Tân Nhạc VN – Thơ Phổ Nhạc – “Gái Xuân” – Nguyễn Bính & Từ Vũ

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Gái Xuân” của Thi sĩ Nguyễn BínhNhạc sĩ Từ Vũ.

Thi sĩ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính (1918–1966); là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.

Thi sĩ Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).

Cha của ông tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính.

Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng. Đúng như câu thơ ông viết:

Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ

Thi sĩ Nguyễn Bính (1918 – 1966).
Thi sĩ Nguyễn Bính (1918 – 1966).

Bà cả Giần là chị ruột của mẹ ông, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của ông và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em ông về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, được cậu Khiêm khen hay nên rất được cưng.

Năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác:

…Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người ?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không
Đố ai đi khắp tây đông,
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say,
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?
Làm sao như vợ như chồng ?
Làm sao cho thỏa má hồng răng đen
Làm sao cho tỏ hơi đèn ?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?
Làm sao ? anh khen em tài ?
Làm sao ? em đáp một lời làm sao… ?

Trúc Đường thi đỗ thành crung (đíp-lôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, rồi dạy học trong một trường tư thục ở Hà Đông, Trúc Đường bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông đón Nguyễn Bính lên và truyền đạt cho Nguyễn Bính văn học Pháp. Cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả về văn chương và đời sống.

Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo người bạn học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học, có lẽ những vần thơ như:

Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh
Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm
Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai

Là được Nguyễn Bính viết trong thời gian này.

Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài “Cô Hái Mơ”. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm Hồn Tôi” tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Họa sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại:

“Tôi quen Nguyễn Bính từ khi anh chưa có tiếng tăm gì, ngày ngày ôm tập thơ đến làm quen với các tòa soạn báo. Tôi thích thơ anh và đã giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, chủ bút Tiểu thuyết Thứ Năm, đã đăng bài “Cô hái mơ”, bài thơ đầu tiên của anh đăng báo. Tôi khuyên anh gửi thơ dự thi, và anh đã chiếm giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn… chúng tôi thân nhau từ đó, khoảng 1936-1940, quãng đầu đời thơ của anh,…

Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Cũng trong năm này Trúc Đường chuyển ra Hà Nội ở và đang viết truyện dài Nhan sắc, Nguyễn Bính tỏ ý muốn đi Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, ông đã cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh (vật báu duy nhất của gia đình) đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính.

Vào Huế Nguyễn Bính Gửi thơ ra cho Trúc Đường đọc trước, rồi đăng báo sau. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, Trúc Đường nhận được nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trong đó có: “Xuân tha hương” và “Oan nghiệt”. Sau đó Nguyễn Bính lại trở về Hà Nội, rồi lại đi vào Sài Gòn.

Lần chia tay cuối cùng với Trúc Đường là vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 thì mất liên lạc hẳn. Trong thời gian này Nguyễn Bính đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài ‘Hành Phương Nam’, tặng Kiên Giang, ‘Từ Độ Về Đây’,…”

nguyenbinh_bìa tập thơ

Thi phẩm “Gái Xuân” (Thi sĩ Nguyễn Bính)

Em như cô gái hãy còn xuân,
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần,
Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở.
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.

Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng.
Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng,
Đôi tám xuân đi trên mái tóc.
Đêm xuân cô ngủ có buồn không?

nguyenbinh_GX

nguyenbinh_Gái Xuân4

Thi khúc “Gái Xuân” (Nhạc sĩ Từ Vũ)

Em như cô gái hãy còn Xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân

Xuân đi, Xuân đến, hãy còn Xuân
Cô gái trông Xuân đến bao lần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân

Lòng Xuân lơ đãng, má Xuân hồng
Cô gái Xuân mơ chuyện vợ chồng
Đôi tám Xuân đi trên mái tóc
Đêm Xuân cô ngủ có buồn không?

Em như cô gái hãy còn Xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân

Dưới đây mình có các bài:

– NHỮNG NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
– Nhạc sĩ Từ Vũ: Đã tìm thấy một mùa xuân tuần hoàn
– “KẺ NGOẠI ĐẠO” TỪ VŨ & CA KHÚC “GÁI XUÂN”

Cùng với 8 clips tổng hợp thi khúc “Gái Xuân” do các ca sĩ trong nước và hải ngoại diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

nguyenbinh_bìa tập thơ

NHỮNG NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH

(Đào Đức Nhuận)

Nguyễn Bính, nhà thơ nổi tiếng của Phong Trào Thơ Mới từ những năm 1936 đã tự xác nhận tâm hồn mình đối với tình yêu:

Yêu, yêu, yêu mãi thế này
Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu
(Lòng Yêu Đương)

Mẹ cha thì nhớ thương mình,
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi.
(Thư Gửi Thầy Mẹ)

Chàng tha thiết kêu gọi những “đấng tình lang” hãy cùng chàng làm một việc mà chưa có một người nào trên thế gian nầy dám nghĩ đến:

Ai yêu như tôi yêu Nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một tràng đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng!
(Lòng Yêu Đương)

Và quả thực Nguyễn Bính đã “sa lầy trong yêu” và bao nhiêu là người yêu đã xuất hiện trong thơ của chàng:

Có thể là một người tình chỉ có trong tưởng tượng:

Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười…
(Ghen)

Có thể là một cô gái nhà bên kia – “cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”- yêu trong câm nín, để rồi:

Đêm qua nàng chết thật rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng.
(Người Hàng Xóm)

Có thể là một cô gái – “tôi với nàng tuy không biết nhau”- thế nhưng khi nàng từ trần, chàng lại thấy rằng mình đã yêu:

Nước mắt chạy quanh tình thắt lại,
Giờ đây tôi khóc một người về
Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng
Như có ai mời chén biệt ly.
(Viếng Hồn Trinh Nữ)

Hay có thể chỉ là một người yêu trong mộng:

Cô chẳng bao giờ biết đến tôi
Mà tôi dan díu mấy đêm rồi
Mấy đêm dan díu người trong mộng
Mộng tỉnh, canh tàn, lệ ướt rơi
(Nhặt Nắng)

Không kể những mối tình thoáng qua, những mối tình của một thời tuổi nhỏ không mấy đậm nét trong cuộc đời tình ái của chàng như kiểu “mối tình” (?) với một cô Nhi bé bỏng ở quê ngoại ngày xưa:

Xa lắm rồi Nhi, muộn lắm rồi
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi !
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi !
(Hoa Và Rượu)

thì, mối tình đầu làm ray rứt hồn thơ của Nguyễn Bính nhiều hơn cả, có lẽ là mối tình câm với cô nữ sinh tên Oanh mà chàng thường gọi là “cô Oanh sông Nhuệ”. Vâng, đó là một mối tình câm, mối tình một chiều, mối tình mà chàng chỉ biết thầm yêu trộm nhớ để cuối cùng nhận lấy nỗi tuyệt vọng chua cay:

Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ,
Rót lần, rót mãi xuống nàng Oanh.
Không xua tay nhưng nàng đã vô tình
Hắt ly rượu hồn tôi qua cửa sổ…
(Tâm Hồn Tôi)

Tuy chỉ là một mối tình không được đáp đền một cách xứng đáng, thế nhưng, cũng chính từ mối tình tuyệt vọng đó, Nguyễn Bính đã sáng tác nên tập thơ TÂM HỒN TÔI. Vì không nói được với người mình yêu những gì mình muốn nói, nên Nguyễn Bính đã viết tập văn xuôi NGẬM MIỆNG để giãi bày với người mình yêu mối tình tuyệt vọng của mình.

Rồi thời gian cứ vô tình lặng lẽ trôi qua. Và thời gian cũng xóa đi cho Nguyễn Bính nỗi hận tình chua xót để sau này, khi nhắc đến Oanh, chàng đã nhắc đến tên nàng bằng một nỗi hờ hững đến vô tình:

Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh
Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai?

Hay:

Nghỉ học cô Oanh lòa một mắt,
Lấy chồng chị Trúc bó hai tay!

Thế rồi, năm 1937, tập thơ Tâm Hồn Tôi của Nguyễn Bính nhận được giải thưởng khuyến khích về Thơ của Tự Lực Văn Đoàn.

Năm 1939, tập thơ Bức Tranh Quê của nữ sĩ Anh Thơ cũng nhận được giải thưởng khuyến khích về Thơ của Tự Lực Văn Đoàn.

Hai thi tài đó đã gặp nhau.

Nguyễn Bính và Anh Thơ có nhiều điểm giống nhau: cùng được học ở trường rất ít, cùng có tài về thơ và dòng thơ của họ cùng mang nhiều hình ảnh quen thuộc của đồng quê xứ Bắc.

Và hai tâm hồn thơ đó đã yêu nhau. Họ yêu nhau tha thiết. Hẳn vậy. Có một bận, nàng từ Bắc Giang về thăm Hà Nội. Họ gặp gỡ nhau. Tâm sự. Rồi nàng trở lại quê. Chàng buồn nhớ không bút nào tả xiết :

Biết lối nào lên tới xứ nàng?
Để người Hà Nội nhớ mang mang
Nàng đi Hà Nội buồn như chết
Hà Nội buồn như một lỡ làng!
(Một Lần)

Rồi những cánh thư tình nồng cháy yêu đương. Rồi những lời thề non hẹn biển. Và có một lần, nàng đã để lại trên má chàng vết son môi của một nụ hôn nồng cháy. Các bạn chàng kể lại rằng chàng đã không rửa mặt nhiều ngày vì chỉ sợ mất đi vết son môi của người yêu thơ mộng:

Có một trai hiền, một gái xinh
Ngang qua, chừng giữa chuyện ân tình
Trai cười: “Bữa ấy mình toan giữ
Mãi dấu môi son trên má mình!”
(Nhớ Người Trong Nắng)

Ấy vậy mà rồi họ phải đành đoạn chia tay. Tại sao? Tại vì chàng nghèo quá! “Nghèo”! Cái lý do sao mà cay nghiệt! Phải “môn đăng, hộ đối”! Do vậy mà nhà nàng không muốn kén khách đông sàng là một chàng thi sĩ kiết xác:

Có gì tiếng cả nhà thanh
Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ.
Con tằm được mấy tiền tơ
Chao ôi, mà ước mà mơ lấy nàng !
(Nhà Tôi)

Thế là nàng đang tâm bẻ một chữ đồng làm đôi! Nguyễn Bính nhớ lại những lời thề non hẹn biển. Có lẽ họ đã thề thốt nặng lời – nhất là nàng:

Ai thề như mới hôm qua
Lấy nhau không được chẳng thà chết đi!

Quên lời thề ước, nàng bước lên xe hoa về nhà chồng. Nàng đã bước qua con tim tan nát của Nguyễn Bính để về “nâng khăn sửa túi” cho một “ông thầy thuốc”! Cái con người hiền lành làm vậy mà trước nỗi tuyệt vọng kinh hoàng đã làm những câu thơ thật chua cay để gởi cho người hơn một lần chàng đã yêu tha thiết và cũng đã được nàng yêu tha thiết:

Những tưởng trăm năm đến chết thèm
Ai ngờ chấm dứt chuyện kiêng khem!
Bài thơ kẹp chặt vào đơn thuốc,
Hũ mực phun đầy cả ống tiêm
Chị sắp lên râu làm chức mẹ
Anh mà xuống nước đóng vai em!
Bấy lâu bịt chặt lầu thơ lại
Nay bức tranh quê đã vén rèm!

Những lời thơ “tai quái” quá! Những ý thơ “ác” quá! Nàng không thể chạy trốn vào đâu được:

Bài thơ kẹp chặt vào đơn thuốc
Hũ mực phun đầy cả ống tiêm!…
Nay bức tranh quê đã vén rèm!

Bức Tranh Quê là tên thi phẩm được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn của Anh Thơ! Tục chăng? Thanh chăng? Có lẽ vì bài thơ “quái ác” nầy mà sau nầy, khi viết hồi ký về đời mình, nữ sĩ Anh Thơ đã hoàn toàn phủ nhận mối tình đầu của bà với nhà thơ Nguyễn Bính!

Nhưng dù sao thì mối tình nồng thắm cũng nhiều, tuyệt vọng đắng cay cũng lắm đó đã gợi hứng cho Nguyễn Bính hoàn thành thi phẩm HƯƠNG CỐ NHÂN. Và có những điều trong thơ không thể nói hết về mối tình nầy, chàng đã lại phải mượn văn xuôi để giãi bày nguồn tâm sự sâu kín của mình, đó là tập đoản văn HAI NGƯỜI ĐIÊN GIỮA KINH THÀNH HÀ NỘI.

Quả thực, Anh Thơ đã để lại trong cuộc đời tình ái của Nguyễn Bính một vết thương khá đậm nét. Buồn bã và cô đơn, chàng viết:

Em đi dệt mộng cùng người,
Lẻ loi riêng một góc trời riêng anh!
(Rượu Xuân)

Và chàng buông lời hờn tủi nghe não nuột đến nát lòng:

Mấy khoa thi chót thầy ơi
Thầy không thi đỗ để rồi làm quan
Để rồi lắm bạc nhiều vàng
Để cho con được lấy nàng, thầy ơi!
(Nhà Tôi)

Một tiếng nấc nghẹn ngào! Cứ tưởng rằng nỗi bi lụy nầy sẽ làm cho Nguyễn Bính trở thành một gã thất tình miên viễn! Thế nhưng, chẳng bao lâu Nguyễn Bính lại sa lầy trong một cuộc tình mới. Cũng đắm đuối chung tình. Cũng da diết yêu đương. Tên nàng là Nguyễn Thị Tuyên, em gái của nhà văn Nguyễn Đình Lạp, tác giả của tập tiểu thuyết xã hội NGOẠI Ô, do nhà Hàn Thuyên xuất bản năm 1941 tại Hà Nội. Nàng tên là TUYÊN, nhưng Nguyễn Bính đã đặt lại tên cho nàng là TÚ UYÊN, dù chàng thừa biết Tú Uyên – Trần Tú Uyên – là tên của một nhân vật nam trong truyện Nôm BÍCH CÂU KỲ NGỘ. Nhà Tú Uyên ở phố Bạch Mai (mai trắng) gần phố Huế (đế kinh) ở kinh thành Hà Nội, còn Nguyễn Bính cũng ở Hà Nội trên một căn gác mà chàng đặt tên là gác Hoàng Mai (mai vàng). Có một bận chàng thi sĩ đa tình đi ngang qua nhà nàng và rồi chàng thấy tâm hồn mình như chết chìm ở đó:

Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh…
(Người Con Gái Lầu Hoa)

Chàng thì “dệt mãi mộng ba sinh” cùng nàng, còn Tú Uyên?

Nàng ở lầu hoa, ở đệm bông
Có đêm nào nghĩ đến tôi không?
Không, không, chả có đêm nào cả
Chả có đêm nào hé cửa song…
(Người Con Gái Lầu Hoa)

Có thể là chàng đã đòi hỏi quá nhiều. Cũng có thể chàng đã hờn mát mà nói như thế, chứ thực ra, hai người đã yêu nhau thực, đã từng hẹn hò và từng gặp gỡ như trong thơ của chàng đã trình bày. Trong các mối tình của Nguyễn Bính, có lẽ đây là mối tình đong đầy nước mắt.

Thi nhân vốn là nòi đa cảm. Và Nguyễn Bính được xem là người đa cảm vào bậc nhất trong giới thi nhân:

Em đã dùng khăn chị để lau
Bao nhiêu nước mắt của u sầu!
(Khăn Hồng)

Vắng bóng cô gái hàng xóm cũng có thể làm cho chàng rơi lệ:

Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn … rưng rưng!
(Người Hàng Xóm)

Gặp người trong mộng cũng có thể làm cho chàng rơi nước mắt:

Mấy đêm dan díu người trong mộng
Mộng tỉnh, canh tàn, lệ ướt rơi!
(Nhặt Nắng)

Nghĩ về một người con gái chàng yêu mà chưa dám ngỏ lời cũng có thể làm cho chàng khóc:

Có một nghìn đêm tôi chiêm bao
Ba đêm nay khóc với mưa rào
Đêm nay mắt đỏ rồi mưa tạnh
Tôi khóc âm thầm dưới bóng sao

Đó là 4 câu thơ trích trong bài thơ “Người con gái ở lầu hoa”. Và “người con gái ở lầu hoa” đó chính là nàng Tú Uyên! Mối tình với Tú Uyên rồi cũng dở dang:

Nàng Tú Uyên ơi!
Cả mùa mai trắng đã rụng rồi!

“Mai trắng đã rụng” tức là tình yêu của chàng với Tú Uyên, cô gái ở phố Bạch Mai đó đã không thành.

Rồi Tú Uyên bước lên xe hoa về nhà chồng. Nào ai biết được tâm trạng của Tú Uyên khi nàng bước lên xe hoa. Chỉ biết rằng, sau ngày nàng bước chân lên xe hoa, Nguyễn Bính đã làm một bài thơ khóc cho mối tình nầy thật tha thiết, thật não nùng và dĩ nhiên là cũng đầy nước mắt.

Chàng hồi tưởng lại những giây phút họ gặp gỡ và tình tự với nhau:

Lạy Chúa con xin Chúa một giờ
Mười hai – giờ Ngọ, của tình xưa
Chúng con hai đứa Uyên và Bính
Thường hẹn hò nhau những buổi trưa!
(Nguyện Cầu)

Những buổi trưa hẹn hò với bao lời thề non hẹn biển. Có thể là họ đã vẽ ra một tương lai tuyệt vời sống bên nhau cho đến khi đầu bạc răng long. Ấy vậy mà rồi nàng phải bước lên xe hoa về nhà chồng. Cứ theo như Nguyễn Bính, nàng “bất đắc dĩ” mà bước lên xe hoa:

Hắn phải lấy chồng là khổ lắm,
Bởi vì, lạy Chúa, rất chua cay!
(Nguyện Cầu)

Nguyễn Bính đã quả quyết điều nầy, bởi vì, theo chàng, họ đã yêu nhau tha thiết, Bính yêu Uyên tha thiết và Uyên cũng yêu Bính thiết tha. Nàng bước lên xe hoa về nhà chồng mà như bước vào cõi tuyệt vọng đọa đày:

Hắn đã yêu con đến tận cùng
Thế mà tròn thủy chẳng tròn chung
Hôm qua hắn bước lên xe cưới
Khóc lả người đi Chúa biết không ?
(Nguyện Cầu)

Trong cuộc sống hôn nhân, cứ theo như Nguyễn Bính, Tú Uyên khổ lắm. Có khổ gì hơn khi nghĩ rằng mình suốt đời phải chung sống với người mà mình chẳng yêu thương! Và Nguyễn Bính cũng thương cho số phận hẩm hiu, chua xót của người mình yêu:

Hai đứa hai nơi khóc một giờ
Bên chồng mà hắn vẫn bơ vơ
Chúa ơi ! Cứu rỗi linh hồn hắn!
Nước mắt con nhòa hết tập thơ!
(Nguyện Cầu)

Giờ đây, mỗi lần nghe tiếng chuông nhà thờ buông đúng vào giờ ngọ – cái giờ nghiệt ngã của kỷ niệm – chàng lại hồi tưởng về người yêu , về những lần hẹn hò thơ mộng đắm đuối của hai linh hồn yêu nhau tha thiết:

Đứng bóng từng dòng chuông ngọ đổ
Từng dòng chuông ngọ đổ chơi vơi
Con nghe chuông đổ rồi con khóc
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!
(Nguyện Cầu)

Bính đã thay mặt cho Uyên để cùng chàng kêu gọi đến Chúa tuy họ không phải là những con chiên. Họ là những người ngoại đạo. Nhưng Nguyễn Bính, trong một lúc tuyệt vọng cùng tột, chàng đã phải tin rằng mối tình của chàng và Uyên không đi đến kết cuộc tốt đẹp là do sư sắp đặt của Chúa và họ cố xin một chút bình yên cho tâm hồn khi họ tin như vậy:

Lạy Chúa con xin Chúa thế thôi
Một giờ yêu quý nhất trên đời
Chúng con ngoại đạo tuy ngoại đạo
Cũng lạy mà tin có Chúa Trời !
(Nguyện Cầu)

Lại một lần nữa, Nguyễn Bính cố quên đi mối tình tuyệt vọng nhưng mà làm sao quên được:

Đêm nay ngồi khóc trong trăng lạnh
Trăng đắm chìm đi, gió thở dài
Tôi nhớ đến người – ôi diệu vợi
Ở lầu hoa ấy trong rừng mai

……

Tôi tưởng rồi tôi quên được người
Nhưng mà nản lắm, Tú Uyên ơi!
Tôi vào sâu quá và xa quá,
Đường lụt sương mờ lụt lá rơi…
(Diệu Vợi)

Và mối tình tuyệt vọng với nàng Tú Uyên đã để lại cho chúng ta một thi phẩm với nhiều bài thơ đong đầy nước mắt: NGƯỜI CON GÁI LẦU HOA.

Qua mấy lần tuyệt vọng vì tình, nỗi buồn không kiềm chế được, cộng thêm với nếp sống buông thả của giới nghệ sĩ thời tiền chiến, chàng đắm mình trong xóm yên hoa.

Và,

* nếu kết quả của mối tình giữa chàng với nàng Oanh, với nữ sĩ Anh Thơ, với Tú Uyên là những đứa-con-tinh-thần, những thi phẩm đã tạo nên sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính: Tâm Hồn Tôi, Hương Cố Nhân, Người Con Gái Lầu Hoa –

* thì, mối tình với Dung, tên cô gái trong xóm yên hoa, ngoài kết quả là bài thơ thật thống thiết “Có Bấy Nhiêu Lời Tâm Huyết Ấy” về sau đổi lại thành tên “Oan Nghiệt”, oái oăm thay, lại đưa đến kết quả là một đứa-con-vật-chất, đứa con gái đầu lòng trong kiếp làm đàn ông của Nguyễn Bính.

Đối với Dung, có lúc chàng đã nhắc đến tên nàng bằng một giọng điệu vô cùng khinh bạc, nghe sao mà xa lạ:

Lại chuyện con Dung đẻ tháng ngày!

Thì cũng có khi chàng nhắc đến tên nàng bằng một giọng vô cùng trìu mến:

Người bến Tầm Dương, Dung bé bỏng!

Người ta bảo Dung là một “đào nương”, là một “ca kỹ”. Thế nhưng, dù có là “đào nương” hay “ca kỹ” gì gì đi nữa để gọi là làm đẹp cho cái thân thế cần phải giấu kín của Dung, thì oái oăm thay, chính Nguyễn Bính, người tình của nàng, lại đã khai báo huỵch toẹt cái nghề không mấy tốt đẹp của nàng:

Dung ạ, những đêm màn rũ thấp
Ân tình bên gối khách làng chơi
Em có biết rằng trong giấc lạnh
Con mình mớ ngủ gọi tên ai ?
(Oan Nghiệt)

Dung của Nguyễn Bính là như thế đó. Đau thương lắm. Chua cay lắm. Nhục nhằn lắm nữa. Nhưng dù sao thì họ cũng đã yêu nhau. Họ đã sống với nhau theo cái kiểu “già nhân ngãi, non vợ chồng!”. Và cho đến khi Dung bụng mang dạ chửa thì Nguyễn Bính lại nổi máu giang hồ.

Vào năm 1942 chàng bỏ đất Hà Nội ngàn năm văn vật để vào đất Thần kinh thơ mộng có con sông Hương nước chảy lặng lờ, có những con thuyền tình chơi vơi trên sông nước, và có cả những cơn mưa “cứ kéo dài ra đến mấy ngày” buồn ơi là buồn! Ở Huế chưa được bao lâu, vào một ngày cuối Thu, Nguyễn Bính nhận được thư của Dung:

Hôm nay bắt được thư Hà Nội
Cho biết tin Dung đã đẻ rồi
Công chúa, tháng ngâu, ngày nguyệt tận…
(Oan Nghiệt)

Vậy là Dung đã sinh cho chàng một cô con gái vào một ngày cuối tháng bảy âm lịch:

Công chúa – Tháng Ngâu – Ngày nguyệt tận!

Nhận được thư của Dung chàng đã nghĩ miên man đến kiếp sống đau thương của Dung, nghĩ đến tương lai đầy đen tối bất trắc của con gái và nghĩ về hiện trạng bấp bênh của mình mà chua xót thở than :

Đời cha nay ở mai đi đấy
Kiếp mẹ đêm đêm bán khóc, cười…
Tiền cha không đủ hoàn lương mẹ
Thì lấy gì mà nuôi nấng con!
(Oan Nghiệt)

Không ai biết rõ Nguyễn Bính cho bằng chính Nguyễn Bính biết về mình! Chàng biết chắc rằng không cách nào chàng có thể có một mái ấm gia đình để cùng Dung và con gái chung sống với nhau! Nghĩ đến những lời cầu chúc của chàng cho con gái sao mà đắng cay, sao mà chua xót:

Thôi cha cầu chúc cho con gái
Mắt chớ lưu cầu, môi chớ son
Ngu đần xấu xí hay tàn tật,
Yên phận chồng con, yên phận con
Càng tài sắc lắm càng oan nghiệt
Bảy nổi ba chìm với nước non
(Oan Nghiệt)

Và rồi Nguyễn Bính tưởng tượng đến một tương lai “oan nghiệt”, đến một cuộc trùng phùng “oan nghiệt”, đến nỗi bất hạnh “oan nghiệt” của cha con chàng:

Cha lo ngại lắm là con gái,
Chẳng có bao giờ biết mặt cha!
Con mười sáu, bảy xuân đương độ
Cha bốn, năm mươi chửa trót già
Cha buồn tiễn khách hơi thu quạnh
Con thẹn che đèn nép mặt hoa
Chàng chàng, thiếp thiếp vui bằng được
Bố bố, con con chẳng nhận ra
Áo xanh mà ướt vì đêm ấy
Tội nghiệp đời con, xấu hổ cha!
(Oan Nghiệt)

“Cha lo ngại lắm là con gái, chẳng có bao giờ biết mặt cha”! Phải chăng đây là một lời tiên tri “oan nghiệt”? Hay, phải chăng đây là một quyết định “oan nghiệt” của chính Nguyễn Bính? Cái câu hỏi “oan nghiệt”: “Bao giờ tôi biết mặt con tôi?” (Oan Nghiệt) đã bị chính Nguyễn Bính cố tình khước từ “trả lời”! Bởi chưng, hình như đâu vào khoảng cuối năm 1943, Nguyễn Bính cùng hai nhà văn Vũ Trọng Can và Tô Hoài làm một chuyến xuôi Nam, bỏ đất Thần kinh thơ mộng để tìm về Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông. Và chàng quên Dung bé bỏng, quên cả đứa con gái bèo bọt của chàng!

Ở Sài Gòn một thời gian, Tô Hoài và Vũ Trọng Can lại quay về Hà Nội, còn Nguyễn Bính được thi sĩ Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết mời về thăm quê hương Hà Tiên nên thơ của họ. Đó là vào khoảng đầu mùa hạ năm 1944. Chàng được nhà thơ Đông Hồ đãi như một khách quý, dành riêng cho chàng một căn gác mà Đông Hồ đặt tên là “Nam Phong tiểu các” để cho chàng làm nơi sáng tác thơ. Chàng ở lại đây có mấy tháng và cũng đã để lại đây một cuộc tình với người cháu gái của nữ sĩ Mộng Tuyết. Tên nàng là Tú Ngọc.

Trong vườn thấp thoáng bóng ai đi
Cô cháu, Minh hương, tuổi mười bảy
Mũi thẳng, mi cong, tóc mướt dài
Răng đều, môi mọng, ngực tròn mẩy
Gặp nhau, chào nhau, rồi quen nhau
Ngày một ngày hai thành luyến ái.
(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)

Mới gặp nhau, nàng gọi Bính là “chú” vì “chú Bính” là bạn thơ của dì Mộng Tuyết. Thế rồi, ngày một ngày hai cung đàn đổi bậc. Tú Ngọc đã để lại cho Nguyễn Bính bao nhiêu là kỷ niệm êm đềm của một người tình vừa ngây thơ, vừa trong trắng trong những ngày chàng dừng bước giang hồ trên mảnh đất Hà Tiên đầy thơ mộng:

Vườn trăng cầm tay, thương quá đi!
Một ngày không gặp, nhớ biết mấy!
Thơ tôi nàng gối trên đầu giường,
Đêm che ánh đèn đọc vụng mãi.
Khăn tôi xổ chỉ, áo long khuy
Nàng bảo đưa nàng khâu vá lại
Có hôm tôi bệnh nằm li bì
Nàng đến canh chừng siêu thuốc cháy.
Áo len đương mặc, cởi cho tôi
“Hà Tiên gió biển lạnh lắm đấy!”
(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)

Chàng yêu Tú Ngọc biết mấy! Và nàng cũng yêu chàng biết mấy! Chàng ước ao được dệt mộng chung đôi với người yêu bé bỏng:

Tài hoa bảy bước đã thành thơ
Mà vẫn một đôi tay trắng mãi
Lấy đâu có được tám mươi thành
Để đổi cho tròn viên Ngọc ấy?
(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)

Vậy mà rồi giấc mộng cũng không thành! Tội nghiệp cho cô bé “người yêu xóm Rẫy” của Nguyễn Bính! Ngày xưa chàng bị “cô Oanh sông Nhuệ” dày vò! Ngày xưa chàng bị nữ sĩ Anh Thơ hắt hủi! Và giờ đây chính Nguyễn Bính lại hắt hủi, dày vò Tú Ngọc, người yêu bé bỏng của chàng. Nợ giang hồ lại réo gọi. Và Nguyễn Bính lại cất bước ra đi:

Rồi tôi khăn gói lại lên đường
Nàng ra bờ sông đứng khóc mãi
Tàu đi xa mấy dặm sông dài
Ngoảnh lại vẫn còn tay Ngọc vẫy!
(Hà Tiên, Người Xóm Rẫy)

Ôi! bàn tay bé bỏng của người con gái đáng thương ấy làm sao giữ nổi cánh chim giang hồ!

Nguyễn Bính bỏ Hà Tiên dù rằng Đông Hồ và Mộng Tuyết hết lòng mời chàng ở lại để chàng có điều kiện hoàn tất tập truyện dài bằng thơ mà chàng lấy nhan đề là Thạch Sương Bồ.

Nguyễn Bính bỏ xóm Rẫy dù rằng ở đó người yêu bé bỏng Tú Ngọc của chàng đã van vỉ, đã khóc lóc hết nước mắt.

Chàng trở lại Sài Gòn. Đành đoạn. Rồi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối tháng 12 năm 1946. Không còn nghe chàng nhắc đến Tú Ngọc nữa. Không còn nghe chàng nhắc đến mẹ con của “người bến Tầm Dương Dung bé bỏng” nữa. Và hình như chàng cũng không còn điều kiện để nhắc đến những “cô Oanh sông Nhuệ”, những “Anh Thơ”, những “Tú Uyên” của một thời yêu đương lãng mạn nữa. Nhưng dù sao, thì với những cuộc tình hoặc tuyệt vọng, hoặc đau thương đó cũng đã để lại cho chúng ta, những người yêu thơ Nguyễn Bính, những tác phẩm thơ tuyệt diệu: Tâm Hồn Tôi, Hương Cố Nhân, Người Con Gái Lầu Hoa, những bài thơ “Có Bấy Nhiêu Lời Tâm Huyết Ấy” (còn gọi là Oan Nghiệt) và “Hà Tiên, Người Xóm Rẫy” như những viên ngọc quý trong kho tàng văn chương của Dân Tộc.

(Đào Đức Nhuận)

Nhạc sĩ Từ Vũ.
Nhạc sĩ Từ Vũ.

Nhạc sĩ Từ Vũ: Đã tìm thấy một mùa xuân tuần hoàn

(Kiến Lâm)

(HNM) – Nhạc sĩ Từ Vũ (tên thật là Trần Đỗ Lộc), sinh năm 1932 tại Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Ông là tác giả của những giai điệu quen thuộc: “Em như cô gái hãy còn xuân. Trong trắng thân chưa lấm bụi trần”. Hơn nửa đời người từ bỏ bảy nốt nhạc, nay ông lại “hồi xuân” để viết tiếp những khúc ngợi ca tình yêu, mùa xuân.

Năm 1954 NXB Tinh Hoa cho ấn hành cuốn sách nhạc trong đó có tác phẩm “Gái xuân” của nhạc sĩ Từ Vũ. Điều đặc biệt “Gái xuân” là nhạc phẩm mang âm hưởng miền Bắc đã trở thành món ăn tinh thần được yêu quý ở miền Nam. Từ ca sĩ đến người dân miền Nam chưa một lần đặt chân đến đất Bắc nhưng vẫn hào hứng hát: “Xuân đến hoa mơ hoa mận nở/Gái xuân rũ lụa bên sông Vân”. Chính ca khúc này đưa nhạc sĩ Từ Vũ ngang hàng với các nhạc sĩ nổi tiếng ở thế hệ trước. 60 năm sau, ca khúc “Gái xuân” vẫn sống khỏe qua các thế hệ ca sĩ và trở thành một nhạc phẩm thân thuộc không thể thiếu trong dịp tết đến xuân về từ Nam ra Bắc.

Trong căn nhà nhỏ đường Nguyễn Cửu Đàm, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh, nhạc sĩ Từ Vũ kể với chúng tôi về những nốt nhạc “định mệnh” đời mình: “Khi đọc đến “Gái xuân” của Nguyễn Bính, tự nhiên nỗi nhớ quê hương, nhớ thương người con gái đang ở một phương trời xa ập tới, nghẹn lại, tôi phổ nhạc cho bài thơ chỉ trong một giờ đồng hồ là xong. Viết xong, tức tốc đạp xe đến nhà ca sĩ Linh Sơn nhờ thể hiện để làm món quà tặng người bạn gái du học. Không ngờ ca khúc lại trở nên nổi tiếng”. Ông bảo, hãnh diện nhất là ca sĩ miền Nam, người miền Nam đã hát “Gái xuân”. Sở dĩ như vậy bởi năm 1950 nhạc sĩ Từ Vũ theo gia đình vào miền Nam sinh sống và thường bị bạn bè chê cười gọi là “cá gỗ”, “rau muống”. Mối tình đầu của nhạc sĩ Từ Vũ với một cô gái miền Nam tan vỡ vì bị gia đình cô gái cấm cản. Rồi mối tình thứ hai cũng chẳng thể an bài, người yêu lần này là cô bạn gái cùng lớp tên là Thanh Vân, hai người thương nhau suốt một kỳ học nhưng phải chia tay nhau vì Thanh Vân ra nước ngoài du học. Trong buổi chiều cô quạnh, chàng trai trẻ thương nhớ người yêu, thương nhớ mùa xuân đất Bắc tìm được tập thơ Nguyễn Bính và đọc đến bài thơ “Gái xuân” thì cảm xúc dâng trào..

Góa vợ từ năm 39 tuổi, một mình ở vậy nuôi 4 con trưởng thành, cuộc đời nhạc sĩ Từ Vũ gắn với sự cô độc và khó khăn. “Xa Hà Nội, xa mùa thu, xa buổi sáng đầu đông và xa nụ cười hoa đào chớm xuân, tôi mất cảm xúc không thể nào viết được, do đó không còn sáng tác được ca khúc xuân. Năm 1993, có dịp trở về thăm Hà Nội, không khí trong lành của ngày đầu chớm xuân, tôi chợt nghe lời hát “Gái xuân” và tự nhiên bồi hồi, xúc cảm!”. Nhạc sĩ Từ Vũ quyết định thay đổi. Ông dành thời gian để chăm sóc vườn hoa trên sân thượng, cùng bạn bè đi viếng mộ các thi nhân lớn của Việt Nam như Hàn Mặc Tử, nhà thơ Tương Phố. Ngoài ra, ông tiếp tục phổ nhạc bài thơ “Hai sắc hoa Ti gôn” của TTKH và bài “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố . Ông bắt mạch cảm xúc tìm về sáng tác các ca khúc xuân ở tuổi 80. Ông khoe với chúng tôi ca khúc “Ta tìm thấy nhau” bằng ánh mắt hân hoan về một mùa xuân tuần hoàn của cuộc đời.

(Kiến Lâm)

Nhạc sĩ Từ Vũ.
Nhạc sĩ Từ Vũ.

“KẺ NGOẠI ĐẠO” TỪ VŨ & CA KHÚC “GÁI XUÂN”

(Đoàn Thạch Hãn)

Có những nhạc sĩ đã lưu lại được tên tuổi với đời chỉ bằng một tác phẩm duy nhất. Đó là trường hợp Lê Trạch Lựu với “Em tôi”, La Hối với “Xuân và tuổi trẻ”, Nhị Hà với “Trở về thôn cũ” và Lê Hoàng Long với “Gợi giấc mơ xưa”… Từ Vũ có đến 20 ca khúc, và một số bài hát ngoại quốc do ông đặt lời Việt. Tuy nhiên, nhắc đến ông, người ta chỉ nghĩ đến “Gái xuân” (phổ thơ Nguyễn Bính). Ca khúc này đã đưa ông lên hàng “chiếu trên” của làng âm nhạc Việt Nam, dù ông luôn khiêm tốn nhận mình chỉ là “kẻ ngoại đạo”.

Chỉ còn một năm nữa thôi là “Gái xuân” tròn 60 tuổi. Nhưng dường như ca khúc này vẫn trẻ mãi không già, cho dù tác giả bài thơ đã hóa thành người thiên cổ từ lâu, và người phổ nhạc giờ đây đã bước sang tuổi 80. Có thể nói, trong danh mục bài hát Việt, nói về mùa xuân, ngày càng dài thêm, thì “Gái xuân” vẫn là một trong những nhạc phẩm đặc sắc nhất. Hát thì cứ hát, nghe thì cứ nghe, nhưng có mấy người biết “Gái xuân” đã ra đời như thế nào? Phần lớn, người ta chỉ biết “Gái xuân” là một trong những bài thơ hay của thi sĩ Nguyễn Bính, được phổ nhạc một cách xuất thần. Nhưng ít ai biết, người đã thổi âm điệu cho hồn thơ đó bay cao chính là Từ Vũ.

Tên khai sinh của Từ Vũ là Trần Đỗ Lộc. Ông sinh năm 1932 tại Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội). Khác với nhiều nhạc sĩ đã làm quen với nốt nhạc từ thuở thiếu thời. Từ Vũ thì lại khác. Dù rất yêu thích bộ môn này, nhưng đến khi đã trở thành một thanh niên 18 tuổi, ông vẫn chưa biết vị trí của 7 nốt nhạc nằm ở vị trí nào trên khung, và một nốt đen khác với một nốt trắng ra làm sao! Năm 1950, ông theo gia đình vào Nam sinh sống. Một buổi chiều, lang thang trên đường Catinat (nay là Đồng Khởi), ông ghé vào một tiệm sách ở khu vực E – Den, và tình cờ nhìn thấy nơi đây bày bán cuốn “L’ Art de Compositon Musiccale” (Nghệ thuật sáng tác âm nhạc). Thế là ông vội mua ngay, đem về nhà tự học một cách say mê, để từ đó nắm vững căn bản sáng tác ca khúc. Chính cuốn sách này là người thầy đầu tiên dẫn dắt Từ Vũ đi vào con đường âm nhạc.

Mùa xuân năm 1953, chàng trai Từ Vũ tròn 21 tuổi, sống kiếp tha phương giữa đất Sài Gòn hoa lệ, không có gia đình, người thân, bạn bè bên cạnh. Ông nằm trên gác trọ tìm quên nỗi buồn bằng sách báo cho vơi nỗi nhớ nhà. Bất chợt ông tìm thấy trong đống sách báo lộn xộn đó tập thơ “Mây Tần” của thi sĩ Nguyễn Bính. Khi đọc đến bài “Gái xuân”, một bài thơ thất ngôn rất ngắn, chỉ vỏn vẹn 2 khổ, 8 câu, ông đã rung động tận đáy lòng. Nhạc sĩ Từ Vũ nói: “Tôi không thể nén được cảm xúc khi đọc câu “Gái xuân giũ lụa trên sông Vân”. Đích thị đây phải là một cô gái Hà Đông, quê tôi. Bởi lẽ, không chỉ lụa Hà Đông đã nổi tiếng từ ngàn xưa trên đất Bắc, mà gái Hà Đông cũng nổi tiếng đẹp đẽ, ngoan hiền, dịu dàng như lụa. Chẳng kém cạnh gì những cô gái quan họ Bắc Ninh. Rồi thì “…Đôi tám xuân đi trên mái tóc/ Đêm xuân cô ngủ có buồn không?”. Thi sĩ Nguyễn Bính đã diễn tả tâm trạng cô gái quá tài tình. Tôi đọc đi, đọc lại bài thơ dăm ba lần là “ngấm” ngay vào máu, vào tim. Trong giây phút xuất thần, tôi viết ngay một mạch, không chỉnh sửa gì cả. Thế là thành nhạc phẩm “Gái xuân”.

Từ Vũ tiết lộ: “Có một điều, nguyên tác “Gái xuân” của Nguyễn Bính ngắn quá. Khi phổ nhạc, chẳng lẽ cứ lặp đi, lặp lại bấy nhiêu lời. Thành thử tôi mạn phép tác giả, thêm 3 câu trong khổ thơ này:

“Xuân đi. Xuân đến hãy còn xuân
Cô gái trông xuân đến bao lần
Xuân đến hoa mai hoa mận nở
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân”

Sau khi hoàn thành “Gái xuân” cho đến khi bài hát được thịnh hành rồi đi vào lòng công chúng, mãi mãi tôi không một lần được gặp Nguyễn Bính để nói với ông một vài lời. Lòng tôi áy náy lắm! Không biết thi sĩ có gì trách móc hay không?

Không ai có thể nói thay Nguyễn Bính. Nhưng đứng trên phương diện nghệ thuật, chắc không ít người đồng tình rằng, nếu Từ Vũ không nói ra thì cũng chẳng mấy ai biết chuyện trên. Bởi vì, 3 câu mà ông thêm vào nghe cũng rất…Nguyễn Bính, và cũng chẳng kém phần tài hoa, đã nhập với toàn bộ bài thơ một cách hài hòa. Do đó, chắc Nguyễn Bính cũng vui lòng, bởi sự thêm thắt không làm mất đi giá trị và tứ thơ của nguyên bản. Nhưng sự áy náy của Từ Vũ chính là lòng tự trọng của một tài năng.

Theo lời kể của nhạc sĩ Từ Vũ thì ngày đó, ông có quen biết nữ ca sĩ Linh Sơn. Khi ra mắt “Gái xuân”, ông đã nhờ bà hát đầu tiên, nhưng không mấy thành công và Từ Vũ cũng không lấy làm hài lòng cho lắm. Một hôm, tình cờ gặp nữ ca sĩ Tâm Vấn tại Đài Phát thanh Sài Gòn, bà Tâm Vấn trách ông sao không tặng bà bài “Gái xuân”? Ông đã viết vội ca khúc này lên một mảnh giấy và trao cho Tâm Vấn. Sau đó, Từ Vũ theo gia đình ra Phan Thiết và chưa được nghe Tâm Vấn hát một lần nào cả. Nhưng theo lời bạn bè viết trong những lá thư gởi cho ông thì Đài Phát thanh Sài Gòn đã thường xuyên phát đi, phát lại ca khúc “Gái xuân” với tiếng hát Tâm Vấn, rất được công chúng ưa thích. Đọc những lời đó, Từ Vũ rất vui. Nhưng ông không biết làm cách nào để chính tai mình có thể nghe được. Lúc bấy giờ phương tiện nghe nhìn như băng, đĩa còn quá nghèo nàn, khan hiếm. Ông lại ở xa, biết liên hệ với ai ở Đài Phát thanh Sài Gòn để biết trước họ sẽ phát lại “Gái xuân” vào thời điểm nào mà đón nghe. Thành ra mù tịt!

Một buổi tối cuối năm 1953. Từ Vũ rảo bước lang thang trên dường phố Phan Thiết trong cái se lạnh của buổi tàn đông ở vùng đất cực Nam Trung bộ. Bỗng dưng từ loa phóng thanh công cộng của Ty Thông tin Phan Thiết, tiếp sóng Đài Phát thanh Huế vang lên điệu nhạc Tango của bài “Gái xuân” qua tiếng hát của nữ ca sĩ Diệu Hương. Từ Vũ đã xúc động đến trào nước mắt. Đôi chân như bay bổng khỏi mặt đất, ông đứng dựa vào cột đèn, lắng nghe từng tiếng hát gõ nhịp trong tim. Đó là lần đầu tiên Từ Vũ gặp lại đứa con tinh thần của mình kể từ khi ông cho nó ra đời. Bài hát chấm dứt. Dù ông không biết Diệu Hương là ai, và đó là lần đầu ông mới nghe tên, thế mà cứ thẫn thờ, tiếc nuối! Biết bao giờ mới được nghe lại thêm lần nữa. Tối hôm đó, Từ Vũ không chợp mắt được. Ông nằm thương nhớ “Gái xuân” vang vọng mãi trong hồn giọng hát từ xứ Huế xa xôi. Đến bây giờ ca khúc này đã được nhiều ca sĩ trình bày thành công, và ông cũng có gần như đầy đủ băng đĩa lưu giữ, nhưng mỗi lần nhớ lại cái đêm hôm ấy đã trôi qua 60 năm trời, Từ Vũ vẫn còn đủ cảm xúc, ngất ngây như mới hôm qua.

Sau Linh Sơn, Tâm Vấn, Diệu Hương, đến lượt Thái Thanh, Sĩ Phú, Lệ Thu, Khánh Ly, Thanh Lan, Hoàng Oanh, Lan Ngọc, Hương Lan, Băng Tâm, Ý Lan, Ánh Tuyết… và nhiều ca sĩ danh tiếng của thế hệ kế tiếp như: Trang Nhung, Quang Linh, Cẩm Ly, Hiền Thục, Hồng Ngọc, ban tam ca Áo Trắng, ban tam ca 3A…cũng hát “Gái xuân”. Nhất là vào dịp tết, cùng với “Ly rượu mừng”, “Xuân và tuổi trẻ”, “Gái xuân” là 3 ca khúc kinh điển, luôn vang lên trong từng mái ấm gia đình Việt Nam ở trong nước cũng như nhiều nơi trên khắp thế giới. Khi nghe ban tam ca Áo Trắng tập bài “Gái xuân”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Hồi mới lớn, “moa” đã rất thích bài này. Có thể nói, tết mà thiếu “Ly rượu mừng”, “Xuân và tuổi trẻ”, “Gái xuân” là đã mất đi một nửa mùa xuân”.

Một ca khúc được nhiều ca sĩ thuộc nhiều thế hệ nối tiếp hát, mỗi người một chất giọng, một phong cách khác nhau, nhưng hầu hết họ đều thể hiện thành công. Đó chính là điểm đặc sắc của Từ Vũ. Nói như giọng hát vượt thời gian Thái Thanh: “Bởi vì tự thân “Gái xuân” quá hay, khó mà hát dở cho được”. Khởi thủy, Từ Vũ viết “Gái xuân” bằng điệu tango dồn dập, lôi cuốn một cách sang trọng. Nhưng về sau, nhiều ca sĩ lại chuyển sang điệu Rumba, rồi Chachacha, với tiết tấu trẻ trung, phần phối âm, phối khí hiện đại, đã khoác cho ca khúc này một chiếc áo mới. Từ Vũ nhận xét: “Sự chuyển thể này tôi nghe cũng thấy hay, rộn ràng và tươi trẻ hơn. Vấn đề là vẫn giữ được cái hồn và tình cảm của ca khúc”.

Mặc dù chỉ với một “Gái xuân” thôi đã đủ để tên tuổi Từ Vũ vang danh với đời, nhưng ông luôn khiêm tốn nhận mình chỉ là “kẻ ngoại đạo”, rong chơi vào khu vườn âm nhạc mà thôi. Ông quả quyết: “Mọi lãnh vực sáng tác, kể cả âm nhạc đều tùy vào “thần hứng”. Không phải lúc nào cái giây phút thăng hoa, khiến tâm hồn mình bay bổng cũng đến. Một đời, đôi khi “thần hứng” chỉ đến một đôi lần, nếu không kịp ghi lại cảm xúc tuyệt vời đó là coi như chẳng có được gì”.

Cho dù Từ Vũ muốn hay không muốn, cuộc đời vẫn gọi ông là nhạc sĩ bằng tất cả sự trân trọng. Tròn tuổi 80, ông đang sống tại số nhà 19/14, đường Nguyễn Cửu Đàm, quận Tân Bình, Tp HCM một cách thanh thản. Vừa rồi, được sự tài trợ của con gái, như một món quà tinh thần đầy ý nghĩa dành cho cha trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, Từ Vũ đã thực hiện CD “Gái xuân” với 10 ca khúc, trong đó có những ca khúc phổ thơ do ông sáng tác sau này như “Mưa Cao nguyên” (thơ Hoàng Hương Sơn), “Mưa tháng 6” (thơ Thường Đoan), “Mưa đời lãng du” (thơ Trần Hữu Ngự). Có lẽ, đây là đĩa nhạc đầu tiên và cũng là duy nhất của ông. Theo nhạc sĩ Từ Vũ, làm để chơi, như một kỷ niệm lưu lại ở đời này.

Một ngày nào đó, Từ Vũ cũng sẽ từ bỏ cõi tạm này ra đi. Nhưng chắc chắn “Gái xuân” vẫn còn ở lại và trẻ mãi không già như lời hát mà ông đã thêm thắt. Phải chăng đó cũng là một lời tiên tri: “Xuân đi xuân đến hãy còn xuân”

(Đoàn Thạch Hãn)

oOOo

Gái Xuân – Ca sĩ Hoàng Châu:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Ý Lan:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Ánh Tuyết:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Ngọc Mai:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Trang Nhung:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Cẩm Ly, Nghệ sĩ Hồng Vân, Danh hài Hoài Linh:

 

Gái Xuân – Ca sĩ Quang Lê:

 

LK Gái Xuân – Asia Entertainment:

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s