Chào các bạn,

Chúng ta đã nói về aura–vùng hào quang—của mỗi người chúng ta trước đây. Đó là vùng sáng, cái dáng, cái vẻ… của ta mà người khác thường cảm nhận được mỗi khi gần ta. Có người có aura làm người khác nghi ngại, có người có aura làm người khác yêu mến và tin tưởng…
Một phần lớn aura đến từ thân ngữ (ngôn ngữ của thân thể). Nếu ta là người thường yêu mến và quý trọng người khác, toàn thân thể của ta sẽ nói ra điều đó một cách vô thức, và mọi người khác cũng đọc được các thân ngữ đó một cách vô thức. Ngược lại, nếu ta là người hay ganh đua nghi kỵ, thì thân ngữ ta cũng nói lên điều đó và những người khác cũng đọc được, một cách vô thức.

Bài này ghi lại vài suy nghĩ về từ Hán Việt/HV phiêu bạc so với phiêu bạt cùng những tương quan với một số từ liên hệ trong tiếng Việt như bèo, bều, bêu (lêu bêu)… Một số lớn từ vựng tiếng Việt có dính líu trực tiếp hay gián tiếp đến tiếng Hán, như một số học giả ước đoán khoảng 70 đến 75 phần trăm, thành ra hiểu được ngữ căn tiếng Việt là hiểu được phần nào bản chất phong phú và đa dạng của ngôn ngữ dân tộc. Điều nên biết là không chỉ tiếng Việt mới có liên hệ lâu đời với tiếng Hán, mà tiếng Nhật, Hàn cũng không khác gì mấy. Không còn gì thích hợp hơn là trong giai đoạn này ta xem lại cách dùng của các từ phiêu bạc và phiêu bạt – nhất là khi mà người Việt chúng ta phiêu tán khắp nơi trên thế giới – lại càng thấy thấm thía ý nghĩa bèo dạt mây trôi của chúng. Giọng Bắc Kinh/BK được ghi bằng hệ thống bính âm (pīnyīn) rất phổ thông hiện nay, cần phân biệt số chỉ thanh điệu (như số 3 trong ju3 hay jǔ) và số phụ chú ghi ngay sau một chữ (như nhiều3). Dấu hoa thị (asterisk) đứng trước một âm là một dạng phục nguyên của âm cổ (reconstructed sound): như *bieo (bèo) chẳng hạn. Để ý là giọng BK của bạc 泊 bây giờ là bó (mất phụ âm cuối -c) thành ra không cần phải đặt vấn đề như bài này!

