Cung cấp năng lượng cho Trái đất – Chương 8: Năng lượng từ không khí, nước và đất (Phần 3)

Powering Planet Earth:
Energy Solutions for the Future

by Nicola Armaroli, Vincenzo Balzani, Nick Serpone 

Chapter 8: Energy from Air, Water, and Land – Chương 8: Năng lượng từ không khí, nước và đất (Phần 3) 

Nước – giữa Quá khứ và Tương lai

Bảy mươi năm trước, nước Ý được xem là quốc gia có nhận thức tốt về khía cạnh năng lượng – điện được sản xuất hầu hết từ các nguồn năng lượng tái tạo. Trong 15.5 GWh được tạo ra năm 1938 thì có khoảng 14.5 GWh được tạo ra từ một thuật ngữ được tuyên truyền khi đó là than trắng (white coal) – đó là cách gọi cho năng lượng thủy điện của quốc gia bắt nguồn từ các đập đặt ở núi Alps thuộc nước Ý và trên dãy Apennine. Điều này dẫn đến những người thiếu kinh nghiệm ủng hộ tự cung tự cấp vào những năm 1930 đề xuất những dự án lạ lùng (có thể hơi điên rồ) như cày điện. Tuy nhiên, thực tế vẫn là việc khai thác các thác nước để tạo ra năng lượng cơ học hoặc điện đã thực sự quan trọng cho khởi đầu công nghiệp hóa của Ý trong suốt thế kỷ 19 và 20. Ví dụ, sự phát triển của các nhà máy dệt ở phía bắc nước Ý và các nhà máy thép ở Terni (thuộc vùng Umbria) gắn bó mật thiết với sự sẵn có của nguồn năng lượng này.

Lượng điện tiêu thụ tại Ý ngày nay khoảng 300 000 GWh – gấp 20 lần so với năm 1938. Một số các “nhà máy điện than trắng” – từ những năm 1930 vẫn hoạt động. Các nguồn thủy lực hiện cung cấp khoảng 15% lượng điện tiêu thụ của Ý, một tỷ lệ khá cao cho các nước phát triển. Ngược lại, nguồn thủy điện chỉ chiếm khoảng 4% lượng tiêu thụ ở Đức, trong khi con số này là 7% ở Hoa Kỳ. Ở một số nước Nam Mỹ và Châu Phi, thủy điện vẫn là nguồn cung cấp điện chính – ở Brazil, tỷ lệ này lên tới hơn 80%.

Hiện có khoảng 800 000 con đập đang hoạt động trên toàn thế giới, một số thác trong đó khá cao (có 45 000 đập cao hơn 15 m). Thủy điện hiện cung cấp khoảng 2.3% năng lượng sơ cấp của thế giới và 16.2% cho năng lượng điện; điện sản xuất từ thủy điện đã vượt qua lượng điện sản xuất từ năng lượng hạt nhân (13.4%). Tuy nhiên, các nhà máy thủy điện chiếm khoảng 60% diện tích của toàn bộ cơ sở hạ tầng năng lượng toàn cầu. Các đập trên toàn thế giới chiếm khoảng 300 000 km2, tương đương diện tích của cả nước Ý. Bởi vậy nên thủy điện là một công nghệ rất xâm lấn.

Sau cuộc bùng nổ những năm 1960 và 1970, sự xây dựng các nhà máy thủy điện lớn giảm đi một cách đáng kể vì các vấn đề gây ra bởi công nghệ này nhiều hơn mong đợi. Việc xây dựng các đập gây ra những hậu quả đáng kể cho con người và môi trường – đẩy phần đông dân cư vào vùng lụt lội, những sự đào bới khổng lồ, những thay đổi vi khí hậu, nguy hiểm cho những người dân ở lưu vực, suy giảm sự đa dạng sinh học, tác động đến đời sống sinh vật hoang dã sông ngòi, lây lan các dịch bệnh như bệnh sốt rét truyền từ các loài bị bệnh trong các hồ chứa nước, sự giảm đáng kể lưu lượng dòng chảy trung bình của sông cùng với sự tăng lên của các vấn đề ô nhiễm, lắng cặn ở đáy các hồ chứa làm giảm dần sản lượng điện tạo ra và các chi phí bảo dưỡng cao, và làm giảm sự màu mỡ của đất đai ở các vùng hạ nguồn.

Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng ở các vùng nhiệt đới, các đập thủy điện có thể là nơi chủ yếu tạo ra khí nhà kính (CO2, CH4) do sự phân hủy các hợp chất hữu cơ trong nước ấm và tù đọng. Trong một số trường hợp, các tính toán chỉ ra rằng với lượng điện sản xuất tương đương các nhà máy nhiệt điện có thể còn ít nguy hại hơn xét về lượng tạo ra các khí gây biến đổi khí hậu.

Một số nhà máy thủy điện cũ hơn được xây dựng trong nửa đầu thế kỷ 20 trên thế giới đang bị dỡ bỏ. Đây là một công việc phức tạp và tốn kém, nhưng thực sự cần thiết vì những lý do an toàn và phục hồi môi trường. Trong vài năm gần đây, tốc độ loại bỏ các nhà máy thủy điện lớn ở Mỹ đã vượt qua tốc độ xây dựng những nhà máy mới.

Năng lượng từ các thác nước được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi được ước tính là hơn 70% tiềm năng có thể khai thác đã được vận hành. Ở Châu Phi và Châu Á, khai thác thủy điện ở mức khoảng 10-25%, và không ngạc nhiên, khi ở các quốc gia này, chúng ta vẫn thấy một vài dự án xây dựng các con đập lớn mới đang được thực hiện.

Trong số này, nổi tiếng nhất là Đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) trên sông Dương Tử (Yangtze River) của Trung Quốc, dự án khổng lồ cung cấp cho quốc gia Châu Á rộng lớn này với công suất điện 22 500 MW (lớn hơn tổng công suất của tất cả các nhà máy ở Áo cộng lại).

Để hiện thực hóa con đập khổng lồ này cần đào một vùng hồ chứa dài khoảng 600 km và rộng 2 km, phải dỡ bỏ không dưới 23 thị trấn, di dời 1.3 triệu người, và quét sạch các khu vực khảo cổ rộng lớn. Với dự án này, các nhà chức trách Trung Quốc mong đợi kiểm soát được lụt lội ảnh hưởng tới lưu vực sông hàng năm.

Tuy nhiên, ảnh hưởng môi trường đáng lo ngại của dự án này đã thể hiện rõ ràng theo nhiều phương diện khác nhau – ví dụ, sạt lở đất. Các nhà chức trách Trung Quốc hiện nay đang tích cực tham gia vào việc ngăn chặn một dự án quan trọng mang tính biểu tượng như đập trên sông Dương Tử không trở thành thảm họa sinh thái và kinh tế, chưa kể đến hình ảnh và danh tiếng của Trung Quốc trên thế giới.

Không may là, sự tiếp cận để xây dựng những dự án khổng lồ đã không chú ý đầy đủ tới các ảnh hưởng tiêu cực có thể có tới môi trường. Các dự án quy mô lớn đang lan sang Châu Phi, nơi mà các công ty Trung Quốc thu được những lợi nhuận tài chính khổng lồ trong khi hỗ trợ các bộ máy chính trị chẳng mảy may quan tâm tới các vấn đề môi trường và quyền con người. Tốc độ phát triển mạnh của các nhà máy thủy điện cũng đã xảy ra ở phương Tây, phục vụ cho nhu cầu bùng nổ kinh tế sau chiến tranh. Những xây dựng lớn như vậy đã để lại những hậu quả tai hại sau đó.

Vào buổi tối ngày 9 tháng 10 năm 1963, sau các vận hành thử nghiệm của đập thủy điện Vajont, gần Longarone (thuộc tỉnh Belluno, Ý), một vụ sạt lở đất với khoảng 30 triệu m3 nước và bùn từ núi Toc gần đó đã quét qua lưu vực sông Piave, làm gần 2000 người gặp nạn. Thảm kịch to lớn và có thể ngăn chặn được này nên được coi như một lời cảnh báo ngàn đời tới con người không nên chỉ xem trọng tăng trưởng kinh tế tham lam một cách điên cuồng mà lờ đi những quy luật của tự nhiên

Tuy nhiên, khi đối mặt với nhiều vấn đề như vậy, chúng ta cũng phải cần ghi nhận rằng năng lượng thủy điện có nhiều công trạng. Trước hết, đây là một công nghệ tương đối đơn giản và khả thi về mặt kinh tế. Mặc dù thực tế thời gian xây dựng dài và cần đầu tư lớn, chi phí sản xuất điện theo cách này vẫn là thấp nhất từ trước đến nay. Các con đập là một cách lý tưởng để lưu giữ năng lượng cho các hồ chứa nước có thể được nạp lại trong những giờ ban đêm sử dụng lượng điện dư thừa thường có mức chi phí thấp và có thể trữ đủ nước để bắt đầu vận hành cho ngày tiếp theo, và chỉ trong vài giây trong những thời điểm cao điểm hàng ngày cho nhu cầu điện.

Ngoài ra, các đập thủy điện thường không chỉ được sử dụng để sản xuất điện, mà còn để cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu thủy lợi. Hơn nữa, các hồ chứa này còn là một công cụ hữu ích để điều hòa nguồn nước đặc biệt là vào thời kỳ hạn hán hoặc mưa nhiều.

Ở quy mô toàn cầu, không nghi ngờ rằng việc phát triển thủy điện đã đóng góp một cách thích hợp vào việc ngăn chặn thải ra các chất ô nhiễm và khí nhà kính vào khí quyển. Nếu năng lượng thu được từ thủy điện hiện nay được tạo ra từ các nhà máy nhiệt điện, một lượng tăng hàng năm đáng kể cacbon (+15%) và lưu huỳnh (+35%) sẽ được thải vào không khí.

Triển vọng cho việc mở rộng các nhà máy thủy điện ngày nay được tập trung vào quy mô nhỏ là đẹp*, đó là những nhà máy dưới 10 MW, có khi chỉ vài kW, để có thể khai thác dòng chảy nhỏ nhưng ổn định. Khả năng này không chỉ được quan tâm ở các nước giàu, nơi mà khó để tìm được bất kỳ nơi nào đủ lớn để xây dựng, mà còn ở cả các vùng nông thôn xa xôi không được kết nối với mạng lưới điện ở các nước đang phát triển. Hiện nay, nước Ý sản xuất 2600 MW từ các nhà máy thủy điện nhỏ hơn 10 MW.

Tóm lại, năng lượng từ nước chắc chắn có thể lưu trữ được, và do đó đây là một lựa chọn hấp dẫn để hỗ trợ và bổ sung cho các công nghệ tái tạo sản xuất ra năng lượng một cách không liên tục như gió và các thiết bị quang điện.

Hết phần 3 – Chương 8 (còn tiếp)

Người dịch: Đỗ Thị Diệu Linh

Biên tập: Đào Thu Hằng & Phạm Thu Hường

 

Chú thích của người dịch:

* Nhỏ là đẹp: Small is beautiful – Tên một cuốn sách của của nhà kinh tế học người Anh (E. F. Schumacher_xuất bản lần đầu năm 1973, có thể được download ở link sau – Small Is Beautiful: A Study of Economics As If People Mattered).

Một số câu trích dẫn trong cuốn sách:

– “Man is small, and, therefore, small is beautiful.”
Con người là nhỏ, và do đó, nhỏ là đẹp.

– “The most striking thing about modern industry is that it requires so much and accomplishes so little. Modern industry seems to be inefficient to a degree that surpasses one’s ordinary powers of imagination. Its inefficiency therefore remains unnoticed. Wisdom demands a new orientation of science and technology towards the organic, the gentle, the non-violent, the elegant and beautiful.”

Điều đáng kinh ngạc nhất về ngành công nghiệp hiện đại là đòi hỏi quá nhiều và hoàn thành quá ít. Ngành công nghiệp hiện đại có vẻ không hiệu quả ở một mức độ vượt quá trí tưởng tượng của một người bình thường. Bởi vậy mà sự thiếu hiệu quả đó vẫn chưa được chú ý. Trí tuệ khôn ngoan đòi hỏi một định hướng mới của khoa học và công nghệ theo hướng hữu cơ, nhẹ nhàng, bất bạo động, trang nhã và đẹp đẽ.

 

© copyright Zanichelli and Wiley-VCH

Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.

3 thoughts on “Cung cấp năng lượng cho Trái đất – Chương 8: Năng lượng từ không khí, nước và đất (Phần 3)”

  1. Cảm ơn Thu Hương, những bài báo em gửi là những tư liệu quý và thiết thực để có đánh giá khách quan chính xác hơn về bức tranh năng lượng của thế giới và Việt Nam, hi vọng mỗi người đều có thể trang bị đủ kiến thức về năng lượng để có thể đóng góp vào hướng chuyển dịch công nghệ, phát triển bền vững hơn.

    Chị H

    Like

  2. Em thấy vấn đề thuỷ điện ở Việt Nam quả là vấn đề ám ảnh trong mùa mưa lũ.

    Gần như năm nào cũng có hàng chục mạng người đã ra đi vì xả lũ thuỷ điện đột ngột. “Những đứa trẻ bơ vơ vì mất gia đình, các cụ già cạn khô nước mắt đứng lập cập gặm mì cầm hơi qua ngày. Trường học, công sở tan hoang và vắng lạnh còn bệnh viện trở nên quá tải vì dịch bệnh tăng cao”. Còn những thiệt hại môi trường thì quá lớn: “số liệu của Bộ Công thương cho thấy hàng trăm dự án thủy điện đã liếm sạch 50.000 ha rừng, hàng ngàn hecta đất ở, đất trồng trọt của người dân”.

    Em Hương,
    —–

    http://songmoi.vn/xa-hoi-thoi-su/thuy-dien-noi-am-anh-mua-lu

    Thủy điện – nỗi ám ảnh mùa lũ

    18/11/2013 – 13:46

    Miền Trungchưa kịp hoàn hồn với siêu bão Haiyan thì ngay sau đó, một cơn áp thấp nhiệt đới ở ngoài khơi xa đã gây mưa lớn tạo nên cơn lũ lịch sử tràn về. Chỉ sau một đêm, miền Trung đã bị nhấn chìm, không chỉ bơi mưa lũ mà còn vì các công trình thủy điện “vô tư” xả nước biến thiên tai thành “nhân họa”.

    31 người chết, 9 người mất tích và 20 người bị thương cùng hàng nghìn ngôi nhà bị ngập, hư hỏng hay cuốn trôi, toàn bộ diện tích nuôi trồng trong khu vực đã bị hủy hoại. Đây mới chỉ là những thống kê ban đầu và con số thiệt hại sẽ còn tiếp tục tăng lên sau đó. Tuy nhiên, với người dân miền Trung thì mưa lũ không còn quá bất ngờ vì năm nào họ cũng phải hứng chịu đôi lần, song giờ đây hai chữ “xả lũ” mới là nỗi kinh hoàng.

    Tháng 11 năm 1999 những cơn mưa cực lớn với mức nước được đo là 1.384 mm/ngày ở Huế đã tạo nên một trận lũ lịch sử. Sau đúng 14 năm, cố đô này lại chìm trong biển nước khi lượng mưa dù rất lớn nhưng cũng vào khoảng 600mm/ngày. Nhưng đáng nói hơn cả là nước lên nhanh khủng khiếp, chỉ sau vài giờ nước đã dâng cao đến vài mét khiến dân trở tay không kịp. Những người dân sống gần các hồ đập thực sự hoảng loạn khi phải nháo nhào tháo chạy trong đêm, và chứng kiến toàn bộ tài sản ruộng đồng bị nước nuốt trọn.

    Tại Bình Định, những người sống dọc theo Quốc lộ 19 nối từ đồng bằng lên cao nguyên lần đầu tiên chứng kiến con đường này bị lũ tàn phá. Trong cuộc họp ngày 17/11 ông Hồ Quốc Dũng – phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Định bức xúc phản ánh, người dân vốn sống ngàn đời với những cơn mưa lớn nhưng chỉ vài năm trở lại đây thì cứ mưa lớn là dẫn đến lũ lớn. Bởi ngoài lý do mưa lớn thì còn bởi các hồ thủy điện xả lũ. Vậy nên các công trình này đã không phát huy được hiệu quả điều tiết tránh lũ mà ngược lại còn khiến lũ tăng cấp.

    Mặc dù báo cáo của Văn phòng thường trực phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn gửi Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng khăng định không có nhiều thủy điện xả lũ và mức xả không lớn. Tuy nhiên, hiện thực sau bản báo cáo lại nghiêm trọng hơn thế.

    Ông Hồ Văn Mẫn – phó Ban chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn huyện Đại Lộc (Quảng Nam) cho biết, trong số các thủy điện hiện đang vận hành có ảnh hưởng đến hạ lưu vùng Đại Lộc, chỉ duy nhất thủy điện A Vương là có ký cam kết cùng giám sát việc xả lũ (địa phương cử người lên giám sát xả lũ tại nhà máy) và thông báo lũ trên hệ thống loa công cộng (Tuổi trẻ 18/11)

    Ông Nguyễn Văn Trúc, chủ tịch UBND huyện Đại Lộc, Quảng Nam cho hay việc các thủy điện xả lũ đột ngột, có lúc xả hơn 7.000 m3/giây đến nỗi chỉ trong vòng 2 tiếng mà từ báo động 1 lên đến báo động 3, làm sao người dân trở tay kịp? Còn ông Nguyễn Sự – bí thư Thành ủy TP Hội An (Quảng Nam) khẳng định, bất cứ một thủy điện nào xả lũ, Hội An cũng phải gánh chịu. Chưa thấy lợi từ thủy điện đến đâu bởi mùa khô, tích nước làm Cửa Đại ngập mặn, nhà máy nước phải đóng cửa, vào mùa lũ nước đổ về mạnh làm xói lở, đổi dòng, uy hiếp an nguy của phố cổ, ảnh hưởng đến ngành du lịch khủng khiếp. Tình trạng cũng tương tự đối với khu du lịch Buôn Đôn. Với thiết kế của nhà máy thủy điện Sêrêpốk 4A đã khiến dòng nước tự nhiên không còn chảy qua hàng chục buôn làng hoặc nếu nhà máy có “trả lại” cho dân thì lượng nước không ngăn nổi tình trạng sa mạc hóa lòng sông hủy hoại nếp sống văn hóa cư dân và môi sinh của hệ thực vật rừng quốc gia Yók Đôn.

    “Hễ có lũ lớn, ông thì đổ cho thủy điện, ông đổ cho thủy lợi, ông thì đổ mưa to, ông thì đổ do phá rừng, đủ thứ, cuối cùng không biết đổ đâu thì nói là do biến đổi khí hậu. Nếu cứ để thế này thì đời sống của người miền Trung ngàn đời nữa còn cơ cực, không cách chi mà ngóc đầu lên nổi” – ông Hồ Quốc Dũng nói (Tuổi trẻ 18/11).

    Vậy những nhà máy thủy điện này có thực sự hiệu quả như mong đợi và được quản lý ra sao là câu hỏi mà rất nhiều cử tri đã gửi tới Quốc hội trong kỳ họp lần này. Theo ông Lê Hữu Thuần, Phó cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trưởng), kiểm tra 76 thủy điện tại 16 tỉnh thành thì hầu hết đều không được nghiên cứu kỹ trước khi xây dựng, và có tác động rất lớn đến nguồn nước. Nhiều công trình trong số đó không có phép hoặc chưa đủ điều kiện cấp phép. Hơn nữa nếu so sánh 6.500 tỷ đồng đóng góp cho ngân sách (năm 2012) của các công trình này với hàng nghìn tỷ đồng thiệt hại từ việc xả lũ và hàng chục mạng người đã ra đi cũng như những thiệt hại kéo dài về môi trường thì quả thực lợi ích của thủy điện thiếu quy hoạch là quá bé nhỏ.

    Mới đây, Chính phủ đã loại bỏ 424 dự án thuỷ điện ra khỏi quy hoạch nhưng còn bao nhiêu công trình mang danh thủy điện để phá rừng lấy gỗ? Và đã có bao nhiêu hécta rừng cản nước đã bị phá để thay vào bằng những hồ chứa, thân đập có chất lượng mang sẵn những nỗi bất an của người dân dưới hạ nguồn mà mỗi khi mưa to, là xã lũ đột ngột với một mục đích rất chính đáng: tránh tổn hại cho công trình. Song để giữ bình yên cho hồ đập mà hàng chục nghìn người bị mất nhà, nguy cơ thiếu đói. Những đứa trẻ bơ vơ vì mất gia đình, các cụ già cạn khô nước mắt đứng lập cập gặm mì cầm hơi qua ngày. Trường học, công sở tan hoang và vắng lạnh còn bệnh viện trở nên quá tải vì dịch bệnh tăng cao.

    Không những thế, số liệu của Bộ Công thương cho thấy hàng trăm dự án thủy điện đã liếm sạch 50.000 ha rừng, hàng ngàn hecta đất ở, đất trồng trọt của người dân. Tất cả chỉ trông chờ vào trách nhiệm giám sát của Quốc hội, Chính phủ và của người dân. Hay theo cách nói của Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, đó chính là trách nhiệm của chúng ta – một tập thể lớn với những trọng trách lớn lao khi vừa cùng làm chủ, bấu víu vào đất đai nhưng cũng phải gánh chịu từ thiên tai đến nhân họa của một nhóm người nào đó cũng nằm trong số… chúng ta.

    An Huy

    Like

  3. Em cám ơn chị Diệu Linh và team dịch.

    Khi đọc phần thảm kịch ở đập thuỷ điện Vajont, Ý, em nhớ tới 1 clip tái hiện lại thảm kịch này:

    https://www.youtube.com/watch?v=imVSM47sZ88

    Em cũng gửi bài báo “Những vụ vỡ đập thuỷ điện kinh hoàng nhất thế giới”, để chúng ta có thêm cái nhìn về các nhà máy thuỷ điện quy mô lớn. Từ đó, em thấy kết luận của bài là có cơ sở: “Triển vọng cho việc mở rộng các nhà máy thủy điện ngày nay được tập trung vào quy mô nhỏ là đẹp (small is beautiful*), đó là những nhà máy dưới 10 MW, có khi chỉ vài kW, để có thể khai thác dòng chảy nhỏ nhưng ổn định”.

    ——

    http://songmoi.vn/the-gioi-thoi-su/nhung-vu-vo-dap-thuy-dien-kinh-hoang-nhat-tren-the-gioi

    Những vụ vỡ đập thủy điện kinh hoàng nhất trên thế giới

    19/11/2013 – 06:13

    Vỡ đập thủy điện luôn là một thảm họa kinh hoàng đối với con người bởi nó có thể quét sạch và cuốn trôi bất kỳ thứ gì khi hàng ngàn m3 khối nước đổ ập xuống. Quá khứ luôn là một bài học cay đắng cho hậu thế khi những công trình dân sinh có thể trở thành thảm họa cướp đi mạng sống của hàng ngàn người.


    Đập thủy điện Pantano de Puentes (Tây Ban Nha)

    Năm 1802, cơn mưa lớn lịch sử tại Tây Ban Nha đã khiến con đập Pantano de Puentes nằm ở vùng Lorca không chịu nổi sức nước và vỡ tràn khiến ít nhất 608 người thiệt mạng. Hàng ngàn m3 nước đổ ập xuống khu dân cư và ảnh hưởng tới 1.800 ngôi nhà và hơn 40.000 cây cối.


    Đập Vajont (Ý)

    Tại Ý, vào tháng 10/1963, một trong những con đập cao nhất thế giới mang tên Vajont nằm ở vùng thung lũng sông Vajont đã bất ngờ sụp đổ do một trận động đất. Chỉ trong 45 giây, 260 triệu m3 nước đã bao trùm toàn bộ khu vực. Thậm chí, nước từ hồ chứa khi đổ xuống các ngôi làng cạnh đó còn tạo nên các cơn sóng cao tới 250m khiến khoảng 2.000 người thiệt mạng.

    Trước đó 40 năm, tại Ý cũng từng xảy ra một vụ vỡ đập khác khiến 356 người chết. Đó là khi đập nhiều tầng Gleno ở trên sông Gleno, vùng Valle di Scalve vỡ chỉ sau… 40 ngày. Khi đó, khoảng 4,5 triệu m3 nước đã tràn ra từ độ cao 1.535m xuống vùng thung lũng phía dưới. Nguyên nhân được xác định là do đơn vị thi công không sử dụng loại vữa xi măng thích hợp.


    Đập South Fork (Mỹ)

    Còn tại Mỹ, vụ vỡ đập South Fork xảy ra năm 1889 đã đi vào lịch sử nền kinh tế số 1 thế giới với 2.209 người thiệt mạng. Trước khi “thảm họa” xảy ra, con đập ở bang Pennsylvania liên tục được cảnh báo rò rỉ nước ở nhiều chỗ nhưng các kỹ sư… không thể vá xuể. Và chuyện gì tới cũng phải tới, khi lượng mưa vào tháng 5/1889 vượt quá sức chứa của hồ thủy điện này, 20 tấn nước đã khiến đập South Fork đổ sập và gây thiệt hại ít nhất 17 triệu USD, đồng thời khiến 2.209 người chết.


    Đập Machchu-2 (Ấn Độ)

    Trong khi đó, tại Ấn Độ, do chủ quan và thiếu đi các biện pháp khẩn cấp, trận mưa lớn và lũ lụt năm 1979 đã khiến con đập Machchu-2 nằm trên sông Machhu (Morbi) sụt vỡ và gây nên cái chết của hàng nghìn người. Cho tới nay, vẫn chưa có báo cáo chính thức về số người chết. Nhưng nhiều nguồn tin Ấn Độ khẳng định con số này phải lên tới 15.000 người. Bởi chỉ trong vòng 20 phút, những con sóng cao 10m đã nhấn chìm một thị trấn cách đó 5km. Sự kiện này đã đi vào lịch sử thế giới với tên gọi Thảm họa Morbi.

    Nguyên nhân của thảm họa này được cho là do những trận mưa lớn ở đầu nguồn, làm con đập đắp bằng đất dài 4km bị tan rã. Trong thiết kế, nó chỉ chịu được lưu lượng 5.663 m3/s. Song, trận mưa lớn năm đó làm lưu lượng lên đến 16.307 m3/s, gấp 3 lần sức chịu đựng của công trình.


    Đập thủy điện Bản Kiều (Trung Quốc)

    Đối với không ít người dân Trung Quốc, vụ vỡ đập thủy điện Bản Kiều được coi là sự cố vỡ đập tồi tệ nhất trong lịch sử nước này.

    Nó được xây dựng năm 1952 trên sông Hoài Nam, tỉnh Hà Nam và chính là một trong những thủy điện quy mô lớn đầu tiên của Trung Quốc. Nhưng tới năm 1975, siêu bão Nina (1 trong 5 siêu bão gây thiệt hại lớn nhất thế giới) đổ bộ vào nước này, lượng mưa đo được trong ba ngày lên đến 1605,3 mm.

    Không chịu được sức nước, đập Bản Kiều đã sụp đổ, khiến Trung Quốc mất đi một nguồn năng lượng khổng lồ bởi nó có khả năng đáp ứng 1/3 nhu cầu sử dụng vào lúc cao điểm của cả nước Anh. Công suất của nhà máy lên đến 18 GW, tương đương 9 nhà máy nhiệt điện hay 20 lò phản ứng hạt nhân.

    Vụ vỡ đập thủy điện này đã khiến khoảng 171.000 người thiệt mạng, khoảng 11 triệu dân trở nên vô gia cư khi hơn 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy.

    Đăng Quốc

    Like

Leave a comment