Chào các bạn,

Nếu chúng ta nghiên cứu về chế độ nô lệ ở Mỹ, mới chấm dứt chính thức năm 1863 ở Mỹ với “Tuyên cáo giải phóng” (emancipation proclamation) của tổng thống Lincohn và cuộc nội chiến Mỹ, thì chúng ta hiểu được thành kiến ảnh hưởng mạnh mẽ thế nào đến tư duy con người.
Mỹ là một quốc gia Tin Lành, tức là nhóm Thiên chúa giáo chạy tị nạn tôn giáo từ Âu Châu sang Mỹ từ thế kỷ 17. Jesus dạy bình đẳng, và Tin Lành, vì là dân tị nạn, là nhóm Thiên chúa giáo có tư duy bình đẳng nhất. Dù vậy họ vẫn không thấy chế độ nô lệ là sai.
Người nô lệ không có giá trị bình đẳng với một người da trắng. Người nô lệ không thể tự tồn tại. Mỗi người nô lệ phải có một người chủ, và người chủ sở hữu người nô lệ như là một đồ vật. Người chủ có thể bán người nô lệ cho người khác như là một đồ vật. Và người nô lệ nào bỏ chủ trốn đi sẽ bị pháp luật trừng trị. Thế thì bình đẳng ở đâu? Trong lúc gần 2 nghìn năm trước Jesus đã là khuôn mẫu cho khiêm tốn và bình đẳng? Và vào thời chế độ nô lệ ở Mỹ, hầu như là 100% người da trắng theo Thiên chúa giáo.
Đây là một sự thật lạ lùng, phải không các bạn? Những người da trắng trong một tôn giáo đặt trọng tâm vào bình đẳng lại có chế độ nô lệ (mà phải có một cuộc nội chiến tương tàn để chấm dứt). Tại sao?
Thưa, tại vì thành kiến bóp méo tư duy của con người đến mức người ta không thể thấy được chính mình và tư duy của mình. Da đen không phải là con người, ít ra thì cũng không là con người ngang hàng da trắng. Chúa tạo da trắng cao hơn da đen, như là tạo ra con người cao hơn chó mèo, cho nên da trắng sở hữu và quản lý da đen là chuyện hợp lý, hợp ý chúa. Con người được Chúa cho quản lý mọi sự thấp hơn người, như cây cối, đất đại, thú vật… hay da đen, cho nên quản lý da đen cũng là việc phải làm thôi. Và dĩ nhiên là mọi người da trắng vẫn xử với nhau trong giới da trắng một cách bình đẳng như lời Chúa dạy. Có gì sai đâu?
Tưu trung là lý luận nghe như thế. Dù là nghe rất giễu thời nay, ngày xưa nó đã là luồng tư duy chính trong các xã hội có chế độ nô lệ hàng nghìn năm.
Nhưng vào thuở xưa, chẳng thể nào ta có thể giải thích cho các chủ nô lệ rằng chế độ nô lệ là phản lời dạy của Chúa cả. Họ không thể hiểu lời nói đó, và nếu không bắt ta đem nhốt thì cũng xem ta như là người điên lảm nhảm bậy bạ. Phải có nhiều cuộc chiến giải phóng nô lệ trên thế giới, máu người nô lệ phải chảy nhiều, thì người ta mới từ từ chấp nhận là nô lệ cũng là người và cũng được quyền bình đẳng như “Chúa Giêsu của ta dạy”.
Vì thế, chúng ta phải hiểu sức mạnh của thành kiến. Cực kì kinh khủng, cực kì kinh khủng. Khi ta có thành kiến thế giới là màu đỏ, thì mọi lời nói, mọi giảng huấn, mọi kinh sách, dù là từ ai, cũng đều được ta hiểu theo kiểu thế giới màu đỏ. Và nếu Thánh kinh có câu thế giới màu xanh, thì đương nhiên là ta sẽ có cách giải thích “Chữ ‘xanh’ trong Thánh kinh thực ra có nghĩa màu đỏ”.
Vì quyền lực kinh khủng của thành kiến, giải tỏa tất cả thành kiến để ta có thể “nhìn sự vật như nó là” là trọng tâm của tu tập trong nhà Phật. Vô chấp. Xóa bỏ tất cả mọi chấp, xóa bỏ tất cả thành kiến, xóa bỏ tất cả vướng mắc trong tư tưởng, bằng thiền định, để tâm trí có thể nhìn mọi sự với một “tâm không”, một tâm trí hoàn toàn tinh tuyền, không hề có tí thành kiến nào che mờ. Đó là tinh yếu của con đường Phật pháp.
Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Vì thế, người tu thì nhiều, người đạt ngộ ít hơn kim dưới đáy biển.
Thiên chúa giáo thì dạy người ta thực tập “Yêu người vô điều kiện”. Và nhiều người, như thánh Francis of Assini, thương cả loài vật. Tình yêu mãnh liệt giúp chúng ta nhìn người khác với con mắt bao dung độ lượng và hy vọng là nhờ thế mà ta mất đi thành kiến về họ. (Nhưng nhìn lịch sử Tây phương thì ta thấy cách này có lẽ là không hiệu nghiệm mấy, vì chế độ nô lệ mới hết trên giấy tờ chỉ hơn 100 năm nay, và chế độ thuộc địa mới chấm dứt vài mươi năm nay).
Theo mình nghĩ, nếu chúng ta thực sự khiêm tốn, yêu thương và lắng nghe, lắng nghe người kia, cố gắng hiểu được tư duy và cách suy nghĩ của họ, cố gắng hiểu được tại sao họ buồn, tại sao họ vui… để ta có thể đạt được cách nhìn sự việc qua con mắt của họ, thì lúc đó may ra ta có thể thấy được thành kiến của ta để mà xóa bỏ.
Xoá bỏ thành kiến không phải là việc khó. Nhưng trước đó, thấy mình có thành kiến mới là việc khó. Không thấy thì chẳng có gì để xóa.
Các bạn, nếu các bạn nghĩ rất kỹ về hậu quả của thành kiến trong mỗi người chúng ta, các bạn sẽ rất tội nghiệp cho loài người—con người, cả gần 8 tỉ người trên thế giới, chỉ là một đám mù sờ voi, chỉ có thể thấy con voi như là cái gì mình đã sờ–vòi, tai, đuôi, chân—chứ không làm sao có thể biết được con voi thật sự như thế nào.
Rất nhiều khi mình thấy ai đó rất sai về một chuyện, nhưng không làm sao giải thích cho người ấy hiểu được sự thật, vì thành kiến của họ che mắt họ quá kỹ. Nói cách gì thì họ cũng chỉ biến lời nói của mình thành màu sắc thành kiến trong đầu họ mà thôi.
Tại sao người này thờ Thần Đất? Tại sao người vùng này khuyến khích người ta lập gia đình lúc 13 tuổi? Tại sao dân vùng này ghét Mỹ? Tại sao dân vùng này ghét Hồi giáo? Tại sao dân vùng này nghi kị Công giáo? Tại sao dân vùng này ghét người Kinh? Tại sao dân vùng này cứ nhất định đòi để hoang vùng đất này, chống khai phá?…
Những câu hỏi như thế, nếu ta xóa ngay được trong đầu ta những trả lời có sẵn–như là “Họ chậm tiến, không hiểu nhiều”, “Họ ngu dốt”, “Họ bị nhồi sọ”—và bắt đầu tìm hiểu vì sao họ, dưới góc nhìn của họ, có lý do hợp lý để cảm xúc và tư duy như thế, thì may ra, may ra mà thôi, chúng ta thấy được thành kiến của mình, và có thể xóa bỏ thành kiến của mình.
Và các bạn, việc xoá bỏ thành kiến này chẳng liên hệ gì đến thông minh hay khả năng lãnh đạo của bạn cả. Có rất nhiều lãnh đạo chính trị và tôn giáo trên thế giới thành kiến đến mức điên rồ, và họ lãnh đạo người của họ đi vào mọi loại chiến tranh và mâu thuẫn. Thực ra các lãnh đạo lớn, tự cao tự đại, xem như mình là ánh sáng trí tuệ của loài người, là những người bị thành kiến che mờ mạnh nhất, và làm nhiều việc điên rồ nhất, thường khi đưa đến hủy diệt cho cả triệu người.
Loại bỏ thành kiến chỉ tùy thuộc vào khiêm tốn và nhân ái của bạn với thế giới quanh bạn. Không còn chấp tôi, không còn chấp người khác, không còn chấp chúng sinh. Không còn thấy giữa tôi và người khác và các chúng sinh khác có sự khác biệt và tách biệt. Chỉ có mức đó mới thực sự xóa bỏ được các thành kiến hoàn toàn.
Kinh Kim Cang nói thành kiến (“chấp”) làm ta “điên đảo mộng tưởng”. Điên. Và chẳng có người điên thứ thiệt nào biết là họ điên cả. Đó là vấn đề lớn của con người chúng ta.
Cho nên, các bạn, nếu chúng ta có thể đạt được con mắt trí tuệ Bồ tát thì đó là ân phúc vô cùng lớn. Nhưng nếu không được trí tuệ Bồ tát, nếu chúng ta chỉ hiểu được và tìm cách lột bỏ từ từ các lớp thành kiến của mình, như là lột các lớp vỏ hành, thì đó cũng là một ân phúc rất lớn ta đã làm được cho chính ta. Và cho cuộc đời này.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Cảm ơn chị Xuân Lành tìm đọc lại nhiều bài hay của anh Hoành để em đọc lại theo 🙂
Ý kiến của chị là “cội nguồn của thành kiến chính là sự kiêu ngạo, không muốn người khác hơn mình, sợ mình phải thua người khác”, em thì nghĩ khác một chút, em nghĩ cội nguồn của thành kiến là vô minh, cho nên người ta không biết là mình đang có thành kiến đó và hành động mù quáng theo nó.
Em đồng ý với chị là người kiêu ngạo sẽ không thể xoá bỏ được thành kiến vì chỉ có khiêm tốn nghĩ rằng mình có thể đã sai mới có thể tiếp cận được sự thật.
Chị cũng hứng thú với khái niệm vô ngã vô chấp trong nhà Phật, khiến em thấy thật là vui 🙂
Chúc chị vui khoẻ và an lạc
Em Hường
LikeLike
Dear Anh Hai
Trong cuộc sống đã cho em cảm nhận chính thành kiến làm cho người khác không còn là chính họ, không còn như họ là! Nhưng họ chính là sản phẩm do ý mình nghĩ ra, vẽ ra về những phẩm chất con người của họ…
Suy xét cho cùng em thấy cội nguồn của thành kiến chính là sự kiêu ngạo, không muốn người khác hơn mình, sợ mình phải thua người khác…
Chính vì vậy em rất tâm đắc điều Anh Hai chia sẻ: “Loại bỏ thành kiến chỉ tùy thuộc vào khiêm tốn và nhân ái của bạn với thế giới quanh bạn.
Không còn chấp tôi, không còn chấp người khác, không còn chấp chúng sinh. Không còn thấy giữa tôi và người khác và các chúng sinh khác có sự khác biệt và tách biệt.
Chỉ có mức đó mới thực sự xóa bỏ được các thành kiến hoàn toàn.”
Em cảm ơn Anh Hai về những chia sẻ mỗi ngày.
Em M Lành
LikeLike
Hay lắm Basic. Nếu không đi thì sao có thể trở về!
LikeLike
Chào anh Hoành và cả nhà,
Lúc còn là trẻ thơ, ta như tờ giấy trắng, có biết gì nhiều đâu để mà chấp, do đó ta thật sự khiêm tốn và nhân ái.
Càng lớn dần ta càng học nhiều, biết nhiều và càng chấp nhiều hơn. Do đâu?, vì ta nghĩ đến bản thân nhiều quá, do bản thân là động lực để ta phấn đấu học hành và thăng tiến. Ta càng dần trở nên bớt khiêm tốn và bớt đi lòng nhân ái.
Đến nay ta lại học cách quên đi bản thân ta, để phục hồi lại lòng nhân ái và khiêm tốn.
Phải chăng con người phát triển là để trở về điểm xuất phát đầu tiên?, hay là để quay trở về bản lai diện mục đã có sẵn trong ta như lời Phật dạy.
Nhưng mà con đường này thì còn xa lắm, vì chỉ có thành kiến không thôi mà ta cũng đã khó lột bỏ rồi!
Vậy thì có người hỏi “đi xa chi cho lắm rồi cũng trở về!”
Nhưng nếu không đi thì sao có thể trở về được!
Điều này có đúng không anh?
LikeLike
Hi Nam,
Rất nên rành triết lý Phật, vì đó là một triết lý rất cao và rất sâu, Anh đã đọc các triết gia hàng đầu thế giới của tây phương. Tất cả tư tưởng của họ chỉ là các ghi chú cuối các trang Phật triết. Hơn nữa, phật giáo là văn hóa Việt, đã mấy ngàn năm. Không hiểu Phật triết thì rất khó để hiểu văn hóa Việt sâu sắc.
Em có thể đến buddhismtoday.com. Dưới phần “Phật pháp” có phần “Bước đầu học Phật”. Lựa vài bài ra đọc. Có lẽ là “Đạo Phật là gì?”, “Đặc điểm đạo Phật”, “Nền Tảng học Phật” sẽ có các bài em thích đọc.
Sau này em sẽ biết nên dọc thêm gì. Hay là lại hỏi anh lúc đó.
Chúc em hứng thú khai phá con đường Phật pháp.
LikeLike
Anh Hoành ơi, em đọc bài trên đọt chuối non 1 thời gian rồi. Thì thấy các bài đều ít nhiều liên quan đến triết lý của phật pháp. Vậy em tự hỏi, liệu mình có bắt đầu nghiên cứu những triết lý gốc của phật pháp này không? và nên khởi đầu như thế nào?
Em cảm ơn anh nhiều ạ.
LikeLike