
Mòn theo viên phấn đời mình
Rót tinh hoa tạc khối tình trăm năm
Lối đêm soi ánh trăng rằm
Thương ai nhả mối tơ tằm… gầy hao!
-
Đinh Đức Dược
“Cô ơi,
Cô đã dùng tim mình để thắp sáng trái tim em,
dùng tình yêu để dạy em biết cách yêu thương,
có cô em cảm thấy thế giới này thật ấm áp….”

Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, em xin gửi đến tất cả các thầy các cô, đặc biệt là chị Huệ, anh Ái, mama của em, và mama của Khánh Hòa nữa nhỉ, lời chúc tốt đẹp nhất. Kính chúc thầy cô cùng gia đình sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt trong lĩnh vực giảng dạy nghiên cứu.
Trong ngày đặc biệt này em xin phép cả nhà cho em được thử sức mình trong lĩnh vực thơ văn , em nghĩ là nó không được hay và đúng luật nhưng chủ yếu là để mọi người cùng vui thôi ạ. Bài thơ có tựa đề “Đóa hồng của cô”, sau đây em xin được mời cả nhà cùng thưởng thức:
.
Đóa hồng của cô

Bạn dâng lên một đóa hoa,
Tôi dâng lên một đóa hoa,
Chúng ta cùng tết thành một bó hoa lớn,
Để dâng tặng người cô thân yêu.
Cô là người gieo hạt giống,
Mồ hôi của cô là nguồn nước cho những mầm non.
Mắt của cô sáng như những vì sao
Giọng hát của cô như dòng suối nhỏ,
Đem lại niềm vui cho tất cả mọi người.
Dù cho chúng ta có đi xa đến đâu
Sẽ mãi ghi nhớ tình thương của cô,
Dù cho chúng ta có đi xa đến đâu
Vẫn mãi ghi nhớ lời dạy của cô.
Dù cho chúng ta có đi xa đến đâu,
Vẫn mãi ghi nhớ mình là một đóa hồng của cô.
…..
Trong ngày đặc biệt này em mong được nhìn thấy nụ cười của mẹ, chị Huệ, anh Ái rất nhiều.
Kiều Tố Uyên
Nhặt một cánh phượng rơi
Nhớ hoài thời đi học
Nhặt một ánh mắt cười
Nhớ nhỏ bạn đã xa

Nhặt chút nắng vàng tươi
Nhớ sân trường rộn rã
Nhặt một giọt mưa buồn
Nhớ cái lạnh mùa đông
Nhặt nỗi nhớ mênh mông
Nhớ trường xưa yêu dấu
Nhặt một tiếng giảng bài
Nhớ bóng dáng thầy xưa
Nhặt một buổi ban trưa
Tiếng ve sầu li biệt
Sao cái gì cũng nhặt

Vì ta lỡ đánh rơi
Ngày xưa trôi qua rồi
Bất chợt nay thật nhớ!
Đột nhiên ta bỡ ngỡ
Đã xa rồi trường xưa.
Hà Thị Thùy Duyên
Tôi mơ làm cô giáo
Bởi không có nghề nào được trao và nhận nhiều đến vậy.
Tôi trao em tình người, và nhận ở em tình yêu thương, lòng kính trọng.
Tôi trao em trái tim người thầy nồng ấm, và nhận ở em ánh mắt rực sáng niềm hi vọng.
Tôi trao em tâm huyết một đời, và hân hoan trong niềm vui chiến thắng, ấy là lúc em thành công trên bước đường đời.
Tôi mơ làm cô giáo
Để cùng em bước đi trên con đường trải thẩm đỏ.
Cha mẹ em cầu mong em tròn đầy, thì hà cớ gì tôi lại để em đi trên những con đường gấp khúc.
Tôi mơ làm cô giáo.
Tôi sẽ không đánh giá em bằng những bài kiểm tra, bằng những con điểm mà em đạt được, những kì thi mà em đã vượt qua.
Mà bằng chính ý thức, sự lạc quan, niềm vui sống, những tình cảm âu yếm mà em dành cho mọi người xung quanh và cả thế giới này.
Tôi mơ làm cô giáo.
Ước mơ là của riêng em, thành công hay không cũng là do em quyết định.
Tôi không thể cho em những gì em mơ ước, bởi tôi không có quyền năng, lại càng không thể trao em phép nhiệm màu, bởi tôi không là bà tiên trong truyện cổ tích.
Nhưng tôi có thể thắp sáng ngọn lửa niềm tin trong em.
Và đắp đầy hành trang em bằng tri thức mà tôi có được, và cả tình yêu thương.
Và tôi chỉ sẽ là chiếc cánh quạt rẽ nước mà không là bác thuyền trưởng độc đoán.
Tôi mơ làm cô giáo.
Tình yêu trong tôi sẽ hóa phép lạ để biến mặc cảm của em thành tự tin, biến khó khăn thành nghị lực, biến tuyệt vọng thành ý chí.
Một ánh mắt biết sẻ chia, một đôi tai biết lắng nghe, một trái tim chan chứa yêu thương…
Tôi mơ làm cô giáo.
Võ Thị Thanh Thủy
Với hơn 4,000 trường, hệ thống đại học ở Mỹ rất phong phú và đa dạng về chương trình học, lĩnh vực nghiên cứu với các mức độ khác nhau. Ví dụ, cùng là một chương trình học về Kinh tế học (economics), so sánh hai trường ở hai bang của nước Mỹ sẽ cho ra những kết quả như sau: theo xếp hạng của US News and World Reports[1] trường A xếp thứ 50, trong khi trường B xếp thứ 100; chương trình học của trường A là 2 năm, của trường B là 1 năm rưỡi; trường A có nhiều môn thiên về kinh tế lượng và toán trong khi trường B lại có một số môn như kinh tế chính trị, kinh tế môi trường mà trường A không có vv…
Về mặt nghiên cứu và giảng dạy, hệ thống giáo dục đại học và sau đại học (Higher Education) chia làm hai dạng (tạm dịch): đại học nghiên cứu (research university) và đại học giảng dạy (teaching university). Về sở hữu thì chia làm đại học quốc lập (public university) và đại học tư (private university). Cũng chính vì sự phong phú của giáo dục đại học Mỹ mà có rất nhiều các cơ quan xếp hạng các trường đại học theo những tiêu chí khác nhau. Các bảng xếp hạng có uy tín được nhiều người sử dụng như US News and World Reports, hay xếp hạng do các tổ chức chuyên ngành như The Center of Measuring University Performance.
Theo CMUP, các tiêu chí xếp hạng một trường đại học nghiên cứu hàng đầu bao gồm: tổng số bài nghiên cứu, số tiền nhận tài trợ (endowment), số tiền cấp cho nghiên cứu hàng năm, số lượng giải thưởng của giáo viên trong khoa, số lượng sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ vvv…Các trường nghiên cứu hàng đầu theo xếp hạng năm 2008 [2]là Columbia University, MIT, Standford University, Havard University. Điểm đáng chú ý là 7 trường top đầu của bảng xếp hạng này đều là trường đại học tư. Khác với Việt Nam hay các trường ở châu Âu, các trường tư tại Mỹ rất hoạt động hiệu quả và luôn dẫn đầu trong hệ thống giáo dục bậc cao.
Mỹ là một trong số ít các nước áp dụng chế độ biên chế (tenure) trong giáo dục đại học và sau đại học. Thông thường muốn làm giảng viên đại học ở Mỹ thì ứng viên phải có ít nhất bằng tiến sĩ (Doctor of Philosophy). Tùy thuộc trường mà ứng viên được vào làm việc và xét biên chế là trường thiên về nghiên cứu hay giảng dạy mà tiêu chí xét biên chế sẽ khác nhau. Có 3 mức bổ nhiệm cho vị trí giảng viên đại học: Assistant Professor, Associate Professor, và (Full) Professor. Giảng viên mới được gọi là Assistant Professor và kí hợp đồng làm việc với nhà trường trong một vài năm đầu (6-7 năm).
Trong giai đoạn thử việc (probationary period) các giảng viên thường được yêu cầu phải có một số lượng bài nghiên cứu nhất định đăng trên tạp chí chuyên ngành hàng đầu của Mỹ hoặc thế giới, xin được tài trợ từ các tổ chức uy tín, viết sách hoặc là đồng tác giả viết sách, được trao giải thưởng về thành tích nghiên cứu hay giảng dạy xuất sắc, có những đóng góp tích cực trong các công tác xã hội khác (ví dụ, là thành viên quản trị của một tổ chức nào đó trong ngành/lĩnh vực liên quan) vv… Sau 6 hoặc 7 năm của giai đoạn xét biên chế sẽ có một hội đồng thẩm định các kết quả làm việc của ứng viên. Nếu được chấp nhận biên chế, ứng viên sẽ được gọi là Associate Professor, sau một vài năm nếu tiếp tục có những nghiên cứu đáng kể thì sẽ được bổ nhiệm thành Professor.
Ví dụ, trường Rice University có quy định về biên chế như sau[3]: Assistant Professor được kí hợp đồng 4 năm đầu tiên, và được hội đồng xem xét vào năm thứ 3. Nếu được tiếp tục bổ nhiệm và kí hợp đồng làm việc 4 năm nữa, ứng viên sẽ được phép nghỉ 1 kì học chỉ để tập trung vào nghiên cứu, tìm nguồn tài trợ, hoặc các hoạt động sáng tạo khác, thường là vào năm thứ 4 hoặc thứ 5 trong khi vẫn nhận lương đầy đủ. Nếu sau lần xét đầu tiên vào năm 3 mà ứng viên không đạt yêu cầu thì họ sẽ có 1 năm để đi tìm việc và kết thúc hợp đồng vào năm thứ 4. Tương tự như vậy với hợp đồng lần 2 vào năm thứ 7.
Năm 1: bổ nhiệm chức Asssistant Professor và giao nhiệm vụ
Năm 3: xét lần đầu và bổ nhiệm lần hai hoặc chấm dứt hợp đồng
Năm 5: giai đoạn 2 bắt đầu
Năm 4 hoặc 5: nghỉ phép (cho phép nghỉ một kì để ứng viên tập trung vào nghiên cứu trong khi vẫn nhận lương đầy đủ)
Năm 7 hoặc sớm hơn: xét lần 2
Hết năm 7: thăng chức hoặc chấm dứt hợp đồng (có 1 năm sau đó để ứng viên đi tìm việc).
Lí do áp dụng chính sách biên chế được giải thích là giúp cho các học giả nghiên cứu có được sự tự do trong nghề nghiệp. Các giảng viên đại học hoặc giáo sư đôi khi không dám đi sâu nghiên cứu những ý tưởng mới lạ do bị sức ép từ phía giám hiệu nhà trường để đạt thành tích nghiên cứu, giải thưởng, hay thu hút nhiều sinh viên theo học. Nếu như không có chế độ biên chế, nhiều người sẽ chấp nhận chọn một con đường an toàn hơn là đề xuất những ý tưởng đột phá.
Hơn nữa việc xét biên chế cũng giúp các trường giữ chân người tài, tránh các chi phí tuyển dụng người mới hay cạnh tranh giữa các trường để thu hút giáo viên giỏi từ trường khác.
Các giáo sư lâu năm cũng nhiệt tình giúp đỡ những người mới vào vì không bị lo “mất ghế”.
Ngoài ra sự hấp dẫn của chế độ biên chế cũng là động lực giúp cho các giảng viên trẻ tích cực nghiên cứu và có những công trình xuất sắc trong lĩnh vực của mình.
Một điểm đặc biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ không thể không nhắc tới đó là chế độ nghỉ phép (sabbatical leave) dành cho các giáo sư đã có biên chế. Cứ sau mỗi 6 năm giảng dạy toàn thời gian, các giáo sư sẽ được nhà trường cho phép nghỉ 1 năm có lương để hoàn toàn tập trung vào các hoạt động nghiên cứu, xin tài trợ, hoặc đi khảo sát thực địa vv…
Tuy nhiên chế độ biên chế cũng có những hạn chế của nó đó là một số giáo sư sau khi có được biên chế thì không còn hứng thú với nghiên cứu nữa và gần như không có đóng góp gì đáng kể trong lĩnh vực của họ. Để tránh việc này nhiều trường ở Mỹ hiện nay có chính sách cấp biên chế với số lượng có hạn, còn lại là tuyển dụng theo hợp đồng hoặc thời hạn.
Hoàng Khánh Hòa
20.11.2009
[2] http://mup.asu.edu/research2008.pdf
[3] http://professor.rice.edu/professor/Faculty_Appointments,_Promotions,_Tenure.asp
Có ai nói rằng thầy giáo là người làm vườn chăm bón cây đời. Tôi nay đã là người làm vườn, cũng tại ngôi trường Quế Sơn này, tôi không quên cái ngày tôi hãy còn là một thứ trái xanh. Không chỉ là trái, hãy còn là hoa. Không chỉ là hoa, hãy còn là một nụ mầm.
Có vui vẻ gì chăng khi tôi nhắc lại cái ngày lũ chúng tôi đói áo đói cơm cố níu ghì con chữ. Cái ngày lũ học trò chúng tôi chung đèn chung sách, chung mộng đẹp, chung quần áo đến trường, chung cả những đặc điểm lẽ ra là phải riêng: Chung hắc lào, ghẻ ngứa, chung cả bệnh phù chân. Ôi cái thời vinh quang và đói khổ. Đói khổ thuộc về chúng tôi. Vinh quang cũng thuộc về chúng tôi. Có nụ mầm xưa chỉ kịp se mình làm chiếc lá xanh, thành chiếc lá vàng, lá rụng. Song cũng có nụ mầm đã kịp cho đời quả ngọt, kịp rụng xuống để mọc lên thành kĩ sư, bác sĩ, công nhân… Và tôi, từ cây đời ấy, nay lại mọc lên thành người làm vườn. Một vụ mùa bội thu của thầy cô.
Tôi nhớ về những người làm vườn năm xưa ấy. Thầy Cao Thiệp, hiệu trưởng, rất hấp dẫn chúng tôi mỗi câu chuyện dưới cờ. Đôi tay tài hoa của thầy Thu dạy toán, nét chữ cứ đều như cấy, và vòng tròn tròn hơn cả com pa. Thầy Thuyết đến lớp và ra lớp làm chuẩn mực cho bác phu trường điểm từng tiếng trống. Thầy Quang dạy văn, và chúng tôi thực sự đã được học văn… Và còn nhiều,nhiều những thầy những cô, trực tiếp hoặc chưa trực tiếp dạy chúng tôi con chữ, song mỗi ánh mắt, mỗi dáng đi cũng là một chấm, một nét vẽ nên cuộc đời chúng tôi hôm nay.

Tôi trở về trường Quế Sơn không vì trôi theo dòng khẩu hiệu “ tiếp tục sự nghiệp trồng người”. Mà tôi đã về, tự nguyện, có thể buồn, có thể vui, mà không thể dửng dưng. Nay đã hai mươi năm rồi tôi sống trong giấc mơ xưa, giấc mơ làm thầy giáo. Mộng đời thật đẹp, mà đời cũng thật gian nan. Có lúc vỗ cánh bay, có lúc đi khập khiễng. Có lúc làm người hào phóng. Cũng có lúc xót xa nhìn ánh mắt vợ con.
Ngày ấy tôi chỉ gặp thầy cô tôi vào những giờ lên lớp, những bữa cơm tập thể của thầy tôi chưa hề biết đến. Chúng tôi tưởng thầy giáo thì khỏi phải ăn. Khu tập thể giáo viên chỉ dành riêng cho những người độc thân, chúng tôi nghĩ thầy giáo thì chẳng cần có vợ. Và tôi đã chiêm ngưỡng ánh hào quang đơn độc và tinh khiết của thầy cô mình như trẻ em thích thú ngắm nhìn các vì sao xa.
Nay tôi đã về lại trường xưa mà khắc khoải làm thầy, nhớ oặn lòng về thầy cô , bè bạn. Thương và nợ những thầy, những cô, những đời thường đã cố hóa thân thành những vì sao xa xcho chúng tôi chiêm ngưỡng. Tôi thực sự hiểu cái giá để được làm thầy. Tôi hiểu, nhà văn thì có quyền chọn cửa để hóa thân- hiện thực hay lãng mạn. Nhà giáo chỉ duy nhất một độc chiêu chân truyền của bổn môn: Làm kiểu người lí tưởng.
Tôi về lại trường xưa làm một người thầy. Giữa bài giảng văn chợt nao nao nhớ về thằng bạn, thằng ấy giờ phiêu bạt phương trời để lại trong lòng tôi câu thơ nhoi nhói:
Cây phượng tương tư nối những hiên trường
Cho bên nớ bên ni cùng tâm sự

Cây phượng già năm xưa vẫn còn đó, khó nhọc với thời gian nhắc tôi nhớ lời thầy tôi thủ thỉ “chỉ cây phượng già hiểu người năm cũ, cứ âm thầm trút nhỏ một mùa thu.”
Tôi lại về trường Quế Sơn gắng gỏi làm thầy, qua đèo Le nhớ mùa sim chín muộn, nhớ con bé miệt mài cắm cúi để lưng đèo còn đọng giọt mồ hôi.
Nhớ ơi là nhớ! Thương ơi là thương!
Cậu học trò năm xưa lại về trên bục giảng. Chập chững làm thầy, khó nhọc làm thầy. Tôi đã dạy các em tôi những điều tôi chưa làm được. Tôi mời các em cùng tôi theo đuổi lí tưởng làm người. Lắm lúc rạng rỡ vui khi có những học trò vượt qua mình mà vươn vai hóa thành Phù Đổng. Thi thoảng buồn khi bạn bè xưa lối hẹn, bỏ cuộc, hoặc đành lòng làm một thứ hoa ôi!
…Rồi sau tôi , còn có cả một thế hệ học trò. Các em sẽ viết tiếp về thầy cô mình ngày ấy. Yêu toán, yêu luôn mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ. Yêu văn, cố nhịn ăn để có vóc dáng hao gầy. Yêu lí, yêu cả những ai thật thà gan góc… Còn yêu, sẽ yêu hơn những thầy, những cô đã khiêm nhường hóa thân cho các em có một ngày mai.
Hai mươi năm kỉ niệm, hai mươi năm làm thầy, với tôi, trường lớp đã là một thứ của riêng, vừa muốn phô phang, vừa muốn âm thầm cất giấu. Nói ra và im lặng. Một thứ ngôn ngữ dở dang. Nhưng tôi vẫn chưa đi hết một đời nhà giáo. Hãy để thời gian viết tiếp những dòng xanh về chốn sinh thành. Và những dòng tâm sự của tôi, ước ao sao hãy cứ là tiếng nói của trẻ thơ vừa rời khỏi vòng nôi- bập bẹ khuyết mòn ý tưởng. Song rất mực chân thành. Như một bài thơ không vần. Mùa tặng mình. Tôi khe khẽ xướng ngâm.
Quế Sơn, Nguyễn Tấn Ái.