Tag Archives: trà đàm

Viết Cho Dã Quỳ

(…nhưng em nói dã quỳ vào mùa nào/ mùa
đông/ đúng rồi mùa hoa/ uh cây non mọc lên
nở hoa và tàn rụi trong vòng một năm…)

1.

Từ tàn rụi nụ mầm vươn lên vào lúc không ai còn nhớ (sự lãng quên luôn thường trực trong tâm trí con người) những mầm xanh không như lá cỏ mà được xem như lá cỏ cứ khuất lấp trong ngăn ngắt rậm rạp cứ lặng lẽ bên vệ đường trước thềm nhà khắp chân đồi (giờ đồi hoang cũng không còn nhiều vì loài người sinh sôi nẩy nở bung chiếm còn nhanh hơn cả cỏ cây)

Rồi những chiếc lá hình bàn tay xoè ra run rẩy hân hoan trong mưa bụi (dường như tất cả hạnh ngộ thuở ban sơ đều như vậy) mưa càng dấm dứt đất càng đỏ ứ cây lá càng xanh non tươi rờn rợn mưa mưa mưa mưa nước nuôi dưỡng sự sống bằng những ngập tràn thấm sâu dịu nhẹ (cũng có khi lắm khi hung tợn trào dâng) mưa mưa mưa mưa dã quỳ theo mưa mà lớn

Đó là cách tồn tại cổ xưa nguyên thuỷ nhất tồn tại theo bầy đàn mỗi đơn lẻ là một trong nhiều trong những của cộng đồng mỗi đơn lẻ tưởng như giống nhau về hình thể về tính cách về thân phận đứng bên nhau làm nên thế giới (tưởng công bằng bình đẳng) hướng về ánh sáng hướng về bầu trời mà ngờm ngợp mà mải miết mà vươn cao mà xoè tay mà ươm nụ mà hồn nhiên mà chờ đợi


2.

Có xứ sở chọn khắc nghiệt làm tính cách đặc thù (không chừng mực không điều độ không sắc màu trung tính) xứ sở dã quỳ không có mùa thu không có mùa xuân (chỉ hai mùa mưa nắng) xứ sở buồn muôn thuở bụi mù trời (bụi lừng lững đi lừng lững dựng từng cột đỏ trên những con đường mòn vắng vẻ khô khát) tháng mười hai lạnh lẽo khô ngùn ngụt nắng là tín hiệu để dã quỳ mở bung.

Đó là không gian mênh mông (đồi nối tiếp đồi thung lũng kéo dài thung lũng) là cuồng nộ gió (gió như đoàn chiến mã ràn rạt lao qua không cần biết sẽ về đâu không cần biết gì đang đón đợi cứ phía trước mà phi mà lồng lộn sải vó) là bướm hoang là ong rừng là bước chân bồn chồn của những người đàn bà luôn mơ những giấc mơ bất ổn

Là dã quỳ tồn tại như một dâng hiến không cần lý do

3.

Dã quỳ dã quỳ dã quỳ cứ vàng mơ vàng tươi vàng xuộm vàng cháy cứ rừng rực mê đắm miên man trên nền xanh của lá nền đỏ của đất bazan cứ tạo nên những đối cực nhức nhối xốn xang đôi khi khó chấp nhận trong mắt người không chờ đợi không khát khao không hoài vọng dã quỳ (dường như) hồn nhiên bung nở hồn nhiên toả hương hồn nhiên vàng vào nắng vào sương vào bụi đỏ hồn nhiên làm mặt trời thắp nắng trong hoang lạnh hồn nhiên làm nên linh cảm bất an mùa xao xác

Đã có những ngợi ca đã có những cười cợt đã có những rắp ranh đòi chia sẻ đã có những dự tính can thiệp riêng tư dã quỳ (dường như) vô tâm (dường như) ngoài cuộc cứ vàng cho hết đời sống mình (vì đó chính là mình) rồi rời rã rũ rượi trong gió đông rồi khô đi nâu sẫm trên những cành nhánh trụi trơ rồi khuất lấp rồi biến tan

Mùa đã khô ngày đã không còn hoang hoải gió
dã quỳ bình thản đợi hồi sinh

4.

Những người đàn bà mang giấc mơ bất ổn chôn trên sườn đồi đêm đêm chờ mưa chờ quên lãng nghe trong tiếng sấm khắc khoải có niềm âu lo rồi đồi hoang sẽ không còn là đồi hoang nữa

Đinh thị Như Thúy

Shoun và mẹ

Shoun là một vị thầy về thiền Tào Động. Khi còn là học trò, bố của Shoun qua đời, Shoun phải chăm sóc mẹ.

Mỗi khi vào phòng thiền, Shoun luôn luôn mang mẹ đi theo. Vì có mẹ đi theo, mỗi khi Shoun viếng một tu viện, ông không thể sống chung với các vị sư khác. Vì vậy Shoun xây một nhà nhỏ để lo cho mẹ. Shoun chép lại kinh sách, và thi ca nhà Phật, và nhờ đó nhận được ít tiền mua thực phẩm.

Khi Shoun mua cá cho mẹ, người ta chế giễu ông, vì người tu hành không được ăn cá. Nhưng Shoun không màng. Tuy nhiên, mẹ của Shoun thì buồn, thấy con mình bị cười chê. Cuối cùng bà nói với Shoun: “Mẹ nghĩ là mẹ sẽ thành ni cô. Mẹ cũng có thể ăn chay được.” Bà thành ni cô, và mẹ con nghiên cứu chung với nhau.

Shoun yêu nhạc và là nhạc sĩ giỏi về đàn hạc, Mẹ shoun cũng chơi đàn hạc. Những đêm trăng tròn hai mẹ con chơi đàn với nhau.

Có một đêm một cô gái trẻ đi ngang nhà và nghe nhạc. Cảm xúc quá, cô bèn mời Shoun đến nhà cô đêm hôm sau và đánh đàn. Shoun đồng ‎ý. Vài ngày sau Shoun gặp lại cô ấy ngoài phố và cám ơn lòng hiếu khách của cô. Mọi người cười chê, vì Shoun đã đến nhà một cô gái làng chơi.

Ngày nọ Shoun đi thuyết giảng ở một chùa xa. Vài tháng sau ông trở về nhà và biết mẹ vừa chết. Các bạn không biết tìm ông ở đâu, nên tang lễ đã bắt đầu.

Shoun bước lên, dùng gậy gõ vào quan tài. “Mẹ, con đã về đây,” ông nói.

“Mẹ mừng con đã về,” ông trả lời thế cho mẹ.

“Vâng, con cũng mừng,” Shoun trả lời. Rồi ông nói mới mọi người quanh ông: “Lễ tang đã xong. Các bạn có thể hỏa táng.”

Khi Shoun đã rất già, ông biết ngày cuối đã gần kề. Một buổi sáng, ông gọi các đệ tử lại quanh ông, nói cho họ biết ông sẽ ra đi vào lúc trưa. Thắp nhang trước ảnh mẹ và thầy cũ, ông viết một bài thơ:

Năm mươi sáu năm gắng sống tử tế
Đi đường tôi trong thế giới này
Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết
Trời trong xanh một mảnh trăng đầy

Các đệ tử đứng quanh ông, tụng kinh, và Shoun ra đi khi kinh còn đang tụng.
.

Bình:

• Người ta nghĩ rằng xuất gia là “ra khỏi nhà”, bỏ cha bỏ mẹ đi tu. Nhưng đâu có Phật nào cản con lo cho mẹ từng ngày, ngay cả lúc ngồi thiền là lúc cần yên tĩnh nhất, cũng mang mẹ theo bên cạnh để chăm sóc.

Ngoài gánh nặng tiền bạc và công khó, còn gánh nặng bị người đời cười chê. Mang gánh nặng để lo cho mẹ, đó chính là bằng chứng cụ thể nhất của tình yêu.

• Không chỉ lo về thể chất, mà Shoun còn lo về phát triển tinh thần của mẹ–chơi nhạc cùng mẹ, nghiên cứu Phật pháp cùng mẹ, và mẹ rốt cuộc cũng thành ni cô, mở rộng tâm mẹ trên đường tu học. Còn cái lo nào lớn cho bằng.

• Vì yêu mẹ, nên Shoun kính trọng phụ nữ, kể cả gái làng chơi. Và kính trọng phụ nữ, ngay cả khi người khác cười mình là giao du với người xấu.

• Khi mẹ chết Shoun thay mẹ để nói chuyện với mình, đó là do cảm thấy gần gũi mẹ đến mức thấy có mẹ trong mình, và mẹ nói được lời mẹ qua miệng mình.

• Thực sự thì, trong ta có cha mẹ và tất cả tổ tiên ta.

Bởi vì Shoun biết mẹ đã ở trong Shoun, nên Shoun chẳng buồn gì cả. Nói chuyện với mẹ xong là điềm tĩnh bảo mọi người có thể hỏa táng xác mẹ.

• Cho đến ngày cuối đời, vẫn không quên mẹ và thầy.

• Đến ngày cuối đời, Shoun mới xác nhận là mình đã giác ngộ–Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết, trời trong xanh môt mảnh trăng đầy.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Shoun and His Mother

Shoun became a teacher of Soto Zen. When he was still a student his father passed away, leaving him to care for his old mother.

Whenever Shoun went to a meditation hall he always took his mother with him. Since she accompanied him, when he visited monasteries he could not live with the monks. So he would build a little house and care for her there. He would copy sutras, Buddhist verses, and in this manner receive a few coins for food.

When Shoun bought fish for his mother, the people would scoff at him, for a monk is not supposed to eat fish. But Shoun did not mind. His mother, however, was hurt to see the others laugh at her son. Finally she told Shoun: “I think I will become a nun. I can be a vegaterian too.” She did, and they studied together.

Shoun was fond of music and was a master of the harp, which his mother also played. On full-moon nights they used to play together.

One night a young lady passed by their house and heard music. Deeply touched, she invited Shoun to visit her the next evening and play. He accepted the invitation. A few days later he met the young lady on the street and thanked her for her hospitality. Others laughed at him. He had visited the house of a woman of the streets.

One day Shoun left for a distant temple to deliver a lecture. A few months afterwards he returned home to find his mother dead. Friends had not known where to reach him, so the funeral was then in progress.

Shoun walked up and hit the coffin with his staff. “Mother, your son has returned,” he said.

“I am glad to see you have returned, son,” he answered for his mother.

“Yes, I am glad too,” Shoun responded. Then he announced to the people about him: “The funeral ceremony is over. You may bury the body.”

When Shoun was old he knew his end was approaching. He asked his disciples to gather around him in the morning, telling them he was going to pass on at noon. Burning incense before the picture of his mother and his old teacher, he wrote a poem:

For fifty-six years I lived as best I could,
Making my way in this world.
Now the rain has ended, the clouds are clearing,
The blue sky has a full moon.

His disciples gathered about him, reciting a sutra, and Shoun passed on during the invocation.

#15

Ý nghĩa đích thực của Giáng Sinh

Chỉ 1 tuần trước Giáng Sinh tôi có gặp 1 vị khách. Cuộc gặp gỡ đã xảy ra như thế này. Tối hôm đó tôi vừa mới làm xong việc nhà và chuẩn bị đi ngủ, thì tôi nghe 1 tiếng động vang lên từ trước nhà. Tôi mở cửa hướng vô phòng khách và, trước sự ngạc nhiên của tôi, Ông Già Noel đang bước ra gần bên lò sưởi.

“Ông đang làm gì thế?” Tôi bắt đầu hỏi. Câu nói như nghẹn lại trong cổ tôi và tôi thấy ông như đang khóc. Dáng vẻ vui đùa thường lệ của ông không còn. Cũng biến mất tâm hồn hăm hở, náo nhiệt mà chúng ta đều biết. Sau đó ông bắt đầu trả lời tôi bằng một câu nói…

“HÃY DẠY TRẺ NHỎ!” Tôi cảm thấy bối rối. Ông ấy có ý gì? Ông như đoán trước được câu hỏi của tôi và với một chuyển động mau chóng, ông ấy đưa ra một túi quà nhỏ từ sau cây Noel. Trong khi tôi vẫn còn đứng bối rối thì Ông Già Noel nói “Hãy dạy con trẻ!”

Dạy cho chúng ý nghĩa nguyên thủy của ngày lễ Noel, ý nghĩa mà những lễ Noel hiện nay đã mất. Sau đó ông thò tay vô túi lấy ra một cây thông nhỏ rồi để nó trước lò sưởi. Dạy cho trẻ nhỏ rằng màu xanh thuần khiết của cây thông trang nghiêm xanh cả năm, chỉ niềm hy vọng không bao giờ dứt của nhân loại, tất cả những chiếc lá nhọn hướng lên trời là biểu tượng cho y’ tưởng của con người hướng đến thiên đàng.”

Ông lại thò tay vô túi lấy ra một ngôi sao sáng chói. “Hãy dạy cho con trẻ rằng ngôi sao là dấu hiệu của các lời hứa từ trời lâu lắm rồi. Chúa đã hứa là sẽ gửi một vị cứu tinh cho thế giới và ngôi sao đã là dâu hiệu cho việc hoàn thành lời hứa đó.

Sau đó Ông lại lôi từ túi ra một CÂY NẾN. “Hãy dạy cho con trẻ biết rằng cây nến tượng trưng cho Chúa Kitô là ánh sáng cho thế giới, và khi chúng ta thấy nến, chúng ta lại nhớ về Chúa, người xua đi bóng tối”.

Lại một lần nữa, Ông lấy ra một VÒNG HOA và đặt nó trên cây. “Hãy dạy cho con trẻ rằng vòng hoa này tượng trưng cho tình yêu đích thực. Rằng tình yêu đích thực không bao giờ biến mất. Tình yêu là một chuỗi yêu thương liên tục.

Tiếp theo, Ông thò tay vô túi và lấy ra một hình nộm trang trí của chính mình. “Hãy dạy cho con trẻ biết rằng, ta, Santa Claus, tượng trưng cho sự khoan dung và những cảm nhận chúng ta có được trong những ngày cuối năm”.

Sau đó, Ông đưa ra một nhánh lá Holly. “Hãy dạy cho con trẻ biết rằng nhánh cây Holly tượng trưng cho cho tính bất tử. Nó biểu trưng cho chiếc vương miện đầy chông gai của Người Cứu Chuộc chúng ta. Màu đỏ của quả berry tượng trưng cho những sự hi sinh đổ máu của Chúa Giêsu.

Minh Phương, Việt Thảo và Bảo Quyên dịch

.

True Meaning Of Christmas

Just a week before Christmas I had a visitor. This is how it happened. I just finished the household chores for the night and was preparing to go to bed, when I heard a noise in the front of the house. I opened the door to the front room and to my surprise, Santa himself stepped out next to the fireplace.

“What are you doing?” I started to ask. The words choked up in my throat and I saw he had tears in his eyes. His usual jolly manner was gone. Gone was the eager, boisterous soul we all know. He then answered me with a simple statement . . .

“TEACH THE CHILDREN!” I was puzzled. What did he mean? He anticipated my question and with one quick movement brought forth a miniature toy bag from behind the tree. As I stood bewildered, Santa said, “Teach the children!

Teach them the old meaning of Christmas. The meaning that now-a-days Christmas has forgotten. “Santa then reached in his bag and pulled out a FIR TREE and placed it before the mantle. “Teach the children that the pure green color of the stately fir tree remains green all year round, depicting the everlasting hope of mankind, all the needles point heavenward, making it a symbol of man’s thoughts turning toward heaven.”


He again reached into his bag and pulled out a brilliant STAR. “Teach the children that the star was the heavenly sign of promises long ago. God promised a Savior for the world, and the star was the sign of fulfillment of His promise.”

He then reached into his bag and pulled out a CANDLE. “Teach the children that the candle symbolizes that Christ is the light of the world, and when we see this great light we are reminded of He who displaces the darkness.”

Once again he reached into his bag and removed a WREATH and placed it on the tree. “Teach the children that the wreath symbolizes the real nature of love. Real love never ceases. Love is one continuous round of affection.”

He then pulled from his bag an ORNAMENT of himself. “Teach the children that I, Santa Claus, symbolize the generosity and good will we feel during the month of December.”

He then brought out a HOLLY LEAF. “Teach the children that the holly plant represents immortality. It represents the crown of thorns worn by our Savior. The red holly berries represent the blood shed by Him.

Next he pulled from his bag a GIFT and said, “Teach the children that God so loved the world that he gave his begotten son.” Thanks be to God for his unspeakable gift.

Santa then reached in his bag and pulled out a CANDY CANE and hung it on the tree. “Teach the children that the candy cane represents the shepherds’ crook. The crook on the staff helps to bring back strayed sheep to the flock. The candy cane is the symbol that we are our brother’s keeper.”

He reached in again and pulled out an ANGEL. “Teach the children that it was the angels that heralded in the glorious news of the Savior’s birth. The angels sang Glory to God in the highest, on earth peace and good will toward men.”

Suddenly I heard a soft twinkling sound, and from his bag he pulled out a BELL,. “Teach the children that as the lost sheep are found by the sound of the bell, it should ring mankind to the fold. The bell symbolizes guidance and return.

Santa looked back and was pleased. He looked back at me and I saw that the twinkle was back in his eyes. He said, “Remember, teach the children the true meaning of Christmas and do not put me in the center, for I am but a humble servant of the One that is, and I bow down to worship him, our LORD, our GOD.”

Bức Tranh

Ngày Lễ Giáng Sinh, ngày người cha trong câu chuyện dưới đây nhận được món quà ý nghĩa nhất đời mình, ngày thực hiện ước nguyện của ông: bán đấu giá tất cả những bức tranh ông có.

Bên cạnh câu chuyện này, xin cầu chúc mọi người tràn đầy hạnh phúc với tất cả tình yêu thương và quà tặng mà mình nhận được trong mùa Giáng Sinh.

Phương Thảo & Phạm Tuyết

Bức Tranh

Một người đàn ông giàu có đã chia sẻ niềm đam mê nghệ thuật với người con trai đầy nhiệt huyết của mình. Họ cùng nhau đi chu du khắp thế giới, chỉ để bổ sung thêm vào bộ sưu tập của mình những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc nhất. Những tác phẩm vô giá của Picasso, Van Gogh, Monet và nhiều tác giả khác đã tô điểm cho những bức tường như là di sản của gia đình họ.

Người cha già góa vợ chiêm ngưỡng chúng với sự hài lòng khi đứa con duy nhất đã trở thành một nhà sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật giàu kinh nghiệm. Đôi mắt nhà nghề và óc kinh doanh sắc bén của cậu ấy khiến người cha luôn tự hào khi họ giao thiệp với những nhà sưu tầm tác phẩm nghệ thuật trên khắp thế giới.
Khi mùa đông đến, chiến tranh bao trùm khắp đất nước, và chàng trai trẻ đã ra trận để bảo vệ tổ quốc của mình. Chỉ sau một vài tuần, người cha nhận được một bức điện báo. Đứa con trai yêu quý của ông đã mất tích trong trận chiến. Người cha vô cùng nóng ruột chờ đợi tin tức của con, sợ rằng sẽ không bao giờ nhìn thấy con trai mình nữa. Vài ngày sau, nỗi lo sợ của ông thành sự thật. Chàng trai trẻ đã hy sinh khi áp tải một đồng đội bị thương. Vô cùng quẩn trí và cô đơn, ông phải đối mặt với một mùa Giáng sinh đau lòng và buồn bã sắp tới. Mùa lễ vui sẽ không đến nữa, mùa lễ mà hai cha con hằng trông đợi.

Vào buổi sáng Giáng sinh, một tiếng gõ cửa đánh thức người đàn ông đau khổ. Khi ông tiến về phía cửa, những kiệt tác trên tường như nhắc rằng con trai ông sẽ không về nữa. Ông mở cửa, một người lính chào ông với một gói giấy lớn trong tay. Anh ta tự giới thiệu rằng, “Tôi là bạn của con trai ông. Tôi là người được cứu sống khi cậu ấy hy sinh. Tôi có thể vào vài phút được không? Tôi có thứ này muốn cho ông xem”

Khi cả hai bắt đầu đi vào câu chuyện, người lính kể rằng con trai ông đã nói với mọi người – mà không nhắc đến cha mình, về tình yêu nghệ thuật của cậu ấy như thế nào. “Tôi là một họa sĩ,”- người lính nói, “và tôi muốn cho ông xem thứ này.” Khi người cha mở gói giấy, bên trong lộ ra bức chân dung của con trai ông. Mặc dù thế giới sẽ không bao giờ công nhận nó là tác phẩm của một thiên tài, nhưng bức tranh phác họa khuôn mặt người thanh niên với những chi tiết rất nổi bật.

Sau vài phút vô cùng xúc động, người cha cảm ơn người lính, hứa sẽ treo bức tranh phía trên lò sưởi. Vài giờ sau đó, khi người lính đi rồi, ông tiến hành công việc của mình. Đúng như lời ông hứa, bức tranh đã được treo phía trên lò sưởi, bỏ lại phía sau những bức tranh khác có trị giá hàng ngàn đôla. Sau đó, ông ngồi vào ghế và tận hưởng Giáng sinh bằng cách nhìn ngắm chăm chú vào món quà ông nhận được.

Trong những ngày và những tuần tiếp theo đó, ông nhận ra rằng mặc dù con trai ông không còn nữa, nhưng hình ảnh của cậu ấy vẫn mãi tồn tại bởi những điều mà ông cảm nhận được. Ông sớm hiểu rằng con trai ông đã cứu sống hàng chục chiến binh bị thương trước khi một viên đạn xuyên qua tim cậu ấy. Chính những câu chuyện cảm động về lòng dũng cảm của con trai mình luôn hiện hữu trong tâm trí, cộng với niềm tự hào và mãn nguyện đã giúp ông vơi đi nỗi đau mất con. Bức tranh của con trai ông sẽ sớm trở thành tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhất, làm lu mờ bất cứ sự quan tâm nào đến những tác phẩm được công bố ở các bảo tàng trên khắp thế giới. – Ông nói với những hàng xóm của mình rằng đó là món quà lớn nhất mà ông từng nhận được trong đời.

Mùa xuân năm sau, người đàn ông tuổi cao trở bệnh và qua đời. Thế giới nghệ thuật dường như mong chờ điều tiếp theo với bộ sưu tập tranh kia! Không ai quan tâm đến câu chuyện về người con trai của ông, nhưng để vinh danh ông; người ta đem bán đấu giá những bức tranh.

Theo nguyện vọng của ông, tất cả những tác phẩm nghệ thuật sẽ được bán đấu giá vào ngày lễ Giáng sinh, ngày mà ông đã nhận được món quà lớn nhất đời mình. Rồi ngày đó cũng đến và những nhà sưu tầm tác phẩm nghệ thuật từ khắp nơi đã tụ họp về để tham gia buổi bán đấu giá những bức tranh đặc sắc nhất trên thế giới. Những mơ ước sẽ được thỏa nguyện trong ngày này; vinh dự lớn sẽ được công nhận khi nhiều người tuyên bố “Tôi có bộ sưu tập tuyệt vời nhất.” Cuộc đấu giá bắt đầu với một bức tranh không nằm trong danh sách của bảo tàng. Đó là bức chân dung con trai ông. Người bán đấu giá công bố giá mở cửa. Cả khán phòng im lặng. “Ai sẽ đặt giá đầu 100$?”- ông hỏi. Một vài phút trôi qua. Không ai lên tiếng. Có tiếng nói từ phía sau khán phòng,”Ai mà quan tâm đến bức tranh này? Nó chỉ là một bức hình của một cậu con trai. Hãy quên nó đi và tiếp tục với những tác phẩm đáng giá hơn.” Có nhiều giọng nói đồng tình vang lên. “Không, chúng ta phải bán bức tranh đầu tiên này”- người bán đấu giá đáp. “Bây giờ, ai sẽ mua bức tranh này?”

Cuối cùng, một người bạn của ông lên tiếng “Tôi trả 10$ cho bức tranh này được chứ? Đó là tất cả số tiền tôi có. Tôi biết chàng trai này, vì vậy tôi muốn có nó”. “Có người trả 10$. Ai sẽ trả cao hơn?”- Người bán đấu giá nói. Sau nhiều phút im lặng, người bán đấu giá hô:”10$ lần thứ 1, 10$ lần thứ 2, hết giờ!”. Tiếng búa vang lên. Tiếng vỗ tay rộn lên khắp phòng và ai đó kêu lên,”Bây giờ chúng ta có thể xúc tiến và đấu giá những tác phẩm có giá trị tiếp theo rồi!” Người bán đấu giá nhìn mọi người trong khán phòng và tuyên bố buổi bán đấu giá kết thúc.

Sự hoài nghi bao phủ căn phòng. Ai đó đã lên tiếng và hỏi: “Kết thúc là thế nào? Chúng tôi không đến đây chỉ vì một bức chân dung của cậu con trai đó?. Thế tất cả những bức tranh khác thì sao? Chúng đáng giá hàng triệu đô la ở đây đấy! Tôi yêu cầu ông hãy giải thích những gì đang xảy ra ở đây!” Người bán đấu giá đáp: “Đơn giản thôi. Theo nguyện vọng của người cha, bất cứ ai có bức chân dung cậu con trai ông là có tất cả.”

Hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh đó mà xem? Cũng như những nhà sưu tầm tác phẩm nghệ thuật chứng kiến vào ngày Giáng sinh năm đó, cùng nhận ra thông điệp của bức tranh đó là tình yêu của người cha- một người cha với niềm tự hào vô bờ bến về người con trai đã mất của ông đã hy sinh tính mạng của mình để cứu sống những người khác. Và chính bởi tình yêu ấy mới là điều quý giá nhất của bức tranh này .

Nguyễn Thị Phương Thảo và Phạm thị Tuyết

THE PAINTING

Years ago, there was a very wealthy man who, with his devoted young son, shared a passion for art collecting. Together they traveled around the world, adding only the finest art treasures to their collection. Priceless works by Picasso, Van Gogh, Monet and many others adorned the walls of the family estate. The widowed, elder man looked on with satisfaction as his only child became an experienced art collector. The son’s trained eye and sharp business mind caused his father to beam with pride as they dealt with art collectors around the world.

As winter approached, war engulfed the nation, and the young man left to serve his country. After only a few short weeks, his father received a telegram. His beloved son was missing in action. The art collector anxiously awaited more news, fearing he would never see his son again. Within days, his fears were confirmed. The young man had died while rushing a fellow soldier to a medic. Distraught and lonely, the old man faced the upcoming Christmas holidays with anguish and sadness. The joy of the season, a season that he and his son had so looked forward to, would visit his house no longer.

On Christmas morning, a knock on the door awakened the depressed old man. As he walked to the door, the masterpieces of art on the walls only reminded him that his son was not coming home. As he opened the door, he was greeted by a soldier with a large package in his hand. He introduced himself to the man by saying, “I was a friend of your son. I was the one he was rescuing when he died. May I come in for a few moments? I have something to show you.”

As the two began to talk, the soldier told of how the man’s son had told everyone of his, not to mention his father’s, love of fine art. “I’m an artist,” said the soldier, “and I want to give you this.” As the old man unwrapped the package, the paper gave way to reveal a portrait of the man’s son. Though the world would never consider it the work of a genius, the painting featured the young man’s face in striking detail.

Overcome with emotion, the man thanked the soldier, promising to hang the picture above the fireplace. A few hours later, after the soldier had departed, the old man set about his task. True to his word, the painting went above the fireplace, pushing aside thousands of dollars of paintings. Then, the man sat in his chair and spent Christmas gazing at the gift he had been given.

During the days and weeks that followed, the man realized that even though his son was no longer with him, the boy’s life would live on because of those he had touched. He would soon learn that his son had rescued dozens of wounded soldiers before a bullet stilled his caring heart. As the stories of his son’s gallantry continued to reach him, fatherly pride and satisfaction began to ease the grief. The painting of his son soon became his most prized possession, far eclipsing any interest in the pieces for which museums around the world clamored. He told his neighbors it was the greatest gift he had ever received.

The following spring, the old man became ill and passed away. The art world was in anticipation! Unmindful of the story of the man’s only son, but in his honor; those paintings would be sold at an auction.

According to the will of the old man, all of the art works would be auctioned on Christmas day, the day he had received his greatest gift. The day soon arrived and art collectors from around the world gathered to bid on some of the world’s most spectacular paintings. Dreams would be fulfilled this day; greatness would be achieved as many would claim “I have the greatest collection.” The auction began with a painting that was not on any museum’s list. It was the painting of the man’s son. The auctioneer asked for an opening bid. The room was silent. “Who will open the bidding with $100?” he asked. Minutes passed. No one spoke. From the back of the room came, “Who cares about that painting? It’s just a picture of his son. Let’s forget it and go on to the good stuff.” More voices echoed in agreement. “No, we have to sell this one first,” replied the auctioneer. “Now, who will take the son?”

Finally, a friend of the old man spoke. “Will you take ten dollars for the painting? That’s all I have. I knew the boy, so I’d like to have it.” I have ten dollars. Will anyone go higher?” called the auctioneer. After more silence, the auctioneer said, “Going once, going twice. Gone.” The gavel fell. Cheers filled the room and someone exclaimed, “Now we can get on with it and bid on these treasures!” The auctioneer looked at the audience and announced the auction was over.

Stunned disbelief quieted the room. Someone spoke up and asked, “What do you mean it’s over? We didn’t come here for a picture of some old guy’s son. What about all of these paintings? There are millions of dollars of art here! I demand that you explain what’s going on here!” The auctioneer replied, “It’s very simple. According to the will of the father, whoever takes the son … gets it all.”

Puts things into perspective, doesn’t it? Just as those art collectors discovered on that Christmas day, the message is still the same-the love of a Father, a Father whose greatest joy came from His Son who went away and gave His life rescuing others. And because of that Father’s love, whoever takes the Son gets it all.

By Author unknown

Hãy Cho

Gửi đến các bạn một lời chúc Giáng sinh an hòa trong yêu thương và trao tặng vì “chính khi cho đi là khi ta nhận lại tặng vật lớn lao nhất.”

Ta kiếm sống bằng những gì ta có, nhưng chúng ta tạo cuộc đời bằng cách cho đi
-Albert Schweitzer

Đôi khi ánh sáng của chúng ta lụi đi, nhưng lại được thổi bùng lên bời một cuộc gặp gỡ với một người nào khác. Mỗi chúng ta biết ơn sâu sắc những ai đã nhen nhóm ngọn lửa nội tâm này.
-Albert Schweitzer

Giáng sinh, về nhiều phương diện, là thời điểm tuyệt vời nhất của năm. Những cơ hội gắn bó với gia đình, thư giãn, và tự soi lại mình, và tập trung lại vào các mặt chính của đức tin không dễ có ngày nay. Tuy nhiên, tuần này cho phép ta thời gian làm chỉ một việc: tập trung cho hiện tại.

Có một món quà tôi hằng nghĩ đến. Đi lại giữa các cửa hiệu và trung tâm mua sắm, tôi bị choáng ngợp bởi các hàng trưng bày đẹp đẽ. Tôi có quá nhiều quà để chọn lựa đến độ tệ liệt : Tôi sợ mua phải một món quà dở hay hay đắt nên kết cục tôi ra khỏi tiêm tay không. Thực trớ trêu, vào sáng Noel khi người nhà tôi quyết định mở những món quà mà cuối cùng tôi đã chọn cho họ, họ luôn dường như thích chúng. Điều này khẳng đinh hiểu biết từ đáy lòng tôi rằng chính ý nghĩ mới quan trọng.

Mùa này có thể đôi khi khiến ta mang đầu óc kiểu tiêu dùng. Để tránh được kiểu tư duy ấy, theo tôi ta cần chậm lại, đếm lại những ân phúc đời mình, và nghĩ về việc làm sao chúng ta có thể giúp người khác. Chúng ta biết ơn về những điều gì? Bằng cách nào chúng ta có thể làm cho ngày của một ai đó tươi đẹp hơn? Theo kinh nghiệm của tôi, nếu chúng ta giữ những ý nghĩ này trong đầu ta sẽ tìm được tặng vật phù hợp cho những người khác… thậm chí nếu quà tặng về vật chất vẫn không trọn vẹn.
Năm nay, để thực hành ý tưởng này, chúng tôi quyết định tặng cho các tổ chức từ thiện nhân danh ban hữu tôi và gia đình, thay vì tặng quà vật chất cho họ. Các quà tặng từ thiện cho ta cơ may đôc nhất để cám ơn những người yêu dấu của ta cũng như ủng hộ các tổ chức mà muốn nhìn thấy thế giới cải thiện.

Huỳnh Huệ dịch

We Make A Living By What We Get, But We Make A Life By What We Give..

By Matt

“Sometimes our light goes out, but is blown again into flame by an encounter with another human being. Each of us owes the deepest thanks to those who have rekindled this inner light.” -Albert Schweitzer

Christmas is, in many ways, the most wonderful time of the year. Opportunities to reconnect with family, to relax and reflect, and to refocus on the key aspects of faith are hard to come by these days. However, this week allows us the time to do just that: focus on the present.

There is another kind of “present” that I have been thinking about. Walking through the malls and stores, I feel a bit overwhelmed by the auspicious displays. I have so many gift choices that I get a little bit of shopper’s paralysis: I am so afraid of making a poor or expensive choice in a gift that I end up walking out empty handed. Ironically, when my family members open the gifts that I finally decided to choose for them on Christmas morning, they always seem to love them. It confirms what I know in my heart, that it truly is the thought that counts.

This season can, at times, put our minds into consumer mode. In order to snap out of that mindset, I believe we need to slow down, count our blessings, and think about how we can bless others. For what things are you thankful? How can you make another person’s day brighter? In my experience, if we keep those questions in mind we will find the perfect present for others . . . even if the physical gift is not perfect.

This year, in order to put this idea into practice, my wife and I decided to donate to charities on behalf of our friends and family members, rather than giving physical gifts to them. These charitable gifts give us the unique chance to thank our loved ones, as well as support causes that they would like to see improve in the world. We have not distributed any of the gifts, but I will let you know what they think!

Ông Già Nô-En Không Quên

    Tác giả : M.A. Haley

Bertie là một cậu bé rất ngoan. Cậu bé tử tế, biết vâng lời, thật thà, và không ích kỉ. Tuy nhiên, cậu có một khuyết điểm lớn – cậu rất hay quên.
Dù việc lặt vặt có quan trọng thế nào đi nữa , câu trả lời của cậu bé luôn luôn là, “Con quên.” Khi cậu được sai đem một bản ghi chú cho người thợ may, mẹ cậu sẽ tìm thấy bản ghi chú ấy trong túi cậu vào buổi tối. Nếu cậu bé được sai đến cửa hàng một cách vội vã, để mua vài món cho tiệc trà, cậu sẽ trở về muộn, chẳng có món hàng nào ngoài câu trả lời thường lệ.
Cha mẹ cậu bé đã bàn bạc kĩ vấn đề này, và quyết định phải làm gì đó để làm cho thằng nhỏ nhớ.
Giáng sinh đã gần kề, và Bertie đang bận lập danh sách những thứ mà ông già Nô-en phải mang cho cậu.

“ Ông già nô-en có thể quên một vài trong số những thứ đó, ” mẹ cậu nói.
” Ông ấy không thể, ” Bertie đáp lại ; ” vì con sẽ viết xe trượt tuyết, giầy trượt pa-tanh, trống, vĩ cầm, và hết mọi thứ lên tờ giấy này. Sau đó khi ông già Nô-en tới gần chiếc tất của con ông ấy sẽ tìm thấy bản danh sách. Ông ấy có thể bắt gặp nó và bỏ quà vào liền ngay sau khi đọc.”

Vào sáng Giáng sinh , Bertie dậy rất sớm để xem có gì trong vớ của mình. Mẹ cậu bé cố gắng tránh mặt cậu , vì bà ấy biết những gì ông già Nô-en đã làm.
Cuối cùng bà nghe thấy tiếng cậu bé đi chầm chậm vào phòng mình. Cậu từ từ mở cửa và tiến lại gần bà. Cậu bé giữ trong tay một danh sách còn dài hơn nhiều cái mà cậu đã viết ra. Cậu đặt nó vào tay mẹ, trong khi những giọt nước mắt thất vọng lăn dài từ mắt cậu.

” Mẹ hãy xem những gì ông già Nô-en để lai cho con; nhưng con nghĩ ông ấy có lẽ đã mang lại cho con thứ khác bên cạnh đó.”
Mẹ cậu mở cuộn giấy ra. Đó là một danh sách những việc lặt vặt Bertie đã được yêu cầu làm trong sáu tháng. Ở cuối tất cả được viết, bằng chữ in hoa đập vào mắt, ” CON QUÊN.”
Bertie khóc cả tiếng đồng hồ. Sau đó mẹ nói với cậu rằng cả nhà sắp đến nhà ông ngoại. Lần đầu tiên cậu bé thấy cây thông Nô – en. Có lẽ cái gì đó đang được chuẩn bị cho cậu ở đó.
Thật kỳ lạ với Bertie, nhưng trên cây của ông cậu bé tìm thấy mọi thứ mình đã viết trong danh sách. Vậy là cậu đã chữa khỏi thói quen xấu của mình ? Cũng không hẳn ngay lập tức ; nhưng khi mẹ cậu thấy cậu đặc biệt lơ là bà ấy sẽ nói, ” Nhớ đó, ông già Nô-en không quên.”

Thùy Trang và Anh Thư dịch

SANTA CLAUS DOES NOT FORGET
Story written by M.A. Haley

Bertie was a very good boy. He was kind, obedient, truthful, and unselfish. He had, however, one great fault,—he always forgot.
No matter how important the errand, his answer always was, “I forgot.” When he was sent with a note to the dress-maker his mother would find the note in his pocket at night. If he was sent to the store in a great hurry, to get something for tea, he would return late, without the article, but with his usual answer.

His father and mother talked the matter over, and decided that something must be done to make the little boy remember.
Christmas was near, and Bertie was busy making out a list of things which Santa Claus was to bring him.
“Santa Claus may forget some of those things,” said his mother.
“He cannot,” replied Bertie; “for I shall write sled, and skates, and drum, and violin, and all the things on this paper. Then when Santa Claus goes to my stocking he will find the list. He can see it and put the things in as fast as he reads.”
Christmas morning came, and Bertie was up at dawn to see what was in his stocking. His mother kept away from him as long as she could, for she knew what Santa Claus had done.

Finally she heard him coming with slow steps to her room. Slowly he opened the door and came towards her. He held in his hand a list very much longer than the one he had made out. He put it in his mother’s hand, while tears of disappointment fell from his eyes.
“See what Santa Claus left for me; but I think he might have given me one thing besides.”

His mother opened the roll. It was a list of all the errands Bertie had been asked to do for six months. At the end of all was written, in staring capitals, “I FORGOT.”
Bertie wept for an hour. Then his mother told him they were all going to grandpa’s. For the first time he would see a Christmas-tree. Perhaps something might be growing there for him.

It was very strange to Bertie, but on grandpa’s tree he found everything he had written on his list. Was he cured of his bad habit? Not all at once; but when his mother saw that he was particularly heedless she would say, “Remember, Santa Claus does not forget.”

Con người Giêsu

Chào các bạn,

Nhân mùa Giáng Sinh,  tức là mùa mừng sinh nhật Chúa Giêsu, mình muốn chia sẻ với các bạn một tí về con người hấp dẫn này.  Đây là một trong hai người có ảnh hưởng mạnh nhất trên tư duy của mình.  Người kia là Phật Thích Ca.  Các điều thú vị về Chúa Giêsu mình sắp chia sẻ ở đây là lấy trực tiếp từ Thánh Kinh, mặc dù có một số điều rất ít người để ý đến và nhắc đến.

Bài này đặc biết chú trọng đến khía cạnh con người của Chúa Giêsu.  Khía cạnh Con Chúa hay Chúa Con thì ta tạm gác qua một bên, vì  thực sự là chẳng có gì hấp dẫn để bàn.  Đã là Chúa rồi thì có 5 ngàn cánh tay, 10 ngàn con mắt, đi một giây 20 triệu năm ánh sáng, cũng chỉ là chuyện thường, chẳng có gì đáng ngạc nhiên. 🙂

Cuộc đời con người của Chúa Giêsu là một cuộc đời nhiều hấp lực.  Đó là cuộc đời của một người rất người, với đầy đủ những vết bùn trong gia phả, cùng những xúc cảm, khổ đau, và nước mắt của con người.  Và là một người rất gần gũi với những người ở tận đáy xã hội.

Từ phần này về sau, chúng ta chỉ dùng tên Giêsu trong bài, như cách dùng trong các bản Thánh Kinh nguyên thủy tiếng Hebrew và Hy Lạp, để nhấn mạnh tính cách “con người” của Chúa Giêsu.

Tổ tiên mờ ám

Phúc Âm của Matthew ghi lại chi tiết gốc gác của  Giêsu, bắt đầu từ Abraham, tổ phụ của dân Do Tháí, đến  Giêsu, 42 đời cả thảy.  (Matthew 1:1-17)  Trong gia phả của chế độ phụ hệ này, theo truyền thống Do Thái thời đó, chỉ có tên đàn ông, và đương nhiên là đàn ông Do Thái.  Thuở đó, và ngay cả đến ngày nay cũng vẫn còn khá đúng, người Do Thái chỉ lập gia đình với người Do Thái và bị cấm lấy người “ngoại đạo”, cho nên gia phả chỉ có người Do Thái là chuyện đương nhiên.  Tuy nhiên trong số 42 đời trong gia phả Giêsu, Matthew có kèm theo tên 4 người phụ nữ được xem là có ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Do Thái: Tamar, Rehab, Ruth và Bathsheba.  Điều thú vị về các phụ nữ này được giải thích trong phiên bản Thánh Kinh cho Sinh Viên (Student Bible), New International Version:

“Tổ Tiên Mờ Ám:  Gia phả Matthew ghi lại khác với nhiều gia phả Do Thái vì có ghi tên phụ nữ, mà đó lại là chọn lựa một nhóm phụ nữ đáng ngạc nhiên.  Tamar, không phải người Do Thái, lừa và quyến rũ bố chồng, rồi sinh ra cặp con song sinh ngoài hôn thú (Genesis 38);  Rahab, cũng không phải người Do Thái, đã từng là một gái làng chơi (Joshua 2:6); Ruth, không phải người Do Thái, lớn lên như là một người theo tà đạo (Ruth 1-4); và vợ của Uriah, bà Bathsheba, phạm tội ngoại tình với vua David (2 Samuel 11-12).   Nhiều người đàn ông trong gia phả cũng có dĩ vãng   đen tối; nói chung tổ tiên của  Giêsu biểu lộ rất rõ rằng Thượng đế có thể dùng đủ mọi loại người để làm việc.”

Con hoang

Thánh Kinh nói Mary, mẹ  Giêsu, thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần,  khi còn đồng trinh.  Và  Giêsu không phải là con thật của Joseph, chồng của Mary.  (Matthew 1:18-21).

Nói theo thói thường của trần thế, đó gọi là con hoang, không có cha.

Kẻ tị nạn từ lúc mới sinh ra

Vừa mới sinh ra, đã bị vua Do Thái là Herod tìm giết, vì Herod nghe nói đất Do Thái mới sinh ra một vị vua, và Herod không muốn ai tranh giành ngôi vua với mình.  Thế là Joseph và Mary phải khăn gói quả mướp, nửa đêm mang Giêsu chạy sang Ai Cập tị nạn.  (Matthew 2:13-15).

Nghèo và thất học

Joseph và Mary nghèo đến nỗi phải sinh  Giêsu trong chuồng gia súc và đặt con trên máng cỏ của gia súc.  (Luke 2:6-7).  Bố Joseph làm thợ mộc.  (Matthew 13:55). Và  Giêsu cũng theo bố làm nghề thợ mộc (Mark 6:3).  Chẳng ở đâu trong Thánh Kinh nói  Giêsu có học hành bằng cấp gì cả.

Ưu ái với người thất học,  người xấu , người tội lỗi, người thù địch

  • Trong số 12 người đệ tử thân cận nhất, 4 người đầu tiên là ngư phủ–Peter, Andrew. James, John (Mattew 4:18-22).  Matthew là người thu thuế.  (Matt 9:9-13)  Vào thời đó, người thu thuế còn thấp hơn cả gái làng chơi, vì bị xem là phản quốc.  Những người thu thuế làm việc cho chính quyền La Mã, tức là chính quyền thực dân đô hộ, thu thuế của dân Do Thái tức là đồng bào họ, giữ lại một phần huê hồng bỏ túi, phần còn lại chuyển cho nhà nước La Mã.
  • Giêsu ăn uống trong nhà của chàng thu thuế Matthew, với các người thu thuế khác và “ những người tội lỗi”.  Thánh Kinh chỉ nói “người tội lỗi” mà không nói rõ tội gì, nhưng ta có thể mường tượng được trộm cắp, lừa bịp, lưu manh, bỏ nhà thờ, chống Thượng đế, không theo lề luật đạo đức…  (Matthew 9:9-13).

Đây là những loại người mà người đứng đắn không được chung đụng, đến nỗi các lãnh đạo tôn giáo buộc tội  Giêsu là “ăn uống với những kẻ thu thuế và người tội lỗi”.  Và  Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, nhưng người bệnh cần.” (Matthew 9:12).

  • Một lần khác  Giêsu gặp một người phụ nữ Samaritan cạnh giếng nước và nói chuyện với bà ta.  Người Samaritan và người Do Thái không liên hệ nhau.  Người Do Thái xem người Samaritan là ngoại đạo tội lỗi và không nói chuyện với người Samaritan.  Hơn nữa, các vị thầy tôn giáo Do Thái thường không nói chuyện riêng với phụ nữ ngoài đường.  Vì vậy đệ tử  Giêsu ngạc nhiên khi thấy  Giêsu nói chuyện riêng với phụ nữ, mà lại là phụ nữ Samaritan .  (John 4:27)

Và bà này lại là một người có vấn đề rất lớn theo tiêu chuẩn thời đó, vì  Giêsu biết bà ta đã có đến 5 đời chồng, và hiện đang sống với một ông không phải là chồng!

Dù vậy  Giêsu vẫn ưu ái bà ta đên mức đứng giảng cho bà ta một lúc, rồi sau đó tiết lộ với và ta: “Ta là Đấng Cứu Thế [mà dân Do Thái đang mong đợi]” (John 4:26).   Đây là người duy nhất Giêsu nói câu đó, cho đến  khi bị đưa ra tòa.

  • Người La Mã, nhất là lính La Mã, được xem là kẻ thù của dân Do Thái.  Nhưng khi một sĩ quan La Mã đến nhờ  Giêsu cứu người nhà đang bị bệnh nặng, Giêsu liền chữa người đó.  (Matt 8:5-13)

  • Một người phụ nữ bị bắt về tội ngoại tình, phải bị xử tử bằng cách ném đá theo luật Do Thái.   Giêsu đã cứu bà ta bằng cách hỏi những người sửa soạn ném đá: “Ai là người không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên.”  Nghe câu hỏi, mọi người bỏ ra về.  (John 8-5-11)

Trọng phụ nữ

Vào thời mà phụ nữ bị coi thường,  Giêsu rất tôn trọng và ưu ái phụ nữ,  và xử với phụ nữ bình đẳng với đàn ông.  Điều này hầu như không thể có vào thời đó.

  • Khi một người đàn bà góa ở Nain khóc lóc vì con vừa chết, Giêsu thương tình và cứu con bà sống lại. (Luke 7:11-15).
  • Vào một ngày Sabbath, tức là ngày nghỉ hàng tuần dành riêng cho Thượng đế, mà ngày nay ta gọi là ngày Chúa Nhật, ngày không ai được phép làm việc gì cả,  Giêsu chữa bệnh khòm lưng cho một người phụ nữ đã bị bệnh đó 18 năm, ngay trong đền thờ Do thái giáo, trước mặt bao nhiêu giáo dân và giáo sĩ.  Đây là phạm luật Do Thái công khai trước mắt toàn thể mọi người. (Luke 13:10-17). (Vậy thì bị xử tử đóng đinh cũng là phải!).
  • Hai chị của  Lazarus, người đã chết và được Giêsu cứu sống lại, là Martha và Mary rất thân với Giêsu.  Khi Giêsu đến nhà thăm, Martha thì nấu nướng, nhưng Mary thì ngồi ngay dưới chân  Giêsu để nghe nói chuyện.   (John 11:5, Luke 10:38-39).
  • Chúng ta đã nói đến thái độ đặc biệt của  Giêsu với người phụ nữ Samaritan bên giếng nước bên trên.
  • Một người đàn bà bị bệnh xổ huyết 12 năm, sờ vào người  Giêsu và được Giêsu chữa lành, dù là với thời đó bà ta được xem là “không sạch” và không ai nên đụng bà ta hoặc cho bà ta đụng vào.  (Mark 5:22-34)
  • Tương tự như vậy,  Giêsu sờ vào xác đứa con gái của Jairus, được xem là “không sạch” vì là xác chết, để cứu cô bé sống lại.  (Mark 5:41).
  • Rất nhiều phụ nữ theo nghe  Giêsu giảng đạo và dùng tiền của họ để lo cho  Giêsu.  Trong số đó có   “Joanna vợ của  Cuza, quản gia của vua Herod; Susanna; và nhiều phụ nữ khác.” (Luke 8:3)
  • Khi  Giêsu bị bắt và bị hành hình, hầu hết môn đệ nam biến mất, nhưng một số phụ nữ đi theo cho đến nơi hành hình, tận chân thánh giá trên đồi Golgotha, gồm:

1. Mary Magdalene (theo phúc âm Matthew, Mark, and John)

2. Mary mẹ của James and Joses (phúc âm  Matthew and Mark)

3. Mẹ của các người con của Zebedee (phúc âm Matthew)

4. Salome (phúc âm Mark) – Nhiều học giả cho rằng Salome có lẽ là phụ nữ số 3, mẹ của các người con của Zebedee.

5. Mary, mẹ  Giêsu (phúc âm John)

6. Mary, vợ của Clophas (có lẽ là anh em của  Joseph, ba dượng của  Giêsu) (phúc âm của John)

7. Chị/em (không tên) của Mary, mẹ của  Giêsu  (phúc âm của John) – Nhiều học giả cho rằng đây có lẽ cũng là người số 6, vợ của Clophas.

8. “Người Môn Đệ Được Yêu Mến”, không tên, nhưng đa số người tin rằng đó chính là John (phúc âm John)

(Xin xem Who Was At The Cross?)

Tức là 7 người phụ nữ và một môn đệ nam.

  • Trong số các môn đệ nữ, đặc biệt nhất là Mary Magdalene, người đứng tên số một trong danh sách 8 người trên, ngày nay là nữ thánh trong giáo hội công giáo và chính thống giáo, với ngày 22 tháng 7 là ngày lễ thánh.  Đây là người phụ nữ nổi bật nhất trong số những người theo  Giêsu .

Mary Magdalene ngồi xem một môn đệ Giêsu tên Joseph tẩn liệm Giêsu vào mồ (Matthew 27:61).  Ba ngày sau, sáng chúa nhật, Mary Magdalene dẫn vài phụ nữ đến mộ để xức dầu cho Giêsu (Mark 16:2) và một thiên thần cho họ biết Giêsu đã sống lại (Mark 16:6).  Mary và các phụ nữ về kể lại với các đệ tử của Giêsu (Luke 24;10).   Sau đó Giêsu hiện ra, lần đầu tiên, với Mary Magdalene (John 20-14) và bảo nàng về báo cho các môn đệ khác.

Đây là một việc rất lạ thường, vì thời đó tiếng nói của đàn bà không có giá trị và đàn bà không được phép làm nhân chứng, nhưng  Giêsu  lại nhờ Mary làm nhân chứng việc mình sống lại với các đệ tử khác.

Các học giả nghiên cứu về Mary Magdalene cho thấy nhiều bằng chứng Mary là môn đệ rất quan trọng của  Giêsu, hơn tất cả các môn đệ khác, và cao hơn hay ít ra là cũng đồng hàng với đại đệ tử Phêrô.  Tuy nhiên, nhiều học giả cho rằng vài trăm năm sau khi Giêsu chết, giáo hội trọng nam đã làm một cuộc cách mạng đưa Mary và phụ nữ xuống hàng thứ yếu.  Xem Mary Magdalene cùa Susan Haskins

Trong các phúc âm thời giáo hội Thiên chúa giáo mới khai sinh, các “Phúc âm Gnostic” (Gnostic Gospels) đã bị giáo hội loại bỏ như là không chính thống.  Một trong những Phúc âm Gnostic là Phúc âm của Mary Magdalene.  Theo phúc âm này thì Mary Magdelene là môn đệ gần gũi và học được nhiều nhất từ  Giêsu, trên cả Phêrô. (Xem Phúc âm Mary Magdalene).

Nhiều tình cảm, dễ khóc

Khi Giêsu thấy hai bạn Mary và Martha, hai chị của Lazarus, và gia tộc, buồn khóc vì Lazarus đã chết, Giêsu khóc.  Và sau đó cứu sống Lazarus.  (John 11:35)

Khi nhìn Jerusalem và tiên đoán Jerusalem sẽ bị trừng phạt và phá rụi vì đã không chấp nhận mình, Giêsu khóc.  (Luke 19:41).

Trước giờ bị bắt, Giêsu cầu nguyện một mình trong vườn Gethsemane, muốn các đệ tử cùng thức với mình vì “thầy buồn đến mức có thể chết được” (Matthew 26:38), nhưng các đệ tử ngủ hết!  Giêsu buồn đến nỗi máu rỉ ra từ chân lông trên hai tay. (Luke 22:44)

Trước lúc tắt thở trên thập tự giá, Giêsu than lớn: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao người lại bỏ rơi con?” (“Eloi, Eloi,lama sabachthani?”) (Matthew 27:46)

Thường đến nơi thanh vắng cầu nguyện một mình

“Rất sớm vào buổi sáng, khi trời còn tối, Giêsu thức dậy, ra khỏi nhà và đến một nơi thanh vắng, cầu nguyện.  Simon và các bạn đi tìm, và khi họ tìm thấy Giêsu, họ la lên: ‘Mọi người đang đi tìm thầy!’” (Mark 1:35-37).

“Giêsu lùi vào nơi hoang dã cầu nguyện.”  (Luke 5:17)

Đêm trước ngày giảng Bài Giảng Trên Đồi, “Giêsu lên núi cầu nguyện, và liên tục cầu nguyện cả đêm với Thượng đế.”  (Luke 6:12)

Tình yêu là cốt tủy của lời giảng

Giêsu giảng:

  • “Yêu Chúa, Thượng đế của bạn, với cả trái tim, cả linh hồn, cả khối óc của bạn… Và yêu láng giềng của bạn như yêu chính bạn.”  Matthews 22:37-38.
  • “Yêu kẻ thù của bạn và cầu nguyện cho những người bắt bớ bạn, để bạn có thể là con của Cha ở trên trời.”  (Matthew 5:44-45).


Tha thứ

Trên thập giá, Giêsu cầu nguyện cho những kẻ hành hình mình, “Lạy cha, tha thứ cho họ, vì họ không biết họ làm gì.”  (Luke 23:33-34)

Con người của Giêsu là đó.

Một con người với tất cả những tâm tình yếu kém của con người.  Một con người rất người, và một tình yêu mênh mông vô tận, tự mang trên vai trọng trách làm  sạch mọi quả tim của nhân loại…

Với lời than cuối cùng vọng vang qua hơn 2 ngàn năm lịch sử:  “Chúa ơi, Chúa ơi, sao người lại bỏ rơi con?”

Đó là người mà mình cảm thấy rất gần gũi, rất gần hơn một thần linh.

TĐH

Lời nguyện Giáng Sinh của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII

Ôi Hài Nhi dịu ngot của Bethlehem

Hãy cho chúng con chia sẻ với cả con tim của chúng con
điều kỳ diệu thẳm sâu của Giáng Sinh.

Hãy đặt vào quả tim của mọi người niềm an bình
mà đôi khi họ đi tìm một cách tuyệt vọng
và chỉ có Ngài mới có thể cho họ.

Giúp họ hiểu nhau nhiều hơn,
và sống như anh chị em,
con cùng Cha.

Cho họ thấy điều đẹp, điều thánh, điều tinh khiết của Ngài.

Đánh thức trong lòng họ
tình yêu và lòng biết ơn về thiện tâm vô tận của Ngài.

Hãy nối kết họ với nhau trong tình yêu của Ngài.

Và cho chúng con an bình thiên đàng của Ngài.

Amen

(Trần Đình Hoành dịch)

.

Christmas Prayer of Pope John XXIII

O sweet Child of Bethlehem,
grant that we may share with all our hearts
in this profound mystery of Christmas.
Put into the hearts of men and women this peace
for which they sometimes seek so desperately
and which you alone can give to them.
Help them to know one another better,
and to live as brothers and sisters,
children of the same Father.
Reveal to them also your beauty, holiness and purity.
Awaken in their hearts
love and gratitude for your infinite goodness.
Join them all together in your love.
And give us your heavenly peace. Amen.

Pope John XXIII

Giêsu trong Thánh Kinh Koran của Hồi giáo

Chào các bạn,

Với lịch sử đánh nhau đẫm máu giữa Hồi Giáo và Thiên chúa giáo, và các cuộc thánh chiến Hồi giáo đang xảy ra trên thế giới ngày nay, đa số người trên thế giới không biết là hai tôn giáo này là anh em. Đó là một đại họa cho hòa bình thế giới, tạo ra bởi chẳng mấy ai chịu đọc cả Thánh Kinh và Kinh Koran.

Nhân dịp Giáng Sinh, chúng ta nên suy tư về thảm trạng này một tí, và nhớ rằng chiến tranh Hồi giáo trên thế giới ngày nay sẽ không chấm dứt cho đến khi có sự đối thoại anh em giữa khối Hồi giáo và khối Thiên chúa giáo. Và đối thoại đó khộng có nghĩa là các chính trị gia chơi trò chính trị với nhau quanh bàn tròn, mà là sự hiểu biết và tương kính giữa các dân tộc của hai khối.

Kinh Koran gọi Giêsu (Eesa trong tiếng Ả-rập) là Messiah (Đấng Cứu Thế), cùng danh xưng với Messiah Muhammad, giáo chủ Hồi giáo. Theo Kinh Koran, Giêsu là một trong những tiên tri lớn nhất của Thượng đế.

Bản Kinh Koran tiếng Anh tại website Hồi giáo http://islamworld.net cho thấy Kinh Koran nhắc đích danh tên Jesus (Giêsu) tổng cộng 28 lần, không phải chỉ một hai lần.

Và website Thiên chúa giáo http://www.ways-of-christ.net/topics/islam.htm nói những dòng sau đây về Giêsu trong Kinh Koran của Hồi giáo:

Giêsu Kitô trong Kinh Koran

Kinh Koran chấp nhận Giêsu là một tiên tri, và là người truyền tin của Thượng Đế, và là “Lời” Thượng đế, và là “thánh linh của Thượng đế”, được tạo ra như Adam. Các điều này còn nhiều hơn các điều được một số các nhà thần học Thiên chúa giáo ngày nay chấp nhận, vì các nhà thần học này chỉ xem Giêsu như là một nhà cải cách xã hội.

Duy chỉ có điều Giêsu là Con Thượng Đế – như người Thiên chúa giáo thời Muhammad tưởng tượng một cách rất rõ ràng về thể xác – trong tín điều Một Chúa Ba Ngôi của Thiên Chúa Giáo, là không được Kinh Koran chấp nhận.

Theo Kinh Koran, Giêsu có nói đến việc Ngài sẽ sống lại, nhưng có lẽ đó là Kinh Koran nói về việc Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai trong Ngày Phán Xét, khi tất cả mọi tín đồ đều sống lại, như được nhắc đến thường xuyên trong Kinh Koran. Kinh Koran nói là Giêsu đã được đưa về với Thượng đế khi còn sống. Khác với niềm tin của tín đồ Thiên chúa giáo là Giêsu đã chết, sau đó sống lại, và về trời với Thượng đế.

Cả Kinh Koran và Thánh Kinh đều đồng ý là có Ngày Phán Xét khi tất cả tín đồ được sống lại và Giêsu sẽ đến để phán xét.“

(TĐH dịch và tóm lược)

Nói chung là chỉ với vài tí ti khác biệt đó, chúng ta đã có bao nhiêu cuộc chiến đẫm máu trong vòng mấy trăm năm.

Sự điên rồ đã đến, đang đến, và sẽ tiếp tục đến, nếu người ta thích mặc áo tôn giáo, nhưng không nghe lời dạy của chính người mình gọi là thầy, là Chúa: “Hãy yêu cả kẻ thù của con.”

Thế giới của chúng ta đang đối diện với những thảm họa chiến tranh lớn. Và những khủng hoảng về môi trường, khí hậu, tài nguyên thiên, và những bất bình đẳng giàu nghèo quá lớn trên thế giới, sẽ làm cho những cuộc chiến tranh chấp tôn giáo, tranh chấp văn hóa, và tranh chấp kinh tế, có cơ hội phát triển dữ dội hơn.

Hãy suy niệm về những điều này, và hiệp lòng cầu nguyện cho sự mở rộng của đầu óc và trái tim con người, và cho hòa bình thế giới.

Bình an của Thượng đế ở cùng tất cả chúng ta.

Mến,
Hoành

Lời nguyện Giáng Sinh

Hỡi Chúa Hài Đồng,

Tạ ơn Người đã đến
và sống giữa chúng con
để sẻ chia với chúng con nhân tính của chúng con
và an bình của Người.
Hãy ban bình an cho chúng con.
Hãy làm sạch quả tim của chúng con.
Làm sạch trí óc của chúng con.
Làm sạch linh hồn của chúng con.
Làm sạch tâm linh của chúng con.
Hãy làm lành quả tim của chúng con.
Làm lành trí óc của chúng con.
Làm lành linh hồn của chúng con.
Làm lành tâm linh của chúng con.
Hãy xua khốn khổ đi khỏi thế giới này,
khỏi hành tinh của chúng con, khỏi quả tim của chúng con.
Hãy mang chúng con vào tình yêu vô biên của Người.
Hãy nắm các quả tim của chúng con trong tay Người
và ban phúc cho chúng với bình an vô tận của Người.
Amen

Trần Đình Hoành (nguyên tác Anh ngữ, và Việt dịch)


Dear little Jesus,

Thank you for coming
and living among us
to share with us our humanity
and your peace.
Grant us peace.
Cleanse our hearts.
Cleanse our minds.
Cleanse our souls.
Cleanse our spirits.
Heal our hearts.
Heal our minds.
Heal our souls.
Heal our spirits.
Drive miseries off this world,
off our planet, off our hearts.
Bring us all into your infinite love.
Hold our hearts in your hands
and bless them with your everlasting peace.
Amen

Lời nguyện cho tạo mới

Mong bầu trời được làm sạch

Mong nước được làm sạch

Mong mặt đất được làm sạch

Mong trái tim của chúng con được làm sạch

Mong trí óc của chúng con được làm sạch

và do đó được tạo mới.

AMEN.

~Marianne Williamson

Nguyễn Minh Hiển dịch

May the sky be cleansed

May the water be cleaned

May the ground be cleansed

May our hearts be cleansed

May our minds be cleansed

and thus made new.

Amen

Ông Tàu Vui Tính

Ai đi trong các Phố Tàu ở Mỹ đều thấy ảnh tượng một ông mập mang một bao vải. Thương nhân Trung Hoa gọi ông ấy là Ông Tàu Vui Tính hay Ông Phật Cười.

Ông Hotei này sống thời nhà Đường. Ông chẳng muốn ai gọi mình là thiền sư hoặc tụ tập học trò đông đúc quanh mình. Thay vì vậy, ông đi đọc đường phố với một bao lớn trong đó ông mang các món quà như kẹo, trái cây, bánh ngọt. Đây là quà ông cho các em bé thường chơi đùa với ông. Ông tạo ra lớp vườn trẻ trên đường phố.

Lúc nào gặp một thiền nhân ông cũng xòe tay và nói: “Cho tôi một xu.”

Có một lần ông đang sửa soạn chơi/làm-việc, một thiền sư khác đi ngang và hỏi: “Yếu tính của thiền là gì?”

Hotei vất ngay bao vải xuống đất, trả lời thầm lặng.

“Vậy,” vị thiền sư hỏi tiếp, “thế nào là đạt được Thiền?”

Ông Tàu Vui Tính lập tức xách bao mang lên vai và đi tiếp.
.

Bình:

• Hotei chính là Phật Di Lặc, và có nhiều tên khác nhau như Phật Mập, Phật Cười, Phật Vui, Phật Tình Yêu, Phật Phát Tài…

Theo kinh sách thì Phật Di Lặc là Phật tương lai, Phật cuối cùng của thế giới ta bà này, có lẽ phải khoảng 30 ngàn năm nữa mới đến.

Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian thì Bố Đại Hòa Thượng thời nhà Đường là hóa thân của Phật Di Lặc, như trong truyện này.

• Yếu tính của Thiền là gì?

Là không vướng mắc, không vướng bận, không chấp. Như Hotei vất bao xuống đất.

• Thế nào là đạt được Thiền?

Là sống, là làm mọi điều mình vẫn làm thường ngày, với tâm không vướng mắc. Như Hotei mang bao quà đi chơi/dạy con nít.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Happy Chinaman

Anyone walking about Chinatowns in America will observe statues of a stout fellow carrying a linen sack. Chinese merchants call him Happy Chinaman or Laughing Buddha.

This Hotei lived in the T’ang dynasty. He had no desire to call himself a Zen master or to gather many disciples around him. Instead he walked the streets with a big sack into which he would put gifts of candy, fruit, or doughnuts. These he would give to children who gathered around him in play. He established a kindergarten of the streets.

Whenever he met a Zen devotee he would extend his hand and say: “Give me one penny.”

Once as he was about to play-work another Zen master happened along and inquired: “What is the significance of Zen?”

Hotei immediately plopped his sack down on the ground in silent answer.

“Then,” asked the other, “what is the actualization of Zen?”

At once the Happy Chinaman swung the sack over his shoulder and continued on his way.

#12

Không trộm được mặt trăng

Thiền sư Ryokan sống cuộc đời đơn giản nhất trong một căn chòi nhỏ dưới chân núi. Buổi tối nọ một tên trộm vào chòi chỉ để khám phá ra là chẳng có gì trong đó để trộm.

Ryokan trở về, bắt gặp tên trộm, “Có lẽ anh đã đi một quãng đường dài để thăm tôi,” thiền sư nói với tên trộm, “và anh không nên về không. Vậy hãy nhận áo quần của tôi làm quà tặng.”

Tên trộm sửng sốt. Hắn nhận áo quần và lẩn đi.

Ryokan ngồi trần truồng, ngắm trăng. “Tội nghiệp,” thiền sư nghĩ thầm, “Ước gì mình có thể cho anh ta mặt trăng đẹp đẽ này.”

Bình:

• Gặp trộm thì la hét, đánh đập, chưởi bới. Đó là phản ứng của đại đa số người. Đại đa số được “lập trình” như thế, và các phản ứng như vậy chỉ là lập trình máy móc như robot. “Phản ứng” là bị động. “Phản ứng theo lập trình” là nô lệ của lập trình.

Thiền sư hoàn toàn chủ động tâm mình. Xử với mọi người như khách quý, dù hắn là ai. Đó là một tâm thức hoàn toàn tự do, hoàn toàn do chính mình làm chủ.

Thiền sư cũng chẳng buồn hỏi “Tại sao anh làm thế?” để nghe giải thích hợp lý như là “Con tôi đang bị bệnh, cần tiền mua thuốc.” Mọi người là khách quý của thiền sư, thế thôi—không điều kiện, không ràng buộc. Một tâm thức hoàn toàn tự do.

• Cũng như vị linh mục trong Les Miserables của Victor Hugo, dùng tình yêu và ân cần mà xử với kẻ trộm, có thể làm cho người đó sửng sốt đến độ sẽ không muốn làm sai nữa và chỉ muốn làm điều thiện.

• Còn cái đáng giá hơn cả bộ áo quần của thiền sư cả muôn nghìn lần—cái đẹp hiền dịu của ánh trăng và những phút giây hạnh phút nhìn ngắm nó. Đó mới là quà quý để tặng khách. Nhưng đương nhiên là không được.

• Thực ra, anh trộm cũng đã có mặt trăng rồi, và cũng đã có thể ngắm trăng sung sướng rồi. Nhưng nếu anh không biết ngắm trăng thì đành chịu. Người khác không thể cho anh mặt trăng và sự ngắm trăng.

• Mặt trăng là biểu tượng của tâm tĩnh lặng, tâm trong sáng, tâm giác ngộ, tâm Phật—ai cũng đã có hết rồi. Thấy được hay không, hưởng nó được hay không, là do chính mình. Chẳng ai có thể giúp mình làm được điều đó.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

The Moon Cannot Be Stolen

Ryokan, a Zen master, lived the simplest kind of life in a little hut at the foot of a mountain. One evening a thief visited the hut only to discover there was nothing in it to steal.

Ryokan returned and caught him. “You may have come a long way to visit me,” he told the prowler, “and you shoud not return emptyhanded. Please take my clothes as a gift.”

The thief was bewildered. He took the clothes and slunk away.

Ryokan sat naked, watching the moon. “Poor fellow, ” he mused, “I wish I could give him this beautiful moon.”

#9

Đạo khả đạo phi thường đạo

Chào các bạn,

Ai đó đã nói “Một phương pháp bất di bất dịch thì không phải là một phương pháp.” Bất kỳ người nghệ sĩ nào cũng hiểu được câu này, dù đó là ca sĩ, văn sĩ, họa sĩ, thi sĩ hay chi chi sĩ… Đó nghĩa là, tất cả mọi định nghĩa, mọi công thức, mọi phương pháp, mọi lề luật, cứng ngắc, về bất cứ điều gì trên đời, đều không dùng được cho người bậc thầy, bậc “sĩ”. Chúng chỉ có thể dùng cho môn sinh nhập môn, hàng “sinh” mà thôi.

Lão tử gói ghém đời sống và nghệ thuật sống như thế trong hai câu đầu tiên của Đạo Đức Kinh, vang vọng qua hơn 25 thế kỷ của triết lý‎ Đông phương:

Đạo khả đạo phi thường đạo
Danh khả danh phi thường danh

Tạm dịch:

Đạo có thể coi là đạo thì không là đạo vĩnh viễn
Tên có thể gọi là tên thì không là tên vĩnh viễn

“Đạo” của Lão tử là nguyên lý tối hậu, Sự Thật tối hậu, của vũ trụ–tương tự như “Không” của nhà Phật, hay Thượng đế của Thiên chúa giáo.

Đạo mà có thể nói rõ ra được Đạo là gì, thì Đạo không còn là Đạo nữa. Cũng như nếu ta có tả rõ được Thượng đế thế nào thì không còn là Thượng đế nữa, hoặc nói được Không là gì thì Không không là Không nữa.

Nguyên lý vận hành vũ trụ là thế, cho nên mọi sự trên đời cũng đều là thế. Ví dụ “tên” Hằng. Hằng là một cô gái ai cũng biết. Nhưng hỏi mọi người biết Hằng, ghi xuống giấy Hằng thế nào, thì mỗi người sẽ có một danh sách các đặc tính của Hằng, và chẳng danh sách nào giống danh sách nào. Có những danh sách còn chỏi nhau dữ dội nữa là khác—như là thiên thần một bên và bên kia là phù thủy.

Tức là cùng người tên Hằng, nhưng ý ‎ nghĩa đối với mỗi người thì khác nhau. Cho nên nếu ta dùng một danh sách “chuẩn” kể ra mọi thứ về Hằng và nói “đây là Hằng”, thì tất nhiên sẽ có người đọc và nói “Đây không phải là cô Hằng tôi biết.” Tức là, “Tên có thể gọi là tên thì không là tên vĩnh viễn.”

Tên Hằng có thể tạm dùng được với mọi người mà không gây tranh cãi nếu ta cứ để chữ Hằng mù mờ như thế, đừng định nghĩa nó quá rõ, và hiểu nó theo nghĩa tương đối thôi—tức là mỗi người hiểu khác một tí, chẳng ai đúng chẳng ai sai.

Đó là: Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh.

Nhưng, mấy câu tiếng Hán rắc rối hai ngàn năm trăm tuổi này có liên hệ gì đến tư duy tích cực của chúng ta?

Thưa, có rất nhiều: Chúng muốn nói, Đừng lệ thuộc vào ngôn từ, công thức, luật lệ cứng ngắc để phán đoán và chia cách nhau.

Tất cả các thứ đó đều không chính xác, và dùng chúng cứng ngắc là phản lại nguyên lý sống, phản lại “Đạo” sống.

Ví dụ: Thằng này Đảng viên đừng chơi vói nó. Anh kia Công giáo, nguy hiểm. Ông này là thiền sư, tin được. Tên này chống cộng, phản động nguy hiểm. Tên nầy thân Mỹ, không tin được. Tên này theo Tàu, đáng nghi.

Hay là: Chuyện này để nhà nước lo. Dân không nên bàn chuyện này. Vấn đề này nhậy cảm không bao giờ nên nói.

Nếu chúng ta sống với các nhãn hiệu và công thức như thế, dòng sông sáng tạo của chúng ta sẽ tuôn chảy tươi mát như sa mạc Sahara. Và chúng ta sẽ chia năm xẻ bảy về những vấn đề lớn của xã hội, cũng như trong liên hệ giữa các cá nhân chúng ta.

Sống lệ thuộc vào “danh”, lệ thuộc vào nhãn hiệu như thế , nhà Phật gọi là “chấp vào danh sắc”, tức là ôm cứng vào tên và hình bên ngoài.

Và trong Thánh Kinh Thiên chúa giáo có chuyện này. Bà nọ bị bắt về tội ngoại tình, theo luật Do Thái thời đó, bà ta phải bị tử hình bằng ném đá (Ngày nay vài nơi theo Hồi giáo trên thế giới vẫn còn luật ném đá này. Somali mới tử hình bằng ném đá một phụ nữ bị tố cáo ngoại tình, tháng 11/2009 vừa rồi). Các giáo sĩ Do Thái, có lẽ muốn gài Chúa Giêsu vào tội phá luật, bèn hỏi, “Ngài nghĩ nên làm gì với bà này?” Sau một lúc yên lặng, Giêsu nói, “Ai là người không có tội trong số các vị, xin hãy ném viên đá đầu tiên.” Mọi người lần lượt bỏ đá ra về.

Chúng ta thấy mọi người hành xử dã man theo nhãn hiệu và công thức: Có tội, bị ném đá, ta vô tội ta ném đá. Nhưng nếu suy nghĩ sâu một tí vào tâm ta, thì ta biết ta cũng có khối tội chẳng hơn gì ai cả, đâu có tốt lành gì hơn đâu mà kiêu căng hợm hĩnh, đáng để ném đá ai.

Nhãn hiệu, công thức, tự cao tự đại, cái tôi lớn… là những bức màn vô minh che tối tâm thức con người. Chúng ta phải vượt qua chúng.

Nói thế không có nghĩa là chúng ta bỏ hết ngôn từ, tên và công thức. Ngôn từ, tên và công thức làm nên cuộc đời. Chỉ là, ta cần uyển chuyển dùng chúng với một con tim khiêm tốn yêu ái và một tâm thức sáng láng. Chạy xe thì phải biết thắng, biết rồ ga. Nhưng khi nào thắng khi nào rồ ga, đó là nghệ thuật. Người lái giỏi, người lái dở, là ở đó.

Và đừng nên dùng suy tư của ta mà kết án người khác. Dùng lòng mình mà đo lòng người khác, hầu như là 100 lần thì sai hết 99 lần. Nếu có hai cách kết luận khác nhau về một người nào đó—một tốt một xấu– kết luận tốt về người đó thường là đúng hơn là kết luận xấu, vì kết luận tốt thường phù hợp với suy nghĩ sâu sắc trong lòng người đó hơn.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Từ Chuyện Cây Bàng Trong Sân Trường

Sân trường tháng muời hai luôn đặc biệt bởi những chiếc lá bàng. Cây bàng không biết từ lúc nào đã tự nhuộm mình thành đỏ ối như một ngọn đuốc khổng lồ, cứ thầm lặng cháy trong trời đông xám lạnh. Mỗi ngày, ngọn đuốc ấy lại hao mòn đi một ít sắc đỏ vì những chiếc lá rụng.

Tháng mười hai Tây Nguyên cũng đã bắt đầu mùa gió, nên vừa rời cành lá bàng đã được gió đón lấy, nâng trên đôi cánh của mình mà đưa đi tít xa. Có những chiếc lá không theo gió, chỉ chao nhẹ đáp xuống rồi nằm thảnh thơi trên mặt đất, làm nên một tấm thảm màu nâu đỏ, đẹp đến ngỡ ngàng.

Cô giáo dạy văn mê đắm lá bàng, cứ ngẩn người xuýt xoa không ngớt trước vẻ xao xác của sân trường mùa lá rụng. Rồi tiếc nuối hụt hẩng khi thấy học trò của mình quét sạch lá rụng…
Không chỉ quét lá rụng, học trò còn leo lên cây tuốt hết những chiếc lá đã chín màu nâu đỏ, tuốt cả những chiếc lá mới chỉ vương chút nâu vàng… Lá bàng bị cưỡng bức rụng ào ào xuống sân trường.
Rồi trong chốc lát, tất cả những chiếc lá như những mảnh màu ấm áp tuyệt đẹp, đã bị dồn hết vào trong bao tải. Học trò mang những bao lá bàng ra để ở một góc đường, xe rác sẽ đến và mang chúng đi…

Thầy giáo phụ trách cơ sở vật chất của trường không thích lá bàng rụng, không thích màu sắc quá chói gắt của lá bàng trong mùa đông, không thích sự bay tung, sự sóng soãi, sự rực cháy của nó trên sân trường. Sân trường đầy lá rụng, trông chẳng giống sân trường một chút nào, trông cứ luộm thuộm như một công viên hay một góc rừng… Thầy muốn sân trường phải thật sạch sẽ thật nghiêm trang như một ông giáo mặc veston trong ngày khai giảng!

Cho học sinh tuốt sạch lá bàng! Không để cho cây bàng tự do sống đời sống của nó!
Không để cho tụi học trò ngớ ngẩn dạo qua dạo lại trong sân trường, nhặt mấy chiếc lá đỏ, lật đi lật lại trên tay mà ngắm nghía, mà xuýt xoa!
Không để cho cô giáo dạy văn đang giảng bài chợt sững người nhìn chiếc lá bàng vừa bay vào lớp. Rồi nhặt chiếc lá mà liên hệ với học trò về sự hữu hạn của mỗi đời sống trong vô hạn của thời gian. Sự cần thiết phải nỗ lực của mỗi con người, để có thể đi qua cuộc đời một cách lương thiện, đoàng hoàng, đẹp đẽ. Như chiếc lá bàng đã sống trọn đời với màu xanh trên cành làm nên bóng mát, rồi chọn một cái chết đẹp, với màu sắc rực lên, cháy đến tận cùng, dâng hiến đến tận cùng cho mùa đông, làm nên một đốm lửa ấm áp sưởi ấm không gian lạnh lẽo trước khi tan biến vào cát bụi đất đai!

Cô giáo dạy văn nhớ bài thơ Mùa lá rụng của Ôn ga Bec gôn với lời đề dẫn: Mùa thu ở Matxcơva người ta treo những tấm biển trên các đại lộ với dòng chữ: Tránh đừng động vào cây mùa lá rụng… Và tiếc rằng, thầy giáo phụ trách cơ sở vật chất của trường, có thể không biết bài thơ đó. Không biết rằng ở nhiều nơi những chiếc lá vàng óng kia, đang được bảo vệ cẩn trọng như những báu vật.

Những đàn sếu bay qua. Sương mù và khói toả…
Matxcơva, lại đã thu rồi!
Bao khu vườn như lửa chói ngời
Vòm lá sẫm ánh vàng lên rực rỡ
Những tấm biển treo dọc theo đại lộ
Nhắc ai đi ngang dù đầy đủ lứa đôi
Nhắc cả những ai cô độc trên đời
“Tránh đừng động vào cây mùa lá rụng”



Bảo vệ từng chiếc lá cây trong mùa cây rụng lá, hoặc leo lên cây tuốt sạch hết lá vàng, hoặc bẻ đến kỳ hết những chùm trái bằng lăng khô khốc .. Đó không chỉ là những hành xử của con người với cây cỏ thiên nhiên. Đó còn là biểu hiện quan điểm của mỗi người về cái đẹp. Trong môi trường sư phạm, đó còn là quan điểm về vấn đề giáo dục cái chân, cái thiện, cái mỹ cho mỗi học sinh.

Nhưng làm sao có thể trách được người không biết. Mà vẻ đẹp kỳ diệu trong từng chiếc lá rụng, có phải ai cũng nhận biết hết cả đâu. Đâu phải ai cũng có thể tưởng tượng rằng ngày xưa, cái ngày xưa Thơ Mới đó, Xuân Diệu cũng đã từng choáng ngợp trước cây bàng lá đỏ mà viết:

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Những cây bàng trong sân trường giờ đã trơ trụi lá, nhưng vẫn đẹp một vẻ rất riêng. Cành nhánh trên thân cây khẳng khiu trông như những cánh tay dang rộng, phả lên bầu trời cái màu khói sương bãng lãng.

Rồi ít lâu sau, bàng sẽ nhú lộc. Những mầm non đỏ tươi đậu chi chít trên cành như minh chứng cho sự trẻ trung, cho sức sống cuồn cuộn rạo rực chảy tuôn sau lớp vỏ dày nứt nẻ.
Rồi lá bàng sẽ to ra dựng đứng như tai thỏ.
Rồi lá bàng sẽ nhanh chóng lớn nữa, xoè rộng, tạo nên một vòm bình yên với tầng tầng lớp lớp lá non xanh như ngọc.
Rồi đến lúc tiếng ve báo hè vang dậy, dưới những tán lá bàng sẽ có những cô cậu học trò ngồi học bài.. Họ hái chiếc lá bàng ghi vài câu thơ vào đó, có khi tặng bạn, có khi ngần ngại ép vào cuốn sách mang về…
.


Xã hội càng hiện đại, những khoảnh khắc xúc cảm lãng mạn như vậy, phải chăng càng cần thiết? Phải chăng nhờ vào đó, bao tâm hồn của thế hệ trẻ sẽ có cơ hội cân bằng trước những xơ cứng của máy móc, của thao tác nhấp chuột tìm bạn bè, tìm trò chơi, tìm thông tin trên net?
Cũng như vò trong tay một lá cỏ hăng hắc, nghe bên tai lảnh lót một tiếng chim, phải chăng là một cách di dưỡng tinh thần, để con người chúng ta bớt cằn cỗi với café uống liền, trà xanh chai nhựa, nước trái cây đóng lon, cùng bao nhiêu sản phẩm đóng hộp khác, nhan nhãn trong xã hội hiện thời?

Vì vậy, hạnh phúc thay cho những ngôi trường có khuôn viên rộng, có nhiều cỏ cây, có bóng mát, mùi hương và tiếng chim. Để thiên nhiên, bậc thầy kỳ diệu, dạy cho những học sinh, những tâm hồn bé bỏng tình yêu cái đẹp, cái thiện…
Học sinh sẽ tự nhận biết trong mỗi cành cây ngọn cỏ, bài học về sự cho đi và nhận được, sự có mặt và khuất lấp, sự mạnh mẽ vươn dậy của những tạo vật mỏng manh.

Học sinh sẽ tự nhận biết thời gian đi qua, bốn mùa đi qua, không chỉ trên những tờ lịch, những con số đếm ngày đếm tháng vô hồn, mà còn trong sự luân chuyển đâm chồi, ra hoa, rụng lá của cây cối..

Yêu cái đẹp cái thiện học sinh sẽ biết hành xử hướng tới cái đẹp cái thiện. Nâng niu một chiếc lá, học sinh sẽ biết nâng niu một số phận, Ngắm nhìn một bông hoa, học sinh sẽ biết trân trọng, ngưỡng mộ một tài năng. Đứng trước một chùm quả, học sinh sẽ phải suy ngẫm về việc cần nghiêm túc, cần nỗ lực trong học tập, trong lao động để có được những thành công thực sự trong đời…

Yêu cây cỏ trong sân trường, học sinh sẽ còn thấy gắn bó hơn với thầy cô, bè bạn, những giờ học, giờ chơi, những hồn nhiên của lứa tuổi mình đang sung sướng được sống.
Và từ lòng yêu cây cỏ, gia đình, mái trường, thầy cô bè bạn, những học sinh, những công dân tương lai của đất nước, sẽ ý thức rõ hơn, nuôi dưỡng sâu xa hơn trong lòng họ tình yêu tổ quốc.
Để khi tổ quốc cần, họ biết nỗ lực bảo vệ hoặc dựng xây. Bởi vì, như nhà văn I li a Ê ren bua đã viết: Lòng yêu tổ quốc bắt đầu từ lòng yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây trồng trước cửa nhà, yêu con đường nhỏ dẫn ra bờ sông, yêu mái nhà tranh, yêu đồng lúa chín…

Đinh Thị Như Thúy