng, gây khó khăn trong diễn tấu. Để khắc phục tình trạng này, khoảng năm 1941-1942, các nghệ nhân vùng Tháp Mười đã hạ thấp cao độ dây xuống (thường là quãng 4 đúng) để dây chùng, bấm nhẹ tay hơn. Vì dây chùng thấp xuống nên khi đờn, các bậc hò phải tăng cao lên, bậc hò là Sol trước đây đờn ở ngăn thứ 5 thì bây giờ phải đờn ở ngăn thứ 10. Do đó, các bậc hò không rơi vào dây buông mà rơi vào ngón bấm, người ta gọi hệ thống dây này là “dây hò đậy” (“đậy” có nghĩa che lại, chỉ các ngón bấm). “Dây Tháp Mười” có ưu điểm là dây mềm, dễ nhấn nhá nhưng thế tay phải bấm liên tục, trên thực tế ít người sử dụng và không phổ biến lắm.
Dây tứ nguyệt
Các dây “Sài Gòn”, “Rạch Giá” không đáp ứng được bậc hò cho giọng nữ, đàn octavina cũng chỉ là một biện pháp tình thế mang tính chất thay đổi âm sắc, dây “Tháp Mười” chỉ là vấn đề kỹ thuật. Bản chất việc giải quyết bậc hò cho giọng nữ cho đến thời điểm này vẫn chưa được giải quyết. Vào khoảng năm 1942-1943, hệ thống dây dành cho giọng nữ ca được ra đời gọi là “dây tứ nguyệt”. Hệ thống “dây tứ nguyệt” như sau:
Giải thích về chữ “tứ nguyệt” có người cho rằng đó là một cách gọi văn hoa như kiểu “dây tố lan” trong đàn nguyệt, song cũng có người giải thích rằng: “tứ” là bốn (4 dây), “nguyệt” là đàn nguyệt (mắc dây theo cách mắc dây đàn nguyệt). Một thời gian ngắn sau đó người ta thêm vào “dây tứ nguyệt” một dây số 5 nữa, đó là dây Ré như sự mở rộng bồi thêm một quãng 8 dưới của dây số 3 (Ré). Với tầm âm phù hợp với giọng hát, “dây tứ nguyệt” đàn bài vọng cổ nghe ngọt ngào, mùi mẫn, và nó có thể đàn được tất cả các bài bản tài tử cải lương một cách thoải mái. Thế là guitar phím lõm giành lại vị trí quan trọng trong dàn nhạc mà một thời gian ngắn vừa qua rơi vào octavina. Giai đoạn này nổi lên nhiều danh cầm guitar phím lõm như: Sáu Lời, Ba Lích, Tư Long, Văn Vĩ…
Dây lai – thử nghiệm có giá trị cao cho tới ngày nay
“Dây tứ nguyệt” tuy có nhiều ưu điểm hơn so với tất cả các thử nghiệm, song khi đàn bậc hò Sol cho nam ca thì thế tay vẫn chưa thuận tiện. Vào khoảng năm 1948-1949, để đáp ứng sự đa dạng trong ca diễn của sân khấu cải lương với nhiều loại bài bản và nhiều bậc hò khác nhau, các nghệ sĩ cải lương đã cải tiến “dây tứ nguyệt” thành một loại dây mới gọi là “dây lai”, sự thay đổi của “dây lai” từ “dây tứ nguyệt” đó là dây số 4 – dây Xề (nốt La) được hạ xuống thành Xàng (nốt Sol). “Dây lai” có cấu tạo:
“Dây lai” là sự kế thừa các loại dây Sài Gòn, Rạch Giá, Xề bóp và Tứ nguyệt như sau:
– Bốn dây số 5, 3, 2, 1: lai “dây tứ nguyệt”
– Ba dây số: 4, 3, 2: lai “dây Rạch Giá”
– Ba dây số: 4, 3, 1: lai “dây Sài Gòn”
– Hai dây số: 4, 1: lai “dây xề bóp”
“Dây lai” có thể xem như hệ thống dây tương đối hoàn chỉnh, nó có khả năng chơi tất cả các bài bản cổ cũng như các bài bản mới, đặc biệt trong sân khấu cải lương, nó có thể đánh hợp âm đệm cho các sáng tác mới như guitar. Sau hệ thống “dây lai”, tuy có nhiều thử nghiệm như “dây Ngân giang”, “dây Bảo Chánh”, “dây bán Ngân giang”, hoặc một số thử nghiệm mắc hệ thống 6 dây, 8 dây – tuy nhiên cho đến nay, đã hơn nửa thế kỷ qua, chưa có một thử nghiệm nào chứng minh là ưu việt hơn “dây lai”. Thời gian dài này cũng là thời gian đã xuất hiện nhiều tay đờn trứ danh của nhạc tài từ cải lương như: Năm Cơ, Bảy Bá, Văn Vĩ, Tư A, Văn Còn, Hai Thơm… Trong đó, nghệ sĩ Văn Vĩ được xem như là “đệ nhất danh cầm guitar phím lõm miền Nam” và các nghệ sĩ Văn Vĩ, Năm Cơ, Bảy Bá được xem là “tam hùng”.
oOo
Dạ Cổ Hoài Lang – Hương Lan:
Hòa tấu Vọng Cổ – Văn Vĩ, Năm Cơ, Bảy Bá:
Sáu câu vọng cổ dây kép – Danh cầm Văn Vĩ độc tấu Guitar:
Vọng cổ 1,2,3 dây ngân giang – Danh cầm Văn Vĩ độc tấu Guitar:
Hoa Lan Trắng – Sầu nữ Út Bạch Lan:
Tâm sự người cung nữ – Sầu nữ Út Bạch Lan:
Vọng Cổ Quê Tôi – Hữu Phước:
Bà Mẹ Quê (vọng cổ) – Hương Lan:
Út Trà Ôn – 34 bài vọng cổ (4 giờ)
Em cám ơn chị Phượng đã giới thiệu. Các clip này thật mùi mẫn.
ThíchThích
Cám ơn Thu Hương chia sẻ cùng chị. Vậy là em đã rung động vì Vọng Cổ rồi hén. Không rung động thì em sẽ không thể cảm nhận tính chất mùi mẫn được đâu. 🙂 🙂 🙂
Luôn vui, khỏe Hương nghe. XO
ThíchThích
mình rất thích vọng cổ và đang tập trên cây đàn Guitar, có rất nhiều bài đờn 6 câu vọng cổ, mỗi người mỗi khác. mình đang tìm kiếm bản phiên âm QUỐC TẾ cho 6 câu vọng cổ của NS Van hải mà không thấy (giống như bài ký âm QT của Lê Văn Thành ở trên, nhưng bài này đơn giản quá), xin mọi người kiếm giúp được không ạ, cám ơn nhiều
DinhNL
ThíchThích