Tranh luận về năng lượng sạch và không sạch

Chào các bạn,
Green_Renewable_Energy
Thời gian gần mình viết những bài về việc vì sao chúng ta cần phát triển năng lượng tái tạo thay vì các nguồn năng lượng truyền thống là than đá, dầu mỏ, khí đốt và cần phản đối phát triển điện nguyên tử kèm theo nguy cơ vũ khí hạt nhân.

Bài này mình muốn chia sẻ vài dòng là vì sao chúng ta vẫn cần tiếp tục đấu tranh, hay ít nhất mình vẫn sẽ tiếp tục viết và chia sẻ với các bạn về vấn đề năng lượng sạch và không sạch này và cần giữ tinh thần đấu tranh trong tư duy tích cực như thế nào. Các bạn sẽ thấy trong cách cuộc tranh luận về năng lượng này phía ủng hộ phát triển năng lượng tái tạo sẽ đưa ra 1000 lý do vì sao chúng ta cần năng lượng sạch ví dụ như những gì mình có đề cập trong mấy bài gần đây. Bạn đọc thấy rất hay và có lý nhiều mặt và có thể ủng hộ theo vì những ưu điểm của nguồn năng lượng sạch bạn chưa được nghe nhiều và chưa thực sự hiểu về nó từ trước đến nay.

Sau đó bạn lại thấy phía ủng hộ năng lượng hóa thạch, than đá, dầu mỏ, điện nguyên tử, và các thủy điện khổng lồ lại đưa ra 1001 lý do vì sao phát triển năng lượng tái tạo chưa khả thi chúng ta vẫn cần khai thác nguồn năng lượng truyền thống cho tới những giọt cuối cùng trên trái đất. Ví dụ để phát triển kinh tế, cùng lúc vẫn cố gắng bảo vệ môi trường…Lúc này bạn bắt đầu thấy loạn lên và hoang mang không hiểu bên nào đúng vì 1001 lý do đó cũng hợp lý quá, từ trước nay ta vẫn sống phụ thuộc và năng lượng hóa thạch than đá dầu mỏ đó thôi. Các bạn, thực sự là khi tranh luận để chứng minh rằng điều gì đúng bên nào cũng sẽ cố gắng đưa ra được những lý lẽ đủ để thuyết phục người khác ủng hộ phía mình theo mọi góc cạnh kinh tế, khoa học, chính trị. Theo kiểu đúng sai đó, ta có lẽ tranh luận bất cứ thứ gì đúng thành sai, sai thành đúng.
Mình liên hệ với tư duy tích cực một chút: chỉ có một số ít nơi như ĐCN nói là tư duy tích cực là chỉ có một chiều và một chiều. Trong khi đó chúng ta nghe khắp nơi những thứ chống tư duy tích cực thứ như là tích cực và tiêu cực là 2 mặt của cuộc sống, phải có đi có lại làm gì có đường một chiều và bạn lại hoang mang. Tuy nhiên tư duy tích cực nhiều khi không phải nói nhiều, hay tranh luận gì cả tự thân sẽ có năng lượng tích cực và thuyết phục được người khác. Điều khác trong đấu tranh cho môi trường, cho phát triển năng lượng tái tạo ở chỗ ta vẫn phải nói phải tranh luận.Vậy thì khi tranh luận bảo vệ cho môi trường, cho vấn đề năng lượng sạch này, cũng như các vấn đề liên quan khác làm thể nào để mình không bị cho là lý luận sai (fallacy), bị cảm xúc lấn át, bị thiên vị mà quên đi lợi ích của nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống vv.vvv

Thứ nhất: không vì động cơ cá nhân: cá nhân ở đây không chỉ là một con người mà là một nhóm người một tổ chức. Mức độ cá nhân, chỉ để chứng minh kiến thức của mình, công trình khoa học, phát minh của mình đúng siêu việt là luôn luôn cải tiến và cần đi vào ứng dụng bất chấp lợi hại ra sao. Mức độ lợi ích nhóm ví dụ nhà khoa học được tài trợ bởi các công ty than đá, dầu khí ra sức bảo vệ cho những công trình về kỹ thuật, công nghệ và chứng minh rằng nó đảm bảo môi trường kể cả được ủng hộ bởi nhiều nhà khoa học danh tiếng.

Thứ hai: Đảm bảo công bằng, đấu tranh cho hòa bình thực sự mà không làm tổn thương đến thiên nhiên con người: Ví dụ nói về công lý (justice), các quốc gia tiếp tục phát triển điện hạt nhân cùng lúc với vũ khí hạt nhân, có thể với biện luận như sau: kẻ thù hay khủng bố có thể tấn công thế giới bất cứ khi nào, ta có vũ khí hạt nhân để đập lại chúng. Và họ cho rằng đó cũng là đấu tranh cho hòa bình công lý.

Thứ ba: Tự tin không sợ: Một trong những nỗi băn khoăn lo lắng là vậy thì nếu chúng ta chuyển hoàn toàn sang năng lượng tái tạo thì cả hệ thống năng lượng cũ vứt đi đâu còn người lao động. Nếu bạn có đọc bài về Hệ thống năng lượng bền vững thì bạn làm ở bất cứ ngành nghề gì ở đâu cũng có thể tham gia vào cuộc chuyển đổi này. Công nghệ cho năng lượng tái tạo không có gì là mới tinh, với mức độ phát triển các ngành khoa học kỹ thuật hiện nay đều thực hiện được. Bất cứ sự chuyển đối nào cũng khiến con người sợ hãi vì nhiều lý do liên quan đến quyền lợi. Khi chúng ta bỏ qua nỗi sợ hãi, cùng ngồi với nhau làm việc thì sẽ có giải pháp.

Thứ tư: Để đảm bảo được những điều trên, từ cá nhân chúng ta cần khiêm tốn và học tập không ngừng có kiến thức thật vững trong vấn đề này, đừng lờ mờ, nghe loáng thoáng thấy hay hay và ủng hộ vì ai lý luận cũng hay. Sau đó có người đưa ra những bằng chứng khác nhau lại khiến mình hoang mang. Khi ta tận tay đi vào tìm hiểu thực sự vấn đề của những hệ thống năng lượng và môi trường sẽ thấy rất thú vị vì nó liên quan đến mọi thứ trong cuộc sống xung quanh. Chúng ta không hoàn toàn phủ nhận mà trân trọng những gì năng lượng hóa thạch hay phát minh về nguyên tử mang lại. Chỉ là đến lúc chúng ta đã có đủ nhận thức về nhân văn thực sự, đủ điều kiện về khoa học kỹ thuật thì cần thay đổi. Đừng ngồi yên chờ chính phủ. Nhận thức của mỗi người dân mạnh lên cũng là giúp chính phủ mạnh lên.

Bản thân mình không thích tranh luận vì nhiều khi mất thời gian. Đặc biệt là ở phương Tây hiện nay khi tranh luận về vấn đề này hay dùng những thứ nghe kêu kêu như scientifically sound, economically sound or politically acceptable tạm dịch ra là cần đảm bảo bằng chứng khoa học, khả thi về kinh tế, chấp nhận được về mặt chính trị nghe nhiều khá nhàm. Nhưng các bạn chúng ta vẫn cần phải tranh luận và đưa ra tiếng nói bởi vì lợi ích của những người thấp cổ bé họng hơn chúng ta nhiều. Những người không có cơ hội thể hiện tiếng nói của mình. Ví dụ dân nghèo chịu lũ lụt vì thủy điện, người dân lao động hầm mỏ hoặc sống quanh khu mỏ…Trách nhiệm của chính trị gia, nhà khoa học những nhà hoạt động môi trường xã hội là giúp họ nói được tiếng nói của mình. Đối với thiên nhiên thực ra không cần chúng ta phải lên tiếng nhiều, thiên nhiên có luật của thiên nhiên và cứ tát trả thẳng vào mặt chúng ta mà đôi khi chẳng cần báo trước gì.

Vấn đề năng lượng cũng vậy, khi mà chúng ta hay những người dân nghèo nói riêng chưa có nhận thức đúng đắn về vấn đề môi trường, năng lượng. Trong khi điện thì vẫn cúp thường xuyên ở thành phố và vùng nông thôn vẫn mù mờ trong bóng tối. Nếu được hỏi là họ có đồng ý phát triển điện nguyên tử không, có muốn tiếp tục sử dụng năng lượng hóa thạch không thì mình e là câu trả lời CÓ sẽ nhiều hơn là KHÔNG. Những gì chúng ta đang làm để giúp phát triển năng lượng tái tạo đều chưa đủ từ giới chính trị, nhà khoa học, ngành công nghiệp, các tổ chức NGOs, ngành công nghiệp năng lượng.

“No one truly knows a nation until one has been inside its jails. A nation should not be judged by how it treats its highest citizens but its lowest ones” Mình trích câu này của tổng thống Nam Phi Nelson Mandela điều ông nói không chỉ đúng cho 1 quốc gia mà cho cả thế giới này.

Những người đấu tranh cho môi trường, công bằng bình đẳng năng lượng, đấu tranh cho bình đẳng và quyền lợi của những người ít quyền lực nhất trong xã hội là những người cần đặt những tư duy tích cực lên hàng đầu. Những nhà đấu tranh cho môi trường, hay chính bản thân mình hơn ai hết đều có chút hy vọng là mình có thể sai khi nói về những tác hại của năng lượng hóa thạch, than đá, dầu mỏ, điện nguyên tử. Tuy nhiên The Truth is the truth. Bạn không thể cầu mong là có động cơ chạy được 100% hiệu suất hay than đá sản xuất điện có hiệu suất 90% được vì trái với quy luật của tự nhiên và khoa học. Định luật bảo toàn năng lượng là điều bất biến trong tự nhiên và khoa học, cũng như luật nhân quả trong cuộc sống.

Chúng ta vẫn phải lên tiếng, đấu tranh và tranh biện cùng lúc kiếm chỗ ngủ, và không chỉ dừng lại ở talking mà cần phải walk the talk trong bất cứ vấn đề gì.

Đào Thu Hằng

9 thoughts on “Tranh luận về năng lượng sạch và không sạch”

  1. Em cảm ơn anh Hoành đã chỉ ra một điểm trọng tâm.VN chưa xây dựng đủ cơ sở hạ tầng cho năng lượng tái tạo. Doanh nghiệp và nhà sản xuất chưa đủ mạnh bứt lên để đưa sản phẩm phổ cập vào từng mảng của thị trường.Em vẫn đang tiếp tục tìm kiếm và tìm hiểu về thị trường ở VN

    Like

  2. Anh có cảm tưởng là câu trả lời nằm trong thị trường–khai thác thị trường năng lượng gì, ở đâu, thì có lời, hay ít nhất là không lỗ.

    Về viễn thông chẳng hạn. Việt Nam và các quốc gia tương tự đã có cơ hội làm bước nhảy vọt về kỹ thuật, bằng cách không lệ thuộc vào dây cáp để tạo mạng lưới điện thoại, và tập trung vào microwave technology cho điện thoại cầm tay. Thế là có hệ thống điện thoại không dây phủ đầy cả nước tức thì.

    Tương tự như thé, nếu có nhiều vùng xa xôi thiếu năng lượng, thì các hệ thống năng lượng tái tạo có thể là cách tốt nhất để nhà nước xóa đói giảm nghèo, vì hạ tầng cơ sở của năng lượng gió, chẳng han, cho vùng đó có thể là rẻ hơn là những trụ điện kéo điện đi cả nhiều km.

    Điểm chính của vấn đề vẫn là thị trường. Và việc này thì các nhà sản xuất giỏi hơn là nhà nước, dù nhà nước có thể tài trợ cho dự án.

    Like

  3. Cảm ơn chị Quỳnh Linh, vậy là chị đã tự trả lời cho băn khoăn rồi đó rồi ;). Cần phối hợp cả 2 phía, quản lý và lãnh đạo có tầm nhìn và sự đồng lòng hợp tác từ người dân. Nếu không có ý thức tiêu dùng thì không hệ thống nào cung cấp được đủ năng lượng đúng không chị.
    Chị Linh nhắc đến Ấn Độ năm 2004 là cách đây cũng gần 10 năm rồi nhỉ. Có dịp em sẽ chia sẻ thêm thông tin về năng lượng sạch cho người nghèo ở Ấn Độ. Hiện giờ vấn đề môi trường của họ vẫn còn tệ hơn mình nhiều nhưng họ phát triển năng lượng tái tạo nhanh hơn mình. Vấn đề của họ là đông dân quá

    Like

  4. Mình có dịp đi Ấn Độ từ 2004 thì thấy năng lượng mặt trời đã được ứng dụng rất tốt trên một hòn đảo. Có lẽ mình chưa ra đảo ở VN nên không biết đảo VN cũng dùng pin mặt trời như vậy. 🙂

    Và đúng là thủy điện cũng là năng lượng tái tạo nhỉ, nhưng gần đây có nhiều bias về thủy điện quá. Vấn đề ở đâu: thủy điện phá hỏng cân bằng sinh thái không thể bù đắp được hay là con người không đến nơi đến chốn trong việc làm của mình?

    Miền Trung nắng gió như vậy, có phải là điều kiện rất tốt cho năng lượng gió và mặt trời không? Hình như mình cũng lại nghe đâu đó là gió Việt Nam … không ổn định nên khó phát triển năng lượng gió?!!

    Vậy vấn đề của Việt Nam là gì? ở ý thức sử dụng năng lượng tái tạo? ở ý thức phát triển hệ thống năng lượng tái tạo để thay thế dần sự chế ngự của năng lượng truyền thống? ở người dân hay ở cấp lãnh đạo, quản lý đất nước? Có lẽ điểm xuất phát luôn từ chính mình – mỗi người dân, Hằng nhỉ. 🙂

    Like

  5. Cảm ơn chị Hường, chị dịch hay quá :). Khi nào có tin từ nhà xuất bản và tác giả chị thông tin cho mọi người hay nha

    Like

  6. Em cảm ơn chị Hường chị Thuận và chị Quỳnh Linh

    Câu hỏi của chị Quỳnh Linh rất hay. Em chưa thể trả lời chi tiết ở đây được vì em chưa có đầy đủ thông tin chính xác ở Việt Nam nhưng có một điểm thế này. Việt Nam không phải là KHÔNG phát triển năng lượng tái tạo mà là đang phát triển nhưng rất chậm chưa đủ và quản lý chưa tốt. Thực tế Thủy điện cũng là năng lượng tái tạo, nhưng chỉ với thủy điện vừa và nhỏ và có quản lý tốt không gây thiệt hại cho người dân như hiện nay. Một điểm nữa là Việt Nam đang cho xây dựng nhà máy điện hạt nhân, điều này cũng cản trở việc phát triển năng lượng tái tạo vì nguồn lực được tập trung vào thứ khác.

    Chị Linh có thể thấy nhiều gia đình ở TPHCM đã sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời đó là năng lượng tái tạo từ mặt trời để đun nước, hoặc pin mặt trời ở ngoài hải đảo vì mạng lưới điện không kéo ra đảo được. Mô hình bếp đun Biogas cũng là năng lượng tái tạo. Nếu chúng ta biết sử dụng năng lượng từ chất thải nông nghiệp cũng là năng lượng tái tạo ví dụ như mỗi năm Việt Nam có hàng trăm nghìn tấn vỏ trấu được thải ra. Năng lượng tái tạo không chỉ dừng lại ở gió và mặt trời

    Một vài điểm tạm thời như vậy, em sẽ cố gắng chia sẻ thêm thông tin và kiến thức trong khả năng mình có

    em Hằng

    Like

  7. Cám ơn Thu Hằng. Mình vẫn lắng nghe và mong muốn tiếp nhận được nhiều thông tin hơn nữa. Trong vấn đề này, câu hỏi đối với mình là tại sao Việt Nam KHÔNG phát triển năng lượng tái tạo?

    Like

  8. Cám ơn Hằng, hay quá, chị như được…”khai sáng”, đúng là mình phải hiểu và nắm kiến thức rất chắc, thì mình mới không để cho người khác “quật” mình được. Thanks em vì những điều em muốn truyền tải. Chị thì nhận thức ra một điều sâu sắc, là đôi khi công lí, sự thật được viết ra từ những người có quyền lực về kinh tế và chính trị trong XH, hay ngay cả những người được coi là trí thức, nên nhóm người thiểu số, những người thấp cổ bé họng, họ có tiếng nói rất yếu ớt và họ ít được lắng nghe.
    Viết nữa nhé em! 🙂

    Like

  9. Cảm ơn em Thu Hằng! I’m always beside you!

    Chị trích một số đoạn trong quyển “Powering Planet Earth” trong chương 6 về năng lượng nguyên tử – điện hạt nhân:

    Nuclear power is as safe as a chocolate factory.
    The Economist, March 29, 1986
    (4 weeks prior to the Chernobyl disaster)

    Điện hạt nhân là an toàn giống như nhà máy sản xuất sô-cô-la.
    Báo Kinh tế, ngày 29 tháng 3 năm 1986
    (4 tuần trước thảm họa nguyên tử Chernobyl)

    Prior to the Fukushima disaster of 2011 in Japan, which will be discussed in some detail in Chapter 9, there had been other no less serious accidents in nuclear power plants. On April 26, 1986, reactor number 4 of the Chernobyl nuclear complex in the Ukraine, then part of the Soviet Union, went out of control and exploded releasing into the atmosphere, within a matter of about 10 days, 6.7 tonnes of radioactive material that contaminated not only the vast areas close to this nuclear installation, but also, albeit less so, some areas of Eastern Europe, Scandinavia, and marginally some areas of Western Europe.

    Trước thảm họa hạt nhân Fukushima xảy ra năm 2011tại Nhật Bản, sẽ được thảo luận chi tiết ở chương 9, đã có nhiều tai nạn không hề ít nghiêm trọng hơn đã từng xảy ra trong các nhà máy điện hạt nhân. Ngày 26 tháng 4 năm 1986, lò phản ứng số 4 của khu sản xuất điện hạt nhân Chernobyl ở Ukraine, sau đó thuộc một phần của Liên bang Xô viết, đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát và phát nổ giải phóng vào khí quyển 6.7 tấn chất phóng xạ trong vòng khoảng 10 ngày, không chỉ làm ô nhiễm một khu vực rộng lớn gần lò hạt nhân này, mà còn cả một số khu vực Đông Âu, Bắc Âu, thậm chí lan sang cả một số khu vực Tây Âu, mặc dù với mức độ không nặng nề như ở gần.

    Serious, and initially underestimated, has been the psychological damage to the population: 350 000 people were evacuated, 116 000 of whom immediately after the incident. Only some have been able to return to their homes. Many have problems of mental balance. They no longer have confidence in their state of health, have serious problems with depression, lack the capacity for initiatives, and have often fallen into a paralyzing fatalism. Alcoholism is widespread. There are also demographic problems as the more educated young people have left the area for economic reasons, since everything that comes from the Chernobyl area is viewed with suspicion.

    Cực kì nghiêm trọng, nhưng lúc đầu đã bị đánh giá thấp, là các tổn thương tâm lý cho người dân: 350 000 người đã được sơ tán, 116 000 người trong số họ được di chuyển ngay lập tức sau khi vụ việc xảy ra. Nhưng chỉ có một số đã có thể trở về nhà của họ sau đó. Rất nhiều người có vấn đề về thần kinh. Họ không bao giờ còn có thể tin tưởng vào khả năng lấy lại được sức khỏe, có vấn đề nghiêm trọng với bệnh trầm cảm, trở nên thiếu năng lực tư duy, và thường rơi vào một trạng thái tê liệt định mệnh. Nghiện rượu là bệnh phổ biến. Ngoài ra là các vấn đề về phân bổ dân số sau đó vì những người trẻ có học thức hơn đã rời khỏi khu vực vì lý do kinh tế, khi mà tất cả mọi thứ có liên quan đến khu vực Chernobyl đều bị xem xét với sự nghi ngờ.

    The problem of securing highly radioactive wastes is undoubtedly one of the main obstacles to the expansion of the civilian nuclear industry. In this regard, more than thirty years ago Swedish physicist and Nobel Prize winner for physics, Hannes Alfvén, emphasized that:
    The problem is where to dispose of the radioactive wastes that decay in hundreds or thousands of years. The geological sites must be absolutely safe because the toxic potential is tremendous. It is very difficult to meet this requirement for the simple reason that we have no experience with such long term projects. In addition, a permanent surveillance of these wastes requires a social stability for an unthinkable long time.

    Vấn đề xử lý an toàn chất thải với tính phóng xạ cao chắc chắn là một trong những trở ngại lớn nhất trong sự phát triển của ngành công nghiệp hạt nhân. Về vấn đề này, hơn ba mươi năm trước, nhà vật lý học Thụy Điển người đã đoạt giải Nobel vật lý, Hannes Alfvén, đã nhấn mạnh rằng:
    Vấn đề là nơi nào để chúng ta lưu trữ các chất thải phóng xạ mà chúng sẽ phân rã trong hàng trăm hay hàng ngàn năm. Địa điểm xử lý chất phóng xạ đó phải được ngăn ngừa tuyệt đối an toàn bời vì tiềm năng độc hại là cực lớn. Không khó để thấy là rất khó khăn để đáp ứng yêu cầu này bởi một lý do đơn giản là chúng ta không có kinh nghiệm với các dự án dài hạn như vậy. Thêm vào đó, nó còn yêu cầu một sự giám sát thường xuyên của xã hội và ổn định của địa chất trong một thời gian dài không thể tưởng tượng.

    Nuclear energy has a certain charm for its power and its technological elegance. Nonetheless, it still has its limitations and its unknown consequences: (i) the economy of the industrial cycle, (ii) the safety of the power plants under ordinary conditions and in the presence of catastrophic scenarios (earthquakes, terrorist attacks, etc…), (iii) waste disposal, and (iv) its indisputable and ambiguous link to the military establishment. No other industrial activities would be allowed to continue their growth without having resolved these serious shortcomings.

    Năng lượng hạt nhân thể hiện sức quyến rũ nhất định bởi sức mạnh và tính thanh nhã trong lý thuyết của nó. Tuy nhiên, tồn tại những hạn chế và hậu quả chưa biết của nó: (1) hiệu quả kinh tế của nó trong chu trình công nghiệp, (2) sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân trong điều kiện bình thường và trong sự hiện diện của các kịch bản thảm họa (động đất, các cuộc tấn công khủng bố, vv…) , (3) xử lý chất thải phóng xạ, và (4) sự liên kết không thể phủ nhận và không rõ ràng của nó đến các cơ sở quân sự. Chưa từng có một hoạt động công nghiệp nào khác được phép tiếp tục tăng trưởng mà không cần phải giải quyết những khuyết điểm nghiêm trọng này như là điện hạt nhân.

    In a climate of confrontation between those in favor of the nuclear option and those that oppose it, there are many who believe that the nuclear option is off the table because of the strong opposition by environmentalists. Analysis of the history of the last fifty years tells a very different reality. Certainly, the major accidents of the Fukushima, Chernobyl, and Three Mile Island nuclear installations have undermined the social acceptability of the nuclear technology, concerning which even Fermi had shown some serious reservations. The crisis of the nuclear option is primarily an economic issue, not a technological one.

    Trong không khí đối đầu giữa một bên là ủng hộ và một bên phản đối điện hạt nhân, có nhiều người tin rằng lựa chọn hạt nhân là khỏi cần bàn vì sự chống đối mạnh mẽ của những nhà môi trường học. Phân tích lịch sử của năm mươi năm qua đã cho chúng ta một cái nhìn thực tế. Một điều chắc chắn là, các tai nạn nghiêm trọng ở các khu vực hạt nhân Fukushima, Chernobyl và Three Mile Island đã làm xói mòn khả năng chấp nhận xã hội của công nghệ hạt nhân, điều khiến cho ngay cả Fermi (người nghiên cứu lò phản ứng hạt nhân do con người xây dựng đầu tiên trên thế giới) đã thể hiện sự phòng đặt nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng của các lựa chọn điện hạt nhân chủ yếu là do vấn đề kinh tế, chứ không phải là một vấn đề về công nghệ.

    The incident that occurred in 2011 in Japan, a country that many believed technologically advanced and foolproof, has proven once and for all that nuclear technology is too complex to be totally predictable. As some analysts had predicted, the Fukushima disaster marks the final sunset of the revival of nuclear energy, especially in countries where the market economy dominates. In short, the civilian nuclear industry, moribund for the last thirty years, has been abandoned not only by market pressures but also by entrepreneurs, and this even before the environmentalists had anything to say on the matter.

    Sự cố xảy ra năm 2011 tại Nhật Bản, một đất nước mà nhiều người tin rằng công nghệ tiên tiến và nghiêm ngặt, đã được chứng minh một lần cho tất cả rằng những công nghệ hạt nhân là quá phức tạp để có thể hoàn toàn dự đoán được. Theo một số nhà phân tích đã dự đoán, thảm họa Fukushima đánh dấu hoàng hôn cuối cùng cho sự hồi sinh của năng lượng hạt nhân, đặc biệt là ở những nước mà nền kinh tế thị trường chiếm ưu thế. Trong ngắn hạn, ngành công nghiệp hạt nhân dân sự, hấp hối trong suốt ba mươi năm qua, đã bị bỏ rơi không chỉ bởi áp lực thị trường mà còn bởi các nhà doanh nghiệp, và ngay cả trước khi các nhà môi trường lên tiếng về vấn đề này.

    Like

Leave a comment