Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 2 (PHẦN 2)

Người dịch: Phạm Thu Hường

MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ

CHƯƠNG 2: Phương Pháp Và Tâm lý Của Sự Trì Hoãn
(Phần 2)

2A. Chủ nghĩa tối giản có tổ chức: Bẫy khái niệm của các hội nghị khí hậu thế giới và giao dịch thương mại phát thải

Kể từ giữa những năm 1990, các hội nghị khí hậu thế giới đã được coi trọng như là một tiêu điểm chủ chốt để đưa vào khái niệm thay đổi năng lượng, một sự thay đổi cần phải được đồng thuận trên toàn cầu và được triển khai ở mỗi quốc gia. Kết quả là, công chúng thế giới đã phải ngạc nhiên và sửng sốt trước những kết luận đáng xấu hổ của Hội nghị Copenhagen của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu vào tháng 12/2009, bởi họ đã không thể ngờ được hội nghị có thể thất bại.

Những điềm xấu đã xuất hiện từ trước: một vấn đề cấp thiết rõ ràng, những thông báo lạc quan của chính phủ, những thỉnh cầu dai dẳng đến các tổ chức phi chính phủ (NGOs), một dòng người khổng lồ với 65000 người tham gia và sự hiện diện của 120 người đứng đầu các chính phủ, khiến cho cuộc họp trở thành một hội nghị thượng đỉnh “G120”. Đó là hội nghị chính trị lớn nhất trong lịch sử thế giới.

Nhưng thất bại đã xảy ra là điều không quá là đáng ngạc nhiên. Hội nghị khí hậu này đã chạy theo cùng một kịch bản giống như mỗi lần hội nghị trong 14 lần trước đó kể từ năm 1995: khẩu hiệu “bây giờ hoặc không bao giờ” xuất hiện trong giai đoạn chuẩn bị cho hội nghị, những thương lượng thiển cận và đờ đẫn trong suốt cuộc hội nghị dẫn đến những kết quả đáng thương, quyết định tổ chức hội nghị tiếp theo và cuối cùng là sự lên án các bên đã vi phạm.

Ngoại lệ duy nhất, mặc dù khiêm tốn, là Nghị định thư Kyoto* mà cuối cùng đã trở nên có hiệu lực vào năm 2005. Phải thừa nhận rằng, điều rõ ràng ngay từ đầu là Nghị định thư Kyoto không thể ngăn chặn một sự gia tăng hơn nữa việc phát thải khí nhà kính, và vì thế rất dễ dàng để phỏng đoán rằng chỉ có sự thiếu khả năng của Nghị định đã cho phép sự phê chuẩn được thực hiện.

Nếu có một bên duy nhất phải chịu trách nhiệm về kết quả nghèo nàn tại Copenhagen, thì đó chính là bản thân ý tưởng về một hội nghị khí hậu thế giới ngay từ đầu, một ý tưởng dựa trên hai cơ sở rất có vấn đề:

  • Đầu tiên: dựa trên cơ sở về một giải pháp toàn cầu, trong đó việc phân bổ nghĩa vụ tương đương cho tất cả mọi người là quan trọng, bởi vì chúng ta đang đối phó với một vấn đề toàn cầu.
  • Thứ hai: dựa trên cơ sở về các biện pháp bảo vệ khí hậu cần được xem như là một gánh nặng kinh tế, với sự cần thiết phải đàm phán để “chia sẻ gánh nặng” dựa trên sự đồng thuận.

Cuối cùng, ý tưởng này dồn xuống trọng tâm “tất cả hoặc không ai cả“, nhưng mặc dù có sức thuyết phục về mặt lý thuyết, trong thực tế điều này là ảo tưởng. Vấn đề thực sự lại nằm ở chính sự tương hợp trong tư tưởng của “cộng đồng” mới nổi của các nhà ngoại giao khí hậu, các tổ chức phi chính phủ về môi trường quốc tế và các viện nghiên cứu khí hậu. Niềm tin rằng “không có sự thay thế” là một sai lầm.

Tình trạng tê liệt của sự đồng thuận

Tình trạng tiến thoái lưỡng nan cơ bản mà tất cả các hội nghị khí hậu thế giới cho đến nay phải đối mặt là cho rằng thỏa thuận toàn cầu về các sáng kiến nhanh chóng và toàn diện để bảo vệ khí hậu thế giới phải đạt được bằng sự đồng thuận. Tuy nhiên, có một mâu thuẫn cơ bản và không thể hòa giải giữa tăng tốc hành độngđạt được đồng thuận.

Một thỏa thuận quốc tế ràng buộc càng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu kinh tế và xã hội của từng quốc gia bao nhiêu, thì càng khó bấy nhiêu để đạt được sự đồng thuận. Trong trường hợp về vấn đề năng lượng, điều này luôn luôn đúng, mặc dù (như đã được khái quát trong Chương 1) theo những cách rất khác nhau và theo điều kiện đặc biệt của mỗi nước. Sự kêu gọi trách nhiệm và thiện chí của chính phủ không thể vượt qua những khác biệt này. Thực sự là không thể đạt được một thỏa thuận trọng yếu trong đó liên quan đến nghĩa vụ bình đẳngđồng thời, bởi vì hoàn cảnh quá bất bình đẳng.

Nghị định thư Kyoto đã chỉ được thông qua bởi vì cam kết này giải phóng hầu hết các nước (bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ) khỏi bất kỳ nghĩa vụ nào để hành động. Rõ ràng ngay từ đầu trong các thỏa thuận Kyoto II, thiết kế cho giai đoạn sau năm 2012, không thể cho phép những sự miễn trừ trách nhiệm đó, nếu không muốn các nỗ lực để đạt được một thỏa thuận toàn cầu về khí hậu cuối cùng trở thành một trò khôi hài. Nhưng điều này chỉ làm tăng thêm tình trạng khó xử cơ bản mà các hội nghị khí hậu thế giới đang phải đối mặt.

Sau nhiều cuộc đàm phán kéo dài và gian khổ, điều lớn nhất có thể đạt được là sự đồng thuận về nghĩa vụ tối thiểu, nhưng vẫn còn tụt hậu xa so với thực tế về mối đe dọa khí hậu. Tuy nhiên Hội nghị Copenhagen đã chứng minh một cách ngoạn mục rằng ngay cả mục tiêu tối thiểu này cũng khó có thể thực hiện được (đối lập với áp lực phải hành động và tất cả các mong đợi và thông báo). Hội nghị này đã thất bại mặc dù mục tiêu đàm phán đã được thỏa hiệp ngay từ đầu và đã đại diện sự thỏa ước một phần khi đối mặt với biến đổi khí hậu trên thế giới.

Phát thải khí nhà kính chỉ được giới hạn để không làm bầu khí quyển của Trái đất nóng lên quá 2°C (hiện tại đã tăng 0.7°C so với sự cân bằng nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất từ đầu thời đại công nghiệp). Khi có hiệu lực, cam kết này chấp nhận một sự tăng trưởng hơn nữa trong mối nguy biến đổi khí hậu, từ mức hiện tại của nồng độ CO2 là 385 ppm trong khí quyển có thể lên đến 450 ppm.

Để có được sự hình dung tương đương, trong năm 2000, Liên Hiệp Quốc công bố ấn bản Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của tổ chức, bao gồm mục tiêu làm giảm một nửa số người đói của thế giới từ mức 820 triệu người trong năm 2000. Hãy tưởng tượng công chúng thế giới sẽ phản ứng thế nào nếu ấn bản Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ đã phát biểu: “không cho phép con số 820 triệu người đói được tăng lên hơn 2 tỷ người”?

Tại sao các thành viên của cộng đồng đã cho phép “mục tiêu hai độ C” để trở thành thước đo mà tất cả được đánh giá đều được dựa vào đó, cho dù chính họ liên tục trích dẫn các nghiên cứu nổi tiếng của nhà khoa học Anh, Nicholas Stern, trong đó khẳng định rằng biến đổi khí hậu ngày càng tăng mạnh gây ra thiệt hại kinh tế đáng kể nhiều hơn những gì có thể được bù đắp bởi tăng trưởng kinh tế? Làm thế nào mà một mục tiêu định mệnh như vậy có thể được mong đợi sẽ mở ra triển vọng mới?

Thông thường, bất kỳ thỏa hiệp nào cũng vẫn còn tốt hơn là không có, bởi vì tất cả mọi người đều giả định rằng sự thỏa hiệp này liên quan đến việc gánh vác những nghĩa vụ lớn hơn những nghĩa vụ đã tồn tại trước đó. Nhưng “công cụ linh hoạt” được ưa thích về giao dịch phát thải cacbon đã gây trở ngại cho chính cơ hội gánh vác nghĩa vụ lớn hơn này – công cụ được thiết kế để đảm bảo và thực hiện các thỏa thuận đơn giản hơn bằng cách sử dụng “cơ chế thị trường.

(còn tiếp)

Chú thích:

* Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol): là một cam kết yêu cầu các bên tham gia (175 quốc gia) phải có hành động giảm thiểu phát thải CO2 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay thế như giao dịch thương mại khí thải nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó. Chính vì thế mà tác giả Hermann đã viết “Nghị định thư Kyoto không thể ngăn chặn một sự gia tăng hơn nữa việc phát thải khí nhà kính” bởi vì cam kết này chỉ có thể làm giảm tốc độ phát thải, hơn nữa hiệu quả rất hạn chế -ND. (Xem thêm: CCNLCTĐ_Chương 5)

© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH

Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.

Bản quyền bản dịch:  dotchuoinon.com

3 thoughts on “Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 2 (PHẦN 2)”

  1. Cảm ơn Hằng,

    Các cam kết của các Hội nghị khí hậu quốc tế thật sự là một nghịch lý mà nếu không có tầm nhìn thì rất dễ mắc bẫy trong những khái niệm này. Các công cụ kinh tế cho mục tiêu “cắt giảm phát thải” bằng cách “cắt không khí” ra đem bán như là “quyền phát thải tối thiểu” cuối cùng đã dẫn đến những kết quả nghịch lý và đã bỏ qua mọi vấn đề môi trường, xã hội, di sản độc hại khác của khai thác năng lượng truyền thống. Có rất nhiều những mục tiêu “tốt đẹp” nhưng cách làm lại dẫn đến kết quả hoàn toàn trái ngược do thiếu tầm nhìn và cách thực hiện cứng nhắc đóng khuôn trong tư duy cũ như vậy.

    Bức hình Hằng gửi rất có ý nghĩa pushing về những “thỏa hiệp vô nghĩa” về khí nhà kính, cần những tiếng nói quyết liệt hơn cho chuyển đổi sang NLTT trong những Hội nghị khí hậu như thế này.

    Mời cả nhà đón đọc tiếp Chương 2 với tầm nhìn rất sâu rộng của tác giả.

    Like

  2. Có lẽ chủ nghĩa đồng thuận mà không có chế tài (sanction, trừng phạt) và lãnh đạo mạnh (strong leaders), thì sự đồng thuận đó chẳng có nghĩa lý gì.

    Và dù có đồng thuận hay không thì lãnh đạo mạnh luôn cần thiết để một hệ thống lý thuyết có thể được thúc đẩy để thực hiện hiệu quả.

    Like

  3. Em chợt nhớ ra hình này, rất phù hợp cho chương 2 nói về các các cam kết của global climate conference. Mời cả nhà tiếp tục theo dõi chương rất thú vị này liên quan đến các đàm phán nghị định thư và phát thải

    Like

Leave a comment