Một nhà mồ xưa
Tộc người Pu Noong Preh là một trong nhiều nhóm được gọi là dân tộc Mnông , cư trú tập trung ở hai huyện Đăk Min và Krông Nô thuộc tỉnh Đăk Nông. Tuy là một nhóm địa phương, nhưng cũng có những nét đặc trưng văn hóa riêng độc đáo.Người Pu Noong Preh gọi cộng đồng nhỏ của mình là Bon Lan. Mỗi một Bon trước đây thường chỉ có từ một đến hai dòng họ, cư trú cách nhau vài ba cây số. Do đó sự quan hệ với các Bon khác để có những cuộc hôn nhân đúng luật tục, là rất cần thiết, và chỉ có thể thông qua các lễ hội.
Trong cơ cấu của Bon Lan Preh, bao giờ cũng chỉ có một người đầu làng gọi là Ku roanh Bon. Người đầu làng Preh có toàn quyền quyết định, giải quyết mọi sự tranh chấp, hoặc phạt vạ trong cộng đồng. Được phép triệu tập cả Bon khi cần bàn bạc dời Bon hay có chiến tranh xảy ra…Cả Bon dựng quây quần quanh nhà của chủ Bon, cửa ra vào quay theo hướng đi ra bến nước. Nhà hình vòm, mái tranh rủ dài sát đất tạo sự ấm áp cho không gian bên trong. Nhà có từ một đến hai cửa ra vào ở hai bên.
Tộc người Mnông thuộc nhóm ngôn ngữ Môn –Khơmer,có sự khác biệt ở các nhóm địa phương. Tiếng Pu Noong Preh tương đối phổ biến trong cộng đồng Mnông. ( Đài TNVN chọn tiếng Preh để phát thanh) .
Việc canh tác nương rẫy của người Preh bị chi phối bởi phương thức du canh du cư, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Sau khi canh tác đã 3-4 vụ, đất hết màu là dời đi nơi khác. Do đó nhà ở bao giờ cũng chỉ làm tạm bợ, hoàn toàn bằng tre nứa, tranh, để dễ dàng di chuyển theo từng địa điểm rẫy mới. Đôi khi chưa hết chu kỳ canh tác, nhưng gặp thiên tai, cháy Bon, hoặc dịch bệnh, bà con cho rằng dựng Bon trúng nơi đất dữ, hay các vị thần linh không chấp nhận, Bon phải dời đi. Chọn được đất, trước khi dời đến chủ Bon phải cúng một ché rượu, một con gà và một số vật dụng khác. Nếu trong đêm trước ngày di chuyển, chủ Bon mơ thấy điềm tốt, thì sáng hôm sau cả Bon sẽ chuyển đến vùng đất mới vừa được chọn. Nếu mơ thấy điều xấu, phải đi tìm vùng đất khác.
Cũng như mọi cư dân Tây Nguyên nói chung và tộc người Mnông nói riêng, nhóm Pu Noong Preh theo tín ngưỡng truyền thống “ Vạn vật hữu linh”. Có rất nhiều các vị thần linh ( Brah) cư trú trên ba tầng :
– Trên trời có N’Du là vị thần tối cao nhất , có quyền lực lớn nhất ( Đây cũng là vị thần tối cao của các tộc người K’Ho, Chil, Lach thuộc ngữ hệ Môn – Khơmer )
– Trên mặt đất do thần Tôêch cai quản các thần đất, thần nước , thần suối, thần nông nghiệp
– Dưới lòng đất quyền lực cao nhất là Phan và Ting, trôgn coi linh hồn người đã chết.
Do có nhiều thần linh ( cả nam lẫn nữ), có cả thần ác lẫn thần hiền, các vị cũng vui buồn, hờn giận như con người; nên trong một cộng đồng, một gia đình , một cuộc đời của một con người phải có rất nhiều lễ cúng, thậm chí là liên miên. Muốn làm việc gì thì phải hỏi ý kiến và cầu xin. Công việc hoàn thành phải tạ ơn, vi phạm phải tạ lỗi…Vì nhiều lễ cúng nên gần như dòng họ nào cũng có thày cúng, để có thể gọi tên được nhiều vị thần và linh hồn các vị tổ tiên về phù trợ.
Người Pu Noong Preh quan niệm rằng con người có ba hồn : hồn trâu ( rpu) là hồn chính ở trong người. Hồn nai ( Yun) cũng ở trong người nhưng hay đi lang thang ra ngoài cơ thể. Hồn dế, hoặc hồn cào cào ( Lêr, Krah ) đều là những hồn phụ. Khi con người ốm đau, vì các hồn đi lang thang bị các Brah bắt, nếu cúng kiếng có thể khỏi, nhưng khi hồn Rpu chết đi, thì sẽ chết hẳn. Rpu chết biến thành Phan, sau đó đầu thai sang làm người ở kiếp khác.
Sản xuất nông nghiệp:
Nhóm tộc người Pu Noong Preh canh tác lúa rẫy theo phương thức “phát, cốt, đốt, trỉa”. Ở một vài vùng trũng gần sông, hồ, đồng bào Preh còn canh tác lúa ruộng. Nhưng chủ yếu vẫn là nương rẫy, sản xuất theo quy trình : Phát cây, đốt sạch, khi có mưa xuống dùng hai chiếc gậy vót nhọn hoặc bịt sắt, vừa đi vừa chọc thành lỗ cho người đi sau tra hạt xuống. Tra đến đâu lấp đến đó. Đất rẫy được chọn rất kỹ trước khi quyết định canh tác. Tại rẫy, trồng xen canh các cây đậu, bí, ngô, và một vài loại nông sản phụ khác, nhằm cải thiện bữa ăn hàng ngày. Thường mỗi rẫy chỉ gieo trồng từ 2-3 vụ, nhiều lắm là 5 vụ lúa. Khi thu hoạch, bà con dùng cật nứa, hoặc sau này là dùng liềm hoặc dao nhỏ cắt lấy bông lúa, bỏ vào gùi đưa về nhà. Rơm rạ bỏ lại tại rẫy, trước mùa mưa sang năm, sẽ dọn đốt cùng với cỏ để bổ sung độ phì cho đất. Khi đất đã bạc màu rồi thì bỏ đi, tìm rẫy khác. Vài chục năm sau mới quay trở lại. Những khu đất rẫy cũ này theo bộ luật tục của người Mnông, là đất đã có chủ sở hữu, không ai được phép xâm phạm.
Đối với việc canh tác lúa ruộng ở một số vùng ven sông,hồ, bà con dùng cách cho trâu dẫm đạp nhuyễn ra, sau đó gieo sạ hoặc cấy mạ già, để nguyên cả cây (không cắt đầu mạ như người Kinh). Việc giữ gìn giống lúa, bắp rất được coi trọng. Nhưng đều là những loại giống địa phương đã tồn tại hàng trăm năm, do kỹ thuật canh tác lạc hậu, đất đai bị xói mòn, nên năng suất không cao, thường sinh trưởng dài ngày.
Người Preh rất quan tâm đến việc chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên thường chỉ làm chuồng đơn sơ hoặc thả rông. Các loại súc vật nuôi như gà, heo, bò, trâu chỉ dùng để cúng tế và đổi chác, chứ không dùng trong bữa ăn hàng ngày, trừ khi phải tiếp khách. Đặc biệt con trâu được coi là hồn người, nên chỉ dùng hiến sinh trong các lễ cúng lớn, chứ không làm thịt ăn bất cứ lúc nào
Nghề phụ:
Cũng như các tộc người khác ở Tây Nguyên, đời sống tự cấp tự túc đã tạo cho người Pu Noong Preh thành thạo một số nghề phụ như đan lát, làm gốm, dệt vải, nghề rèn… Sản phẩm làm ra thường chỉ dùng trong gia đình. Một số ít được mang đi đổi chác theo sự thỏa thuận của đôi bên. Các nghề phụ thường có sự phân công theo giới tính. Ví dụ : Đàn ông phải giỏi đan lát, rèn dũa. Đàn bà dệt vải, làm gốm, dệt chiếu…
Sản phẩm tre nứa như gùi, nong, nia, vách – trần nhà… Thể hiện rõ bàn tay tài hoa của người đàn ông Preh, thường rất bền chắc, đẹp. Đặc biệt nghề làm gốm của phụ nữ đã chế tạo ra những vật dụng như chum, vại, nồi niêu, bát… Kỹ thuật chế tác đất nung của người Preh rất đơn giản, khác với người Kinh ở chỗ không dùng bàn xoay, mà chỉ dùng tay để nặn, điều chỉnh hiện vật bằng mắt, vậy mà vẫn rất tròn trịa. Khi nung, người ta đặt sản phẩm quanh một đống củi, lại chất tiếp củi vòng quanh ở bên ngoài, rồi mới đốt. Lò nung gốm hoàn toàn lộ thiên. Ngày nay ở một số vùng, kể cả vùng Êđê hiện nay vẫn còn những chiếc nồi nhuộm, nồi đất mua của tộc người Mnông
Cũng như bao phụ nữ các dân tộc Tây Nguyên, phụ nữ Preh rất chú trọng đến nghề dệt. Do ảnh hưởng của địa phận cư trú xen kẽ với người Êđê, nên trang phục của người Preh hầu như mang đậm dấu ấn hoa văn Êđê. Tuy nhiên, có rất nhiều loại hoa văn hòa trộn giữa hai phong cách Mnông và Êđê cũng đã tạo trên những sản phẩm dệt hết sức độc đáo trên váy, áo, khố, chăn, tấm choàng để cõng con… Sản phẩm dệt, ngoài việc sử dụng trong gia đình, cũng là một trong những hiện vật để trao đổi.
– Trong tất cả các nghề phụ phục vụ cho đời sống tự cung tự cấp, nghề rèn rất được coi trọng và phát triển. Tuy chưa đạt đến trình độ cao nhưng với quy trình sản xuất canh tác trên đất dốc, việc chế tạo những chiếc cuốc phù hợp, hoặc sửa chữa những vật dụng bằng sắt trong gia đình là tối quan trọng. Những Pu Cheăr (Thợ rèn) không coi đây là việc làm kiếm cơm, mà chỉ là phục vụ cho sản xuất của gia đình mình, và giúp đỡ các gia đình khác, thậm chí có thể còn cho gia đình khác mượn lò rèn.
– Người Preh cũng là một trong những tộc người gắn bó với đời sống của voi. Những con voi đã được thuần hóa, được coi như một thành viên trong gia đình, được làm lễ đặt tên. Khi đến tuổi trưởng thành được tổ chức lễ cưới. Nếu chưa cưới mà voi đã có chửa, thì bị coi như mắc tội ngoại tình, gia chủ phải cúng phạt vạ cho cả Bon. Trường hợp ngoại tình. Cả hai chủ voi đều bị phạt. Nếu voi có hiện tượng ngủ gật, bỏ ăn tức là trong Bon Lan có người đã làm việc xấu (Loạn luân, ăn cắp…), khi phát hiện ra, người đó phải làm lễ cúng tạ lỗi cho voi rất nặng.
Tuy việc chăm sóc, nuôi nấng voi nhà hiện nay rất khó khăn, đặc biệt là môi trường sinh tồn thiên nhiên của voi, nhưng ở vùng Đăk Min và Krông Nô vẫn còn một vài hộ còn nuôi voi .
Văn hóa nghệ thuật
Đời sống văn hóa nghệ thuật người Pu Noong Preh hết sức phong phú, đa dạng. Đặc biệt ca hát và văn chương truyền miệng với lối hát ca ngợi, hát giao đãi, đối đáp, giao duyên nam nữ, hát đố… hết sức hồn nhiên. Khi có khách đến nhà, gia chủ sẽ trải chiếu hoa mời ngồi, lấy rượu cần, thuốc lá ra mời, vừa cùng nhau uống rượu, vừa hát ngai prăi rằng :
Hôm nay gặp nhau, chỉ có ché rượu là vui/Rượu nồng nhưng chưa ngon/Chỉ có lòng quý nhau là đậm đà/Bạn cảm thông /Mời lần sau lại đến
Người khách có thể hát đáp lời gia chủ, cũng có thể không. Cũng cách hát đó, thanh niên nam nữ tán tỉnh nhau rất tự nhiên :
Anh nhớ em/Như chuối mùa nắng không lên đọt/Như gà đói không cất nổi tiếng gáy/Anh ngồi trên tảng đá, nhớ em/Một mình anh/Như khúc củi cháy không thành ngọn lửa
– Có nhiều thể loại ca hát khác nhau, như : ngai prăi, jun jơ, tăm pớt, tăp ta vêu… hát đối đáp hoặc tự sự, kể lể; hát tăm khach, tăm lơl trêu ghẹo, tán tỉnh giữa nam nữ… Đặc biệt người Preh còn có thể loại quăch yao (Có nơi gọi là Boi yao) : gia phả của một họ trực hệ bằng văn vần. Gia đình nào cũng có một người già thuộc lòng gia phả của mình, lâu lâu đọc lại cho con cháu nghe để nhớ. Bằng quăch yao, bà con tránh được những cuộc hôn nhân cùng trực hệ sau nhiều năm du cư. Họ hàng dù ở vùng nào cũng biết mà tìm nhận nhau.
Bên cạnh các hình thức hát nói, người Preh còn sử dụng nhiều nhạc cụ bằng tre nứa, như : n’hôm (Sáo dọc), mbuôt (Kèn bầu và 6 ống nứa), gong rêng (Đàn ống tre), nung (Tù và)… Đặc biệt không thể thiếu dàn chêng.
– Sử thi Ot’rông (Trường ca) là một loại hát kể bằng văn vần, lưu truyền từ đời này sang đời khác, trong mọi vùng cư trú,là những chuyện dài, mô tả xuyên suốt từ ngọn nguồn đến kết thúc,sự ra đời của trời đất, của một hoặc nhiều con người, thậm chí rất đông nhân vật, những cuộc chiến tranh giữa người với người, người với các thần linh. Do đó những Ôt’trông đã ghi lại được thường có độ dài gấp nhiều lần các trường ca Êđê. Các nghệ nhân kể Ôt n’rông không chỉ có trí nhớ tốt, mà còn phải có chất giọng hát khỏe, hát vang, ngoài ra còn như một “nhà đạo diễn” tài ba cho hàng trăm nhân vật của mình hoạt động khắp ba tầng trời, đất, dưới đất, thậm chí là cả cả dưới nước. Bộ sử thi đầu tiên “ Làm rẫy Bon Tiang” của người Mnông được các nhà sưu tầm phát hiện và công bố, chính là của tộc người Pu Noong Preh ở huyện Đăk Min, tỉnh Đăk Nông. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, chương trình sưu tầm sử thi của Nhà nước đã ghi lại được hơn 100 bộ sử thi – Ot n’rông – của người Mnông, trong đó có Pu Noong Preh. Như các sử thi “ Kể dòng con cháu mẹ Chep, Thuốc cá ở hồ Bầu trời, Mặt trăng, Tiang giành lại bụi lồ ô…”
Người Pu Noong Preh còn có bộ luật tục (Phiat kduoih).Bất cứ ai vi phạm luật tục, cũng bị đem ra trước cộng đồng để phân giải. Tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà phải nộp phạt nhiều hay ít. Luật tục hoàn toàn truyền miệng có vần, cho dễ nhớ. Luật tục quy định rất cụ thể thái độ ứng xử của con người đối với xã hội và cộng đồng (Chương III – Quan hệ với cộng đồng) , với thiên nhiên (Chương IV – Phong tục tập quán), với gia đình kể cả cha mẹ, ông bà, con nuôi lẫn anh chị em (Chương V – Hôn nhân & quan hệ nam nữ, Chương 5 – Quan hệ gia đình), với người đầu làng (Chương II Quan hệ với thủ lĩnh)…quy định rõ cả trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ Bon đối với cộng đồng…. Một số các vị nhân sỹ cao niên thông thạo luật tục (Pô phat kduoih) là người chủ trì các vụ xử kiện trong Bon Lan.
Lễ nghi theo nông lịch
Người Mnông có câu thành ngữ :
“Tháng hai rụng lá tre/Tháng ba rụng đuôi công/Tháng hai đốt rẫy cũ/Tháng ba đốt rẫy mới”
Có thể bắt đầu các lễ nghi trong một năm từ lễ dọn rẫy. Người ta phát quang sạch sẽ chờ mùa khô đến sẽ đốt và dọn rẫy, lúc này cúng một con gà và một ché rượu nhỏ. Nếu năm ấy trời mưa muộn, cả bon sẽ phải làm lễ cúng cầu mưa ở ngoài Bon. Lễ này khá lớn, thường phải có một heo với nhiều ché rượu, mà tùy theo khả năng mỗi nhà, đóng góp. Đặc biệt trong lễ này, người ta dùng nước để té vào nhau, cầu cho được đủ nước và mát lành.
Sau lễ cúng của cả làng, mỗi gia đình lại làm lễ cúng rẫy riêng của mình. Cúng trước ở ngoài rẫy bằng một con gà trống trắng, một ché rượu ngon, tại khoảng đất đã được dọn sạch phát quang và trồng cây thuốc Cum ba. (Đây cũng sẽ là nơi cúng rẫy trong những lần khác). Sau đó về nhà tiếp tục cúng và uống rượu. Lễ này cầu xin các vị thần đất phù hộ cho không bệnh tật, lúa tốt, đậu bắp sây hột.
Trong lễ cầu mưa của cả Bon, có đánh chêng. Cúng dọn rẫy tại gia cũng có sử dụng dàn chêng (Ngoài rẫy thì không).
– Ngoài lễ cúng sau khi lúa trổ cờ, lễ N’tom ba – cắt những túm lúa đầu tiên đã chín, đưa hồn lúa về nhà. Sau đó còn lễ plơt n’rên ba, lễ Sêt chưng ra he, đều chỉ cúng một con gà và một ché rượu, để tạ ơn các thần linh cho lúa tốt. Trong các lễ này không nhất thiết phải có đánh chêng.
Sau khi gặt được 1/3 diện tích, người ta đã có thể làm lễ ăn cơm mới Sa ba m’he – khá long trọng. Là một trong những lễ được được đồng loạt tiến hành trong mọi gia đình, nên không khí trong Bon Lan những ngày này cực kỳ vui vẻ. Chêng đánh vang lừng, người người cười nói, ca hát, kể ôt n’rông. Tuy nhiên lễ này không kéo dài ngày, vì lúa tuốt chưa xong.
Lễ cúng lớn nhất trong năm là khi kết thúc vụ thu hoạch. Đặc biệt nếu mùa màng bội thu hơn dự kiến, nhất là nếu đạt tới 100 gùi lúa, gia chủ phải làm lễ taih rheng ba (báo với yang thu được 100 gùi), tạ ơn các vị thần linh, mời mọc bà con trong cộng đồng cùng chia vui. Đây còn là lễ kết thúc một vụ mùa, một năm làm ăn vất vả, nên là lễ cúng quan trọng nhất, lớn nhất. Nhà nào nghèo thì chỉ cúng heo, bò, các nhà giàu phải cúng trâu. Lễ cúng nào có ăn trâu thì nhất thiết phải dựng cột nêu. Người ta buộc lưng chừng cột một chiếc đu, đung đưa một người phụ nữ ngồi trên, hát bài “ khóc trâu” (nhim khăt pu k’ra pu) trước khi chính thức đâm . Lời khóc có câu :
“Ơ trâu/Ta rất thương mày /Nhưng theo lệ tục mày phải chết/Trâu ơi đừng oán giận gì nhé”
Thày cúng lấy đầu và đuôi trâu để lên nơi cao nhất trong kho lúa, cùng với chén đồng hoặc ống nứa đựng rượu cần , để cầu xin “ăn bao nhiêu hồn lúa cũng vẫn còn đó”. Chêng đánh suốt mấy ngày .
Ngoài ra, còn một số lễ cúng cũng có quy mô hơn, nhưng không làm định kỳ hàng năm, mà tùy theo sản lượng thu hoạch được hàng năm, có thể từ 2-3 năm mới tổ chức ăn trâu một lần.
Lễ nghi theo nông lịch là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Pu Noong Preh. Nó thể hiện tâm nguyện của bà con ngay trong lời khấn của thày cúng :
“ Làm rẫy cho có lúa/ Trồng gừng cho có củ/ Ăn mặc cho được khen/ Ở một mình sao cho ai cũng đến”
Đi theo với các lễ nghi đó là tiếng chêng. Chêng gọi mời các thần linh về hưởng lễ dâng hiến. Chêng báo cho bạn bè, họ mạc gần xa niềm vui được mùa để cùng chia sẻ. Chêng thay lời con cháu chúc sức khỏe người già. Chêng tạo nên không khí gặp gỡ, giao lưu náo nức trong hội đua tài, khoe khéo trong khắp Bon Lan, của mọi gia đình trong những ngày lễ hội.
Lễ nghi theo vòng đời :
Bắt đầu từ lễ chào đón một con người chào đời. Người Pu Noong Preh coi việc sinh đẻ là rất quan trọng trong mọi gia đình. Nhưng cũng sẽ đem lại xui xẻo cho người ngoài. Do đó sự kiêng cữ cho sản phụ rất được coi trọng. Khi mới có mang, sẽ có một lễ cúng sức khỏe và xua đuổi những điều xấu, cầu những điều tốt đẹp cho người mẹ và thai nhi.
Khi chuẩn bị sinh, người chồng phải làm một túp lều nhỏ bên hông nhà, cho người phụ nữ sinh nở riêng biệt ở đó. Một tuần sau mới bồng con vào nhà chính. Sau khi sinh, có thể đặt tên con tùy ý. Nhưng nếu đứa trẻ quấy khóc nhiều, biếng ăn, sẽ phải cúng đặt tên lại (bằng tên của những người đã khuất) cho đứa trẻ sơ sinh. Đồng thời cầu xin các vị thần linh phù hộ, bảo trợ cho đứa bé.
Người Pu Noong Preh quan niệm : con người tuy chết đi, nhưng linh hồn thoát ra khỏi xác vẫn tồn tại chung quanh người sống. Khi đặt cho đứa trẻ tên gọi theo người đã khuất, tức là giúp cho linh hồn đó được sớm tái sinh.
Đến tuổi trưởng thành, ngoài sự hứa hẹn của hai gia đình (nếu có) , còn cần có sự mối manh của n’ranh (Bà mối) thì mọi cuộc hôn nhân mới thành công. Các lễ hỏi, lễ cưới đều do nhà trai chịu trách nhiệm chi phí. Nhưng đôi vợ chồng trẻ phải về cư trú bên nhà gái. Trường hợp nhà trai quá nghèo, cô gái có thể ở nhà trai vài năm để cùng làm lụng nuôi dưỡng cha mẹ chồng, sau đó lại về nhà gái. Đây cũng là một nét riêng đặc biệt trong quan hệ hôn nhân của người Pu Noong Preh.
Trong tang ma, người Pu Noong Preh có sự phân biệt rõ ràng giữa những cái chết được coi là chết tốt và chết xấu. Chết tốt là những cái chết tự nhiên theo quy luật “ sinh, lão bệnh, tử”, như chết già, chết non, chết bệnh… Do sự điều khiển của các vị thần linh (Yang, brah ). Chết xấu là những cái chết “ bất đắc kỳ tử”, hoặc do sự tác động của bên ngoài, như rắn cắn, hổ vồ, tai nạn ở đâu đó…), coi như bị các thần linh trừng phạt. Đặc biệt là chết khi sinh nở, là cái chết rất xấu, đem lại nhiều xui xẻo cho Bon lan và gia đình. Thậm chí có khi phải dời Bon đi nơi khác, nếu có biểu hiện cụ thể về sự giận dữ của các yang.
Người chết để trong nhà sau ba ngày sẽ được đem chôn. Áo quan được đục đẽo từ ngoài rừng rồi mới đưa về. Khi chôn, phải đặt một chiếc ché ở phía đầu người chết. Đặt một ống lồ ô xuyên từ trên nóc mộ xuống đến ché, rồi mới lấp đất hoàn toàn. Những vật dụng hàng ngày chia của cho người chết, đều phải đập vỡ hoặc làm cho méo mó đi. Chôn xong, mọi người phải xuống suối tắm cho sạch ám khí, không để sự xui xẻo theo về Bon lan. Cứ bảy ngày phải mang cơm ra mộ một lần, thả trong ống nứa xuống.
Người Preh cũng có lễ có thể làm ngay sau lễ chôn cất, không cần phải đợi qua một thời gian nữa. Nhất là đối với những trường hợp bị coi là chết xấu. Tuy nhiên, không bắt buộc phải chôn ngoài bìa rừng, không được chôn trong nghĩa địa chung của Bon,quần áo, vật dụng của người bị chết xấu, nếu không chôn theo thì phải đốt hết đi. Kể cả quần áo của người tham gia chôn cất.
Trong vòng một đời người, các thành viên trong gia đình đều trải qua một số lễ nghi quan trọng, như “lễ đặt tên, lễ trưởng thành, cưới hỏi, chúc sức khỏe cho ông bà, cha mẹ”, dựng nhà mới, đón khách, hay tang ma… Trong mọi lễ thức này, không bao giờ vắng sự hiện diện của các dàn chêng. Không chỉ thông báo, cầu xin các vị thần linh, mà còn mang cả trong âm hưởng, những bài bản chêng đó mọi niềm vui, nỗi buồn của cả một cộng đồng, một gia đình cần được chia sẻ.
Có thể nói dàn chêng chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Pu Noong Preh. Khi nghe tiếng chêng nổi lên ở Bon nào, người ta đều có thể hiểu ngay việc gì đã hoặc sẽ diễn ra tại đó. Chêng không chỉ là phương tiện thông tin, giao lưu với các vị thần linh, mà còn tạo nên sức sống tinh thần trong Bon lan, là chiếc cầu nối mọi thành viên trong cộng đồng, chia sẻ mọi vui buồn, gian nan khó khăn hay thắng lợi, thành công. Trong những dịp lễ, hội tụ tập cả Bon hoặc nhiều Bon như thế, cũng là dịp để những lớp người cao niên thông qua những hình thức hát – kể, truyền lại và giáo dục cho lớp trẻ những quan niệm sống, luật lệ quy định của cộng đồng, truyền lại những bài bản chêng.
Tộc người Mnôgn có nhiều nhóm địa phương, nhưng nhóm Pu Noong Preh là một trong những nhóm đông nhất.
Linh Nga Niê Kdăm

Con may la co nha san gach anh Hoanh a. Vi pho bien hon la nha biet thu day. cam ona anh chia se
________________________________
LikeLike
Rat an tuong voi viec anh luon chia se & dong cam cung toi nhung van de nay.Cam on anh nhieu
________________________________
LikeLike
Hi Can,
Kinh tế phát triển thì làm nhà sàn bằng bê tông là phải rồi. Đó la chuyện đáng mừng. Vừa có nhà cửa khang trang vừa giữ truyền thống. Chẳng lẽ ta muốn các đồng bào dân tộc thiểu số sống nhà tranh vách nứa mãi sao?
LikeLike
Cảm ơn chị Linh Nga, bài viết rất thú vị.
Người M’Nông trong huyện Lak giờ làm nhà sàn bằng …bê tông, những giá trị xưa cũ đã phôi phai quá nhiều rồi, chị nhỉ?
LikeLike