Tag Archives: trà đàm

Một vị Phật

Ở Tokyo vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, có hai vị thầy với tính cách hoàn toàn khác nhau. Unsho là vị thầy Chân Ngôn Tông, giữ mọi lề luật của nhà Phật rất kỹ lưỡng. Ông không bao giờ uống rượu, và không bao giờ ăn gì sau 11 giờ sáng. Vị thầy kia là Tanzan, một giáo sư triết tại Đại Học Hoàng Gia, chẳng bao giờ giữ lề luật gì. Khi muốn ăn là ăn, khi muốn ngủ ngày là ngủ.

Ngày nọ Unsho đến thăm Tanzan lúc Tanzan đang uống rượu. Phật tử không được cho ngay cả một giọt rượu chạm lưỡi mình.

“Ê, anh ơi, uống một ly nhé.”

“Tôi không bao giờ uống rượu!” Unsho nhấn mạnh nghiêm trọng.

“Người không uống thì không phải là người,” Tanzan nói.

“Anh nói tôi không là người chỉ vì tôi không mê uống rượu!” Unsho nói giận dữ. “Nếu tôi không là người thì tôi là gì?”

“Một vị Phật,” Tanzan trả lời.

Bình:

• Mục đích tối hậu của Phật pháp là đưa đến Giác ngộ, tức là tỉnh thức. Người Giác Ngộ đến Niết Bàn, tức là “lửa đã tắt”—Tâm Tĩnh Lặng.

Tất cả những kinh điển, những chùa chiền, những tăng đoàn, những qui luật được dựng ra chỉ để giúp người ta đạt được mục tiêu tối hậu–Tâm Tĩnh Lặng. Chúng chỉ là dụng cụ, là phương tiện. Có những thứ phương tiện này thì tốt, nhưng nếu không có thì cũng không hề gì, nếu người ta vẫn có thể giác ngộ mà không cần chúng. Phương tiện nào dùng cũng được và không dùng cũng được. Người ta có thể đi bộ, đi xe đạp, đi xe máy, đi xe hơi, đi máy bay để đến một nơi nào đó. Chẳng cách đi nào là bắt buộc cả.

• Uống rượu mà có tâm Phật, tức là nhìn người khác là Phật, như Tanzan, thì có uống cũng chẳng hề hấn gì.

Ngược lại, giữ mọi lề luật gắt gao mà tâm sân rất nhậy như Unsho, thì cũng chẳng được gì.

• Trên đường tu tập, ta phải biết điều gì là mục tiêu, điều gì chỉ là phương tiện. Rất tiếc là nhiều người thích chấp vào hình thức mà quên nội dung, chấp vào phương tiện mà bỏ rơi mục đích.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

A Buddha

In Tokyo in the Meiji era there lived two prominent teachers of opposite characteristics. One, Unsho, an instructor in Shingon, kept Buddha’s precepts scrupulously. He never drank intoxicants, nor did he eat after eleven o’clock in the morning. The other teacher, Tanzan, a professor of philosophy at the Imperial University, never observed the precepts. When he felt like eating, he ate, and when he felt like sleeping in the daytime, he slept.

One day Unsho visited Tanzan, who was drinking wine at the time, not even a drop of which is supposed to touch the tongue of a Buddhist.

“Hello, brother,” Tanzan greeted him. “Won’t you have a drink?”

“I never drink!” exclaimed Unsho solemnly.

“One who does not drink is not even human,” said Tanzan.

“Do you mean to call me inhuman just because I do not indulge in intoxicating liquids!” exclaimed Unsho in anger. “Then if I am not human, what am I?”

“A Buddha,” answered Tanzan.

#13

Phúc cho người xây dựng hòa bình

Chào các bạn,

Nếu nhìn chung quanh ta, chúng ta thấy hình ảnh của tranh chấp và chiến tranh hàng ngày—giữa các quốc gia, các khối tôn giáo, các khối chủng tộc, các khối ý‎ thức hệ… Trong một nước thì phe chính trị này choảng nhau với phe kia, trong sở làm thì bạn bè đâm sau lưng nhau, trong gia đình thì vợ chồng cha mẹ con cái anh chị em gây gỗ nhau… Cho nên…

… Phúc cho người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thượng đế.

Đây là câu nói của Chuá Giêsu trong Beatitudes, một trong tám phúc lớn, mở đầu Bài Giảng Trên Đồi Cao nổi tiếng. Con của Thượng đế là chức danh lớn nhất mà một người có thể có. Đối với ngài tổng thống, chẳng có chức danh nào trong thiên hạ quan trọng cho bằng “con của tổng thống.” Cho nên câu nói Beatitudes này nhấn mạnh rất rõ vai trò của xây dựng hòa bình, hay hòa giải, trong nền văn mình con người của chúng ta.

Nhưng mà muốn xây dựng hòa bình trước hết ta phải có hòa bình từ trong chính ta, phải không các bạn? Nếu ta còn thói quen hơn thua, bắt bẻ, đì nhau, cãi nhau, chưởi nhau, đánh nhau…, dù là đúng hay sai, thì rất khó để ta xây dựng hòa bình.

Muốn tránh tranh chấp và chiến tranh, qui luật ai cũng biết là “nhịn nhục và xả bỏ”. Nhưng nói thì dễ làm thì khó. Đa số mọi người sẽ nói “Nhịn nhục và xả bỏ, chỉ khi nào ĐÁNG nhịn nhục và xả bỏ.” Nhưng, chỉ một chữ “đáng” đó cũng đủ triệt tiêu hết tất cả cố gắng của ta rồi. Bởi vì, khi ta bị đụng chạm, hầu như chẳng bao giờ ta thấy “đáng” nhịn nhục và xả bỏ. Hoặc là vì “Chuyện này không phải chuyện nhỏ, không thể bỏ qua được”, hoặc “Bỏ qua nó sẽ coi thường và làm tới,” hoặc “Để yên nó sẽ làm hại đến nhiều người khác nữa,” hoặc “Không trị những người như nó thì xã hội không khá lên được”… Và, tất cả các lý lẽ này đều đúng. Vì vậy, khi chúng ta nói đến chữ ĐÁNG nhịn nhục, thì hầu như ta đã vất hết mọi nhịn nhục vào thùng rác rồi.

Vấn đề còn phức tạp hơn, vì khi ta đau đớn hay nóng giận, khuynh hướng tự nhiên của con người chúng ta là “đánh”, chứ không phải “nhịn”. Những lúc đó toàn bộ cảm xúc và suy tư của ta thiên về “đánh” hơn là “nhịn”.

Cho nên nhịn nhục hoặc xả bỏ, trong tất cả mọi truyền thống tâm linh, từ Phật Thích Ca đến Chúa Giêsu, là một qui luật vô điều kiện—nhịn nhục vô điều kiện, xả bỏ vô điều kiện. Tức là, nhịn nhục xả bỏ khi không đáng nhịn nhục xả bỏ, như khi người kia sai 100%, hay hắn làm ta đau đến mức hắn nên bồi thường lớn mới lấy lại công lý, hay khi hắn phải bị đánh một trận tơi tả thì xã hội mới lấy đó làm gương… Khi việc không đáng nhịn, người không đáng bỏ qua, mà ta nhịn nhục và xả bỏ, đó mới là nhịn nhục xả bỏ. Yêu tất cả mọi sinh linh, kể cả kẻ thù.

Các lời dạy này, chúng ta đểu đã nghe và đã thường bỏ ngoài tai, vì ta cho rằng nó không thực tế, không hạp với đời sống hàng ngày ta phải đối phó. Và vì vậy tất cả chúng ta tiếp tục sống kiểu hòn đất ném đi hòn chì ném lại, và do đó đa số các gia đình và các quốc gia đều có lục đục, thế giới luôn luôn có chiến tranh.

Nhưng, nếu các lời dạy nhịn nhục và xả bỏ vô điều kiện xa xôi với thực tế, tại sao chúng có thể sống đến mấy ngàn năm, và vẫn được nhắc nhở học hỏi hàng ngày, trong khi một l‎ý thuyết kinh tế lớn của thế giới của một đại kinh tế gia, nếu may mắn sống khỏe mạnh được 50 năm thì đó đã là chuyện rất hiếm?

Thực ra, tự trong tâm thức sâu thẳm, mỗi người chúng ta đều biết những lời dạy về nhịn nhục xả bỏ vô điều kiện là đúng, cho nên các lời dạy này mới sống được mấy ngàn năm. Chỉ là ta không muốn thực hành khi ta không thích thực hành, thế thôi.

• Nhưng đương nhiên là có những trường hợp không thể nhịn và không nên nhịn. Ví dụ, một đám cướp vào một ngôi làng nhỏ cướp của, hãm hiếp, giết người. Đương nhiên là ta không nên nhịn mà nên đánh. Hoặc khi có người cầm dao đòi đâm ta, ta không thể ngồi yên chịu đâm được. Và ta có thể kể nhiều ví dụ khác, khi đời sống an vui và hạnh phúc của chính ta hay của xã hội đòi hỏi chúng ta phải đứng lên tích cực chiến đấu.

Thế thì khi nào nhịn nhục xả bỏ, khi nào không nhịn nhục xả bỏ?

Đây thực là vấn đề phức tạp hầu như truyền thống đạo đức và tâm linh nào cũng gặp phải. Và không thể có câu trả lời cụ thể vì mỗi câu trả lời tùy thuộc vào những điều kiên thực tế của vụ việc liên hệ. Không thể trả lời khi không có dữ kiện thật của đời sống.

Tuy nhiên, môt cách chung chung, có lẽ mọi người đều đồng ‎ý với hai tiêu chuẩn sau:

1. Khi có người làm sai trái
2. Và cái hại quá lớn cho bản thân ta, gia đình ta, hay xã hội của ta

thì chúng ta cần ra tay ngăn chận. Tức là không nên nhịn nhục.

• Như vậy cho đến lúc này, phương thức sống của chúng ta có thể tóm tắt như sau:

1. Luôn luôn nhịn nhục và xả bỏ,
2. Ngoại trừ khi, (a) có người làm sai trái, và (b) cái hại quá lớn cho bản thân ta, gia đình ta, hay xã hội của ta.

Công thức này phù hợp với lời dạy của các bậc thánh nhân mà trong thâm tâm ta vẫn biết là đúng, và vẫn thực tế với đời sống hàng ngày.

Và công thức này là đảo ngược của công thức nhiều người chúng ta đang dùng hàng ngày. Đa số chúng ta quen phản ứng theo kiểu: “Tôi đương nhiên trả đũa, trừ khi đáng nhịn nhục xả bỏ”.

Công thức từ lời dạy các thánh nhân là “Tôi đương nhiên nhịn nhục xả bỏ, trừ khi thực tế đòi hỏi tôi không nên nhịn nhục xả bỏ.”

Một đằng lấy trả đũa làm gốc, một đằng lấy xả bỏ làm gốc.

Chúc các bạn một ngày hòa bình.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Sức mạnh và Dũng cảm

Cần sức mạnh để kiên quyết
Cần dũng cảm để nhẹ nhàng

Cần sức mạnh để phòng thủ
Cần dũng cảm để hạ khiên

Cần sức mạnh để chinh phục
Cần dũng cảm để đầu hàng

Cần sức mạnh để chắc chắn
Cần dũng cảm để nghi ngờ

Cần sức mạnh để hòa nhập
Cần dũng cảm để nổi bật

Cần sức mạnh để cảm nhận được nỗi đau của bạn mình
Cần dũng cảm để cảm nhận được nỗi đau của chính mình

Cần sức mạnh để giấu đi những nỗi đau của mình
Cần dũng cảm để cho người khác thấy chúng

Cần sức mạnh để chịu đựng lạm dụng
Cần dũng cảm để chấm dứt nó

Cần sức mạnh để đứng một mình
Cần dũng cảm để dựa vào người khác

Cần sức mạnh để yêu
Cần dũng cảm để được yêu

Cần sức mạnh để sống còn
Cần dũng cảm để sống

~ Unknown Author
~ Hoàng Khánh Hòa dịch

.

Strength & Courage

It takes strength to be firm.
It takes courage to be gentle.

It takes strength to stand guard.
It takes courage to let down your guard.

It takes strength to conquer.
It takes courage to surrender.

It takes strength to be certain.
It takes courage to have doubt.

It takes strength to fit in.
It takes courage to stand out.

It takes strength to feel a friend’s pain.
It takes courage to feel your own pain.

It takes strength to hide your own pains.
It takes courage to show them.

It takes strength to endure abuse.
It takes courage to stop it.

It takes strength to stand alone.
It takes courage to lean on another.

It takes strength to love.
It takes courage to be loved.

It takes strength to survive.
It takes courage to live.

Trên trung bình 6%

Chào các bạn,

Nếu đứng trong một nhóm người cao khoảng 1m6, ta cần phải cao bao nhiêu để có thể “vượt trội”, dễ nhận ra? 3m2 ? 2m5 ? Chắc là không cần phải cao thế, phải không các bạn? Cũng không cần phải đến 1m8. Cỡ 1m7 là ta đã vượt lên hẳn mọi người rồi, và một người đứng xa có thể nhận ra ta rất dễ dàng rồi. Tức là, trong một nhóm người trung bình ta không cần phải hơn mọi người nhiều, không cần hơn gấp đôi, hay gấp rưỡi, hay 25%, hay ngay cả 10%. Chỉ cần cở 6% (0,1m/1,6m) là đủ để vượt trội.

Việc vĩ đại đến mức nào thì cũng chỉ cần hơn người đứng gần mình một tí xíu cỏn con thôi. Vô địch chạy nước rút thế giới có thể về đến đích trước người thứ hai dưới 1/10 giây đồng hồ. Vô địch quyền Anh chỉ cần đứng ngất ngư gần chết trong khi địch thủ không đứng dậy được sau 10 tiếng đếm của trọng tài. Cựu vô địch cờ vua Savielly Grigorievitch Tartakower nói: “Chiến thắng đến với kỳ thủ nào làm lầm lỗi trước lầm lỗi cuối cùng.” Người thắng chỉ cần làm ít hơn người thua một lỗi.

Chỉ cần hơn một tí là chúng ta đã có thể vượt trội.

Cho nên chẳng nên ngồi đó than thở sao trời không cho tôi IQs đến mức giải một bài toán nhân 20 con số trong vòng 2 giây đồng hồ, hay sắc đẹp làm Elizbeth Taylor phải xấu hổ, hay sức mạnh làm Hercules phải vái làm thầy…

Và nếu chỉ cần 6% là có thể trở thành vượt trội thì ai trong chúng ta cũng có thể trở thành vượt trội được cả, vì khá lên bằng 5 bằng 10 thì khó chứ 6% thì chắc cũng chỉ khó như ăn cháo lòng ở ngã bảy là cùng.

Nhưng tại sao ta phải vượt trội vậy các bạn?

Tại vì phải vượt trội một tí ta mới có thể làm gương cho các người khác noi theo, nhất là những người nhỏ hơn, trẻ hơn, những người nhìn lên ta để học hỏi, để tìm một dẫn dắt nào đó.

Thế giới (và đất nước ta) có nhiều người trung bình quá. Người trung bình là người: hòn đất ném đi hòn chì ném lại, nói thì úp úp mở mở, nói một nửa giấu một nửa cố tình làm người nghe hiểu lầm, thiếu thành thật, sẵn sàng gian dối để có lợi cho mình, tự ái vặt, ganh tị, coi thường người nghèo khổ, áp bức người cô thế, ai sống chết mặc ai tôi chỉ cần lo cho thân tôi…

Các bạn có thể tự làm một danh sách của những gì bạn cho là trung bình. Rồi cố nâng cả danh sách của mình lên cao hơn 6%. Vậy là thái độ và phong cách của bạn sẽ vượt trội hẳn lên, đến nỗi mọi người gặp bạn, nói chuyện vài ba câu là nhận ra phong cách lạ thường của bạn ngay. Người nhậy cảm có thể nhận ra ngay khi vừa bắt tay chưa kịp nói gì. Và như thế, tự nhiên là những người khác, nhất là bạn bè và con em, sẽ âm thầm được ảnh hưởng thái độ và cách sống tốt của bạn chi phối, mà bạn chẳng tốn công giáo huấn và hay làm thầy ai cả.

Thành thật hơn 6%
Bớt ích kỷ hơn 6%
Nhịn nhục hơn 6%
Lo lắng cho xã hội hơn 6%
Yêu mình ít hơn 6%
Yêu xã hội nhiều hơn 6%
Bớt kỳ thị hơn 6%
Can đảm hơn 6%
Ít a dua theo đám đông hơn 6%
Ít chê bai hơn 6%
Khen người nhiều hơn 6%
Bớt cau có 6%
Hay cười hơn 6%
Bớt nghiêm nghị 6%
Hay giễu hơn 6%
…. 6% …6% ….6%

Chúng ta thường nghĩ đến các việc lấp biển vá trời và cho là ta không bao giờ đủ sức làm gì cho đời cả. Thế giới không có, và cũng không cần có, Nữ Oa.

Chỉ cần làm việc chút xíu trong khả năng hàng ngày của mình thôi. Mỗi chú mối chỉ làm công việc nhỏ xíu của chàng ta, để xây dựng ụ mối lớn hơn chàng ta vài trăm triệu lần.

Một tiếng gảy móng tay có thể vang động đến vô lượng thế giới.

Trên trung bình 6% .

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Xin Chớ Quên

Sự hiện diện của bạn là món quà cho cả thế gian.
Bạn là duy nhất và không ai giống bạn cả.
Cuộc sống của bạn hoàn toàn tùy thuộc vào mong muốn của bạn.
Hãy biết tận hưởng từng giây phút trọn vẹn một ngày.
Hãy đếm những niềm hạnh phúc, đừng đếm những muộn phiền .
Bạn sẽ vượt qua tất cả, dù khó khăn dường nào.
Có vô vàn câu trả lời trong chính bản thân bạn.
Hãy hiểu biết, can đảm và mạnh mẽ.
Đừng tự đặt giới hạn cho chính bản thân mình.
Những ước mơ đang chờ bạn thực hiện.
Đừng phó mặc những quyết định quan trọng cho số phận .
Hãy vươn đến đỉnh cao của chính bạn, vươn tới ước mơ và khát vọng.
Không gì lãng phí năng lượng của bạn hơn là ngồi một chỗ lo lắng
Một vấn đề càng kéo dài, càng trở thành nặng nề
Đừng nhìn sự việc thành ra trầm trọng.
Hãy sống đời thanh bình, đừng sống đời tiếc nuối.
Hãy nhớ rằng một tình yêu nhỏ có thể đi cả một quãng đường dài.
Cũng nhớ rằng nhiều thứ sẽ ra đi mãi mãi không bao giờ trở lại.
Hãy nhớ rằng tình bạn là một sự đầu tư khôn ngoan.
Cuộc sống thật quý giá khi người ta cùng nhau.
Giữ sức khỏe, hi vọng và hạnh phúc
Đừng bao giơ quên dù chỉ một ngày
Bạn độc đáo dường nào
Thượng đế đã tạo ra bạn vì một mục đích
Bạn không có nguồn gốc từ loài vượn
Bạn được tạo ra tuyệt vời và đẹp đẽ
Hãy đảm bảo bạn tạo ra sự khác biệt nơi bạn có mặt và
Bạn hãy làm điều đó hôm nay.

Huỳnh Huệ dịch

Don’t Ever Forget

Your presence is a gift to the world,
You’re unique and one of a kind.
Your life can be what you want it to be.
Take it one day at a time.
Count your blessings, not your troubles,
And you’ll make it through what comes along.
Within you are so many answers.
Understand, have courage, be strong.
Don’t put limits on yourself.
Your dreams are waiting to be realized.
Don’t leave your important decisions to chance.
Reach for your peak, your goal, and your prize.
Nothing wastes more energy than worrying.
The longer a problem is carried, the heavier it gets.
Don’t take things too seriously.
Live a life of serenity, not a life of regrets.
Remember that a little love goes a long way.
Remember that a lot goes forever.
Remember that friendship is a wise investment,
Life’s treasures are people… together.
Have health and hope and happiness.
And don’t ever forget for even a day…
How very special YOU are!
God has created you for a purpose.
You did not come from apes.
You are wonderfully and beautifully made.
Make sure you make a difference where you are and you do it today.

Unknown

Thánh thi Hafiz: Một Thế Giới Mới – Những Tia Nắng

Chào các bạn,

Hafiz (đôi khi còn viết là Hafez) (1320-1389), với tên thật là Shams-ud-din Muhammad, là thi sĩ được yêu chuộng nhất của đế quốc Persia (Iran cũ), và là một cây đại thụ trong nền văn hóa Persia.

Ông sinh ra ở Shiraz và sống gần cả đời ở Shiraz, nơi ông trở thành một vị thầy Sufi nổi tiếng. Sufism là một truyền thống Hồi giáo chú trọng đến hướng vào nội tâm, suy tưởng, khổ hạnh, và trực nghiệm tâm linh.

Cho đến khi Hafiz qua đời, người ta nghĩ là ông đã viết khoảng 5 ngàn bài thơ, nhưng chỉ có từ 500 đến 700 bài còn sót lại ngày nay. Divan (tập thơ) của ông là một tác phẩm kinh điển trong văn học Sufism.

Tác phẩm của Hafiz được Tây phương biết đến qua Geothe, và sự nồng nhiệt của Goethe kích thích Ralph Waldo Emerson dịch Hafiz vào thế kỷ 19.

Thơ của Hafiz được nhiều tác giả khác nhau ưa chuộng, như Nietzsche, Pushkin, Turgenev, Carlyle, và Garcia Lorka. Ngay cả Sherlock Holmes, viết tiểu thuyết trinh thám, cũng trích thơ Hafiz trong một câu chuyện về Arthur Conan Doyle.

Năm 1923, Hazrat Inayat Khan, người thầy Ấn Độ có công giới thiệu Sufism đến Tây phương, đã nói: “Các lời thơ của Hafiz đã chiến thắng từng con tim nghe chúng.”

Sau đây mời các bạn đọc hai bài thơ của Hafiz: Một Thế Giới Mới, và Những Tia Nắng.

Hafiz là thi sĩ của Sufism, truyền thống tâm suy tưởng sâu sắc nhất của Hồi giáo, nên chúng ta cần để ý ‎ đến các biểu tượng trong thơ. Xin xem chú thích cuối bài.
.

Một thế giới mới

Hãy dâng hoa, rót rượu thánh, (*)
Chẻ trời và bắt đầu tái tạo thế giới.

Nếu các lực đớn đau xâm nhập mạch máu của những kẻ đang yêu,
người bưng chén thánh và tôi sẽ tạt trôi cám dỗ đó. (**)

Với nước hoa hồng, chúng ta sẽ làm dịu ly rượu thẩm đắng;
Chúng ta sẽ thêm đường vào lửa để làm ngọt những đợt khói bay.

Nào nhạc sĩ, cầm đàn lên, chơi một bản nhạc tình;
hãy vũ, hãy ca hát cả đêm, hãy lễ hội điên cuồng.

Là cát bụi, ơi Gió Tây, hãy đưa chúng tôi lên các Thiên Đàng,
bay tự do trong ánh sáng sướng vui của Tạo Hóa.

Nếu trí óc muốn trở về nhưng con tim khóc lóc xin ở lại,
đó là cuộc tranh cãi cho tình yêu suy gẫm.

Than ôi, những bài ca và những ngôn từ này chẳng nghĩ lý gì trên mảnh đất này;
đến đây, Hafez, hãy cùng tạo lập một thế hệ mới.

Chú thích:

(*) Trong truyền thống Tây phương và Trung Đông, rượu nho là của lễ hiến dâng trong các dịp lễ hội, thờ tự. Ngày nay vẫn thế trong như ta thường thấy trong các nhà thờ Thiên chúa giáo.

Rượu tượng trưng cho sức sống, cho mạch máu. Trước khi bị tử hình, chúa Giêsu nâng chén rượu trong tay, chia cho các môn đệ, và nói: “Này là máu ta…”

(**) Người bưng chén (cupbearer): Ngày xưa mỗi vua có một người mang chén uống rượu của mình, để tránh bị đầu độc. Vua chỉ uống rượu trong chén của vua, do cupbearer mang theo mình. Đây là người trung thành nhất của vua, có thể chết vì vua. Thường khi, cupbearer uống thử trước khi vua uống, để tránh vua bị đầu độc.

Tu sĩ cấp cao thường được xem là cupbearer của Thượng đế.

Trong bài này, cupbearer nên được hiểu là người trung thành với Thượng đế và chỉ dạy của Ngài (không hẳn là tu sĩ).

(Trần Đình Hoành dịch từ Anh ngữ và chú giải)

.

A New World

Let’s offer flowers, pour a cup of libation,
split open the skies and start anew on creation.

If the forces of grief invade our lovers’ veins,
cupbearer and I will wash away this temptation.

With rose water we’ll mellow crimson wine’s bitter cup;
we’ll sugar the fire to sweeten smoke’s emanation.

Take this fine lyre, musician, strike up a love song;
let’s dance, sing all night, go wild in celebration.

As dust, O West Wind, let us rise to the Heavens,
floating free in Creator’s glow of elation.

If mind desires to return while heart cries to stay,
here’s a quarrel for love’s deliberation.

Alas, these words and songs go for naught in this land;
come, Hafez, let’s create a new generation.

Hafiz (1320-1389) (Orinial language: Persian/Farsi)
English translation: Haleh Pourafzal and Roger Montgomery

Những tia nắng

Ơi, Người Chủ Rượu, mặt trời đã lên. Hãy rót rượu đầy ly tôi. (***)
Nhanh lên, vì đêm sẽ đến, và ta sẽ phải ngủ.

Ngoài kia, những kẻ tiên tri chết chóc đang tuyên bố ngày tận thế.
Nhanh lên! cho chúng tôi thêm rượu ngọt của Ngài!

Nếu bạn tìm danh tiếng và vinh quang từ mặt trời,
Thì ngủ tiếp đi; chỉ có trí tuệ thánh hóa trong những tia nắng.

Khi Ngày Phán Xét đến và bầu trời biến thành bình sành, (****)
Hãy biến xương sọ của bạn thành ly sành, và đổ vào đó rượu trong bình này.

Bây giờ không phải là thời nói chuyện vặt vảnh với bạn bè;
Chỉ nên nói về ly và rượu. (*****)

Hafiz, đứng dậy! Ra khỏi gường. Cậu có việc làm,
Và thờ kính rượu là việc duy nhất đáng làm. (******)

Chú thích:

(***) Người Chủ Rượu (Người Mang Rượu, Winebringer), nên được hiểu là Thượng đế.

Rượu là sức sống từ Thượng đế.

(****) Ngày Phán Xét: Theo một số tôn giáo, Ngày Tận Thế là Ngày Phán Xét, Thượng đế sẽ đến để phán xét con người. Con người sẽ được sống lại từ sự chết để chịu phán xét.

Hafiz xem ra không xem ngày này như là các tiên tri tận thế đang nói. Khi ngày này đến, Hafiz nói như giễu nhưng đồng thời cũng rất nghiêm chỉnh: Bầu trời sẽ thành bình rượu lớn, và ta hãy biến xương sọ (của hài cốt được tái sinh của ta) thành ly rượu nhỏ, tiếp tục uống, tiếp tục ca tụng và thụ hưởng sự sống từ Thượng đế.

(*****) Ly là chính ta, rượu là sức sống từ Thượng đế.

(******) Chỉ trân quý và thờ phụng sức sống Thượng đế cho ta mới là điều duy nhất quan trọng, tận thế hay không tận thế.

(Trần Đình Hoành dịch từ Anh ngữ và chú giải)

.

Sun Rays

O Winebringer, the sun is up. Fill my goblet full of wine.
Hurry, for night will come, and then we’ll have to sleep.

Outside, the doomsayers are announcing the end of the world.
Quick! give us some of Your delicious wine!

If it is fame and glory that you are looking for from the sun,
Then go back to sleep; there is only divine knowledge to its rays.

When Judgment Day arrives and the sky becomes a jug of poor clay,
Make your skull into a clay cup, and fill it with this pitcher’s wine.

Now is not the time to be making small talk with your friends;
Speak only of the cup and of the wine.

Hafiz, get up! Get out of bed. You’ve work to do,
And the worship of wine is all the worthwhile work there is!

Hafiz (1320-1389) (Original language: Persian/Farsi)
English translation: Thomas Rain Crowe

Phúc cho người lãnh đạo

Phúc cho người lãnh đạo biết được đi đến đâu
Tại sao phải đến đó và làm sao để đến đó.

Phúc cho người lãnh đạo không biết nản chí
Không trình chứng cớ để ngưng việc

Phúc cho người lãnh đạo biết làm thế nào để lãnh đạo
Không trở nên độc tài

Phúc cho người lãnh đạo biết dẫn dắt vì lợi ích của những người được quan tâm nhất
Không vì thỏa mãn cá nhân

Phúc cho người lãnh đạo xây dựng những nhà lãnh đạo
Trong khi lãnh đạo

Phúc cho người lãnh đạo với cái đầu trên mây
Và bàn chân trên mặt đất

Phúc cho người lãnh đạo biết xem xét lãnh đạo là
Một cơ hội để phục vụ.

~ Christopher News Notes

.

Hoàng Khánh Hòa dịch

Blessed is the leader who knows where to go,
Why to go there and how to get there.

Blessed is the leader who knows no discouragement,
Presents no alibi.

Blessed is the leader who knows how to lead
Without being dictatorial.

Blessed is the leader who leads for the good of the most concerned;
Not for personal gratification.

Blessed is the leader who develops leaders
While leading.

Blessed is the leader with a head in the clouds,
And feet on the ground.

Blessed is the leader who considers leadership
An opportunity to serve.

Nghệ thuật giao tiếp

Mến chào các bạn,

Cho phép Thinh_hoa được gởi vào vườn chuối bài viết sau đây ,để  mọi người tham khảo. Hy vọng sẽ là” liều thuốc”  hữu hiệu cho mọi người vào tham quan ĐCN, xin cảm ơn các bạn.

NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP

1. Sự giao tiếp bằng ngôn ngữ:

Trong giao tiếp, ngôn ngữ là công cụ quan trọng số một. Hiểu biết và khéo léo trong việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp là một trong yếu tố góp phần gây thiện  cảm đối với người đối diện, tạo sự thành công trong giao tiếp. Chúng ta có thể tham khảo những ý kiến dưới đây của Giáo sư Nguyễn Văn Lê về sự giao tiếp bằng ngôn ngữ:

1.1 Lời nói phải đúng vai xã hội, đúng cương vị xã hội của con người.Khi giao tiếp với ai, chúng ta hãy định hướng cho cách giao tiếp ứng xử của mình sao cho phù hợp, không tự phụ kiêu căng mà cũng không tự ti, khúm núm.

1.2 Lời nói phải phù hợp với trình độ người nghe. Trình độ quá chênh lệch về ngôn ngữ giữa người nói và người nghe có thể gây khó hiểu hoặc hiểu lầm.

1.3 Bảo đảm nguyên tắc truyền đạt một thông điệp : rõ ràng, rành mạch, không có những từ, những câu thừa, nhưng mặt khác lại cho phép ở một số chỗ nào đó cần có sự lặp lại ít nhiều với mục đích nhấn mạnh, nêu bật những ý cần thiết.

1.4 Cách nói cơ giới và cách nói tình thái:

+ Nói cơ giới là nói thẳng, nói vỗ mặt. Ví dụ: tôi không có, tôi không cho,tôi bỏ, tôi cắt, anh nói sai.

+ Nói tình thái là nói tế nhị, có tình cảm, làm cho người nghe có thể tiếp thu thỏai mái nội dung câu nói. Ví dụ:Tôi e rằng đánh giá như thế là chưa thỏa đáng.Hai vấn đề đó tưởng không nên nhập làm một.Nội dung tốt, chỉ tiếc là thái độ hơi gay gắt…

Khoanh tay lại, hứa với cô đi nào!Có muốn được cô khen không?Có muốn được lên lớp không?…

Trái với nói tình thái là nói nặng, nói hù dọa:

Chú ý vào sách! Cô gọi, không đọc tiếp được là cô cho điểm 1 đấy nhé!

1.5 Cách nói chỉ rõ và nói gợi, nói ví :

Nói chỉ rõ sự việc là nói trực diện, như 2 với 2 là 4.Nói gợi là nói đến một dấu hiệu gì đó có liên quan để người nghe tự hiểu. Nói ví là một cách nói gợi,dùng sự so sánh

Ví dụ để phê bình một bài diễn văn nhậm chức sáo rỗng: “ Bài này cho đăng vào một tạp chí văn hóa nghệ thuật thì tuyệt!

1.6 Cách nói triết lý: Cách nói này được dùng để giảm thiểu nỗi bất hạnh của người đối diện. Ví dụ:Của đi thay người!

1.7 Nói hiển ngôn và nói hàm ngôn:

Hiển ngôn là lời nói có nghĩa biểu hiện trực tiếp ra ngòai, còn hàm ngôn là lời nói có nghĩa ẩn bên trong, đòi hỏi người nghe phải cố gắng để hiểu, để giải mã câu nói.

Ví dụ:

+ Ở trong phòng họp, A nói:Nóng quá!, B nói:Ừ, nóng như lửa! Câu nói của A trong trường hợp này này là hiển ngôn, không có hàm ngôn.

+ Ở nhà riêng của B, A nói:Nóng quá! B bảo:Có chai bia đây! Câu nói của A vừa là hiển ngôn ( trời nóng ) vừa là hàm ngôn ( cho uống gì đi )

Theo Ducrot, hiển ngôn là cái người ta nói ra, còn hàm ngôn  là cái người ta muốn mà không nói ra.

1.8 Nói mỉa mai, châm chọc: Theo Paul Guth và Michelle Maurois, tự ái rất nên giữ vì đó là tình cảm của con người có phẩm cách. Vì vậy chúng ta nên tôn trọng cái tự ái của mỗi người và tránh không làm tổn thương đến nó bằng những cách nói gợi ý, tế nhị hơn. Đừng nói đùa châm chọc, nhất là đối với những người quá nhạy cảm.

1.9 Nói gây bệnh cho người khác: Làm gì mà bà xanh xao, tiều tụy đến thế?

Một câu nói đó có thể làm tiêu tan công hiệu của mười hộp thuốc bổ, người nghe có thể chưa bị bệnh nhưng nghe câu nói đó có thể bị ám thị mà bệnh thật.

2. Những điều tối kỵ trong ngôn ngữ giao tiếp :

+ Nói năng nửa chừng rồi dừng lại hoặc cướp lời người đang nói, làm nhiễu thứ tự hoặc luồng suy nghĩ của người đó.

+ Không nói rõ và giải thích đầy đủ làm người nghe cảm thấy đột ngột,khó hiểu đề tài nói chuyện của bạn, không nêu ra những trọng tâm, những khái quát, làm người tiếp chuyện khó theo dõi mạch chuyện.

+ Nói sai đề tài,không quan tâm tới điều mình nói.

+ Nói thao thao bất tuyệt,không ngừng nêu ra những câu hỏi làm người tiếp chuyện có cảm giác bạn yêu cầu hơi nhiều.

+ Không trả lời thẳng vào câu hỏi mà người khác nêu ra, quanh co dài dòng gây nên cảm giáccho người nghe là  bạn là người không trung thực.

+ Tự cho rằng mọi điều mình đều biết cả.

+ Làm ra vẻ hiểu sâu biết rộng

+ Phát triển câu chuyện không tập trung vào chủ đề chính làm người tiếp chuyện cảm thấy nhàm chán.

+ Ngắt bỏ hứng thú nói chuyện của người khác để ép người đó phải chuyển sang nói về đề tài mà bạn thích.

+ Thì thầm với một vài người trong đám đông.

+ Dùng ngôn ngữ quá bóng bẩy

+ Chêm những câu tiếng nước ngòai trong câu nói của mình một cách tùy tiện

+ Đột ngột cao giọng

+ Dùng những lời quá thân mật so với mức độ quan hệ

+ Dùng những từ đệm không cần thiết

+ Nói giọng khích bác, chạm vào lòng tự ái của người khác.

3. Hãy biết khéo léo sử dụng ánh mắt:

+ Nếu bạn có việc cần nhờ người khác, trong khi chờ đợi người ấy trả lời thì mắt bạn cần nhìn xuống dưới một cách tự nhiên.

+ Tuyệt đối không bao giờ nhìn chằm chằm vào chỗ khiếm khuyết trên thân thể của người đối diện. Mặc dù chỉ là vô tâm nhưng người bị nhìn sẽ cảm thấy rất khó chịu

+ Bạn có việc, cần tới bàn giấy của lãnh đạo thỉnh thị,tuyệt đối không nên nhòm ngó vào vào các giấy tờ, văn kiện trên bàn.Đó không chỉ là hiếu kỳ, tò mò mà còn là một hành vi thất lễ, khiếm nhã.

+ Khi đứng trên bục nói chuyện trước chỗ đông người, ánh mắt bạn cần bao quát chung quanh, vừa lấy được bình tĩnh, vừa tạo được quan hệ tốt, thông cảm giữa người nói và người nghe.

+ Khi nói chuyện với người già, không nên đứng quá xa. Tốt nhất bạn nên tới gần bên cạnh, ánh mắt nhìn thẳng. Như vậy vừ thể hiện sự tôn trọng, lại vừa thân mật.

+ Trước khi kết thúc lời nói, có thể đưa ánh mắt một cách tự nhiên ra nơi khác để tạo một tín hiệu kết thúc cho những người đối diện biết.

+ Nói chuyện trong lúc vội, bạn có thể đi ngay vào vấn đề một cách thẳng thắn, tuyệt đối không được xem đồng hồ, nếu không người tiếp chuỵện sẽ cho là bạn miễn cưỡng, thiếu tôn trọng họ.

4. Hai mươi bốn bí quyết gây tình cảm:

+ Hãy làm cho mọi người hiểu bạn có cảm tình với họ.

+ Đừng độc quyền trong cuộc nói chuyện.

+ Đừng có cách cư xử khác nhau đối với mọi người và đối với riêng một người mà bạn ưa thích.

+ Hãy làm cho người khác nghĩ rằng họ là người quan trọng.

+ Đừng thù dai.

+ Phải biết nhận lỗi lầm của mình.

+ Đừng nên kể những câu chuyện gượng gạo, dài dòng hoặc 1 câu chuyện đã kể đi, kể lại nhiều lần.

+ Đừng tỏ ra lập dị và kiểu cách.

+ Không nên lấy chuyện dèm pha ra làm trò vui.

+ Hãy lắng nghe ý kiến của người khác một cách lịch sự dù bạn thấy rằng ý kiến đó có những điểm kỳ cục.

+ Nên tham gia những họat động cụ thể: họat động xã hội hoặc tôn giáo.

+ Hãy biết tránh những cuộc ẩu đả mà không làm mất danh dự.

+ Nên biết thua cuộc với nụ cười.

+ Nên biết thắng mà không ngạo nghễ.

+ Nên tập chơi thành thạo một lọai nhạc cụ.

+ Hãy biểu lộ sự sung sướng khi nhận được quà tặng cho dù bạn có ý mong muốn một món khác hơn.

+ Đừng e ngại khi mặc mốt mới, phải có can đảm bắt đầu chứ.

+ Hãy tỏ ra đang vui đùa cho dù trong lòng bạn thật sự không phải như vậy.

+ Hãy thảo luận về một tôn giáo và không nên có thành kiến.

+ Không nên trục xuất người khác khỏi nhóm vì một thành kiến xã hội hay gì khác.

+ Hãy ghi lại những thói xấu của bạn và cố gắng khắc phục chúng.

+ Đừng tìm cách chêm vào câu chuyện tên những nhân vật nổi tiếng để tạo cảm tưởng bạn quen thân với họ.

+ Hãy cho bạn bè hiểu là khi cần là họ có thể nhờ cậy bạn.

+ Đừng tâm sự với tất cả mọi người.

5. Mười lời khuyên giúp bạn sống đẹp:

+ Hãy đối xử với người khác những gì mà bạm muốn người ta đối xử với mình.

+ Nên chú ý chăm sóc đến bản thân. Khi bạn ăn mặc gọn gàng, bạn sẽ thấy thỏai mái tự tin trước người khác  và khi bạn giữ thái độ vui vẻ,bạn sẽ cảm thấy cuộc sống này thật đáng sống biết bao.

+ Hãy cố khoan dung với người khác. Tuy nhiên đó không có nghĩa là  bạn chấp nhận bất cứ một điều gì mà là tôn trọng bản ngã riêng của mỗi người.

+ Hãy luôn nghĩ rằng mình là người may mắn khi được sống trong xã hội này.Người ta nói rằng cuộc sống đôi khi có những điều khắc nghiệt nhưng hãy nhìn xem cuộc sống của bạn còn hơn rất nhiều người khác trên hành tinh.

+ Tạo cho mình một thói quen thích hòa đồng, chia sẻ và ban tặng cho người khác, có thể là một nụ cười,một chút tiền bạc và thời gian của mình khi cần thiết.

+ Hãy sống chân thật. Tự dối mình và dối người khác chỉ có thể  che đậy được mọi việc trong một thời gian ngắn.

+ Khi làm một việc gì bạn hãy nghĩ đến hậu quả, đừng hành động một cách nóng vội và thiếu suy nghĩ.

+ Biết thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm.Không nên vì tính hiếu thắng hay bảo thủ mà khư khư một quan niệm sai trái.

+ Hãy biết tha thứ. Đừng quá khắc nghiệt hay cay độc với một ai nhất là khi người đó đã biết nhận ra lỗi lầm.

+ Hãy hài lòng với những gì mình vốn có.Đừng than thân trách phận với những điều không thể thay đổi: Ví như bạn hơi thấp,ví như bạn có khuôn mặt hơi bầu bĩnh. Hãy mỉm cười, nụ cười sẽ làm cho bạn trở nên dễ mến. Hãy nghĩ rằng đó chính là nét độc đáo mà tạo hóa đã ban tặng cho bạn.

6. Chín điều “ kỵ “ trong giao tiếp nam nữ:

+ Bất kể là nam hay nữ đều rất ghét hỏi tuổi và lương tháng của mình

+ Phụ nữ rất ghét ai hỏi chuyện chồng con

+ Phụ nữ rất ghét đến chơi nhà mà không hẹn trước.

+ Phụ nữ rất ghét đến chơi nhà, chưa được sự đồng ý  đã xông vào buồng ngủ  hoặc ngồi ở giường ngủ của mình.

+ Phụ nữ rất không ưa lỡ hẹn

+ Phụ nữ rất ghét người không quen biết bình phẩm về cách ăn mặc ( của mình )

+ Phụ nữ rất ghét bị ép uống rượu

+ Phụ nữ rất ghét hành động ảnh hưởng tới người khác mà không xin lỗi.

+ Thanh thiếu niên rất ghét người lắm lời.

7. Sáu lời khuyên đối với người hay nóng nảy:

+ Đừng giữ riêng những điều khó chịu trong lòng mình. Thổ lộ với những người có thiện chí và biết suy xét về điều đang làm cho mình buồn phiền, như vậy sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.

+ Hãy biết cách tạm thời quên lãng những nỗi lo âu của mình. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không để cho tâm trạng buồn phiền của mình lan ra những người chung quanh.

+ Không nên tức giận. Hãy luyện cho mình khả năng tự kiềm chế, bằng một công việc tay chân nặng nhọc hoặc một bài tập nào đó. Sự mệt mỏi lành mạnh về thể chất sẽ làm tiêu tan cơn tức giận của bạn.

+ Đôi lúc cũng cần nhượng bộ. Sự nhượng bộ hợp lý không những có lợi cho công việc, mà còn làm cho mọi người tôn trọng mình.

+ Không nên là người hòan thiện tuyệt đối trong mọi việc. Chớ quên rằng tài ba và khả năng  của mỗi người chúng ta đều có hạn.

+ Không yêu cầu quá cao. Những ai trông đợi quá nhiều ở mọi người xung quanh thì sẽ luôn luôn tức tối.Bạn sẽ phạm sai lầm lớn, nếu luôn luôn muốn phê phán,” chấn chỉnh “ lại vợ, mẹ vợ,hay bạn bè, đồng nghiệp của mình. Hãy biết tiếp nhận mọi người như họ vốn có để tìm cách khéo léo cải biến họ dần dần.

8. Vài điều tế nhị cần lưu ý:

+ Khi bạn nhận được điện thọai gọi cho đồng sự của mình, nếu đồng sự của bạn có mặt ở cơ quan, bạn chớ nên hỏi người gọi điện thọai đó là ai, ở đâu mà nên gọi ngay đồng sự đó đến nghe điện thọai. Khi người ta đang nói với nhau qua điện thọai, bạn không nên đứng cạnh nghe lỏm. Sau đó cũng không nên nên truy hỏi người gọi đó là ai và đã nói những gì.

+ Có người đến tìm đồng sự của bạn, khi người đồng sự có mặt, dù người đó là nam hay nữ, nếu bạn đồng sự không chủ động giới thiệu, thì bạn cũng đừng hỏi khách là ai, cũng không nên bàn luận với với đồng sự về diện mạo, cách ăn mặc,những điều hay dở của khách.

+ Khi mọi người viết thư riêng ( hoặc đang sọan thảo một văn bản nào khác ), không nên đứng cạnh xem gây rối cho người viết ( trừ trường hợp họ đồng ý ),thậm chí còn dò hỏi xem viết thư cho ai.Đó là những điều cần kiêng kỵ.

+ Trên đường gặp người quen, nếu họ đang đi dạo hoặc chuyện trò với người yêu, sau khi bạn hỏi thăm người ấy mấy câu, nên chủ động chia tay, không nên nói chuyện dài dòng.Bởi vì, như vậy sẽ gây cho họ lâm vào tình thế khó xử hoặc mất tự nhiên.

9. Để tạo mối quan hệ tốt với thủ trưởng:

+ Hãy tôn trọng quyền của họ. Đừng tranh cãi với họ về quyền được giao công việc cho bạn hoặc quyền phê phán về những việc bạn đã làm. Vai trò của họ là như vậy.

+ Hãy tìm hiểu xem họ thích được tiếp cận theo cách nào: có người ưa nghe báo cáo qua điện thọai, có người yêu cầu báo cáo bằng văn bản đàng hòang,có ngưới có thể nghe ý kiến của nhân viên bất cứ lúc nào nhưng có người phải theo những quy tắc nhất định…

+ Biết giữ khỏang cách trong giao tiếp.

+ Đừng quá hăng say lấy lòng thủ trưởng. Cách tốt nhất để chinh phục tình cảm của họ là hãy làm tốt công tác của mình.

+ Bản thân giàu năng lực nghiệp vụ, tinh thông trong công việc của mình nhưng đừng tỏ ra kiêu ngạo.

+ Giữ đúng thái độ trong công việc. Trong công việc phải chăm chỉ, thực thà; có tinh thần trách nhiệm, biết tổ chức công việc khoa học, hợp lý,

+ Có năng lực phối hợp công việc tốt, luôn tạo cho thủ trưởng cảm thấy mình là người thiện chí, là người trợ thủ đắc lực.

+ Đề cao năng lực dự đóan của mình; mạnh dạn, tích cực tham gia đóng góp xây dựng cho cơ quan, xí nghiệp, công ty.

+ Sẵn sàng gánh vác đảm đương công việc

Chúc dotchuoinon ngày càng hưng thịnh!

( Thịnh-hoa sưu tầm)

Càng tu càng tội

Chào các bạn,

Tất cả chúng ta đều đồng ý rằng “càng học càng thấy mình dốt”—bể học thì mênh mông và càng học mình càng khám phá ra là cái mình biết cũng chỉ như vài hạt cát trên bãi biển. Tu luyện nội tâm cũng thế, nhưng chẳng mấy khi ta nghe nói “Càng tu càng tội.” Thực ra, tu cũng chỉ là học. Học càng nhiều càng thấy dốt, thì tu càng lâu càng thấy mình nhiều yếu đuối lầm lỗi.

Tại sao vậy?

Thưa, tại vì càng tu luyện cao thâm ta càng phát hiện ra những điểm yếu của mình mà trước đó ta không thấy.

Để thấy rõ vấn đề, chúng ta hãy quan sát một người cướp của giết người, bỗng nhiên một ngày chợt đổi dạ, bắt đầu con đường tu luyện chính mình:

• Đầu tên, hắn thấy cướp của giết người là xấu, cho nên cải tà qui chánh.

• Được một thời gian dài, hắn khám phá ra là nói dối là xấu, bèn cố bỏ nói dối.

• Thêm một thời gian, công lực cao hơn, hắn khám phá ra là hắn hay kiêu căng về mình, về dĩ vãng “anh hùng” và sự nhất tâm cải tà qui chính của mình, hắn bèn tập cho khiêm tốn.

• Thêm một thời gian, công lực cao hơn, hắn thấy rượu thường làm cho hắn suy nghĩ thiếu chính xác, bèn bỏ rượu.

• Thêm một thời gian, thấy thuốc lá làm phiền mình và người khác quá, bèn bỏ thuốc.

• Thời gian sau, công lực cao hơn, thấy mình hay hứa mà không thực hiện hết được, bèn bắt đầu hứa cẩn thận hơn và cố thực hiện mỗi lời hứa.

• Thời gian sau nữa, hắn cảm thấy nên vào tu viện đi tu thì mình mới thanh tịnh ra, bèn bỏ đời đi tu.

• Trong tu viện, một thời gian rất lâu, hắn mới nhận ra rằng hắn vẫn hàng ngày cạnh tranh với các tu sĩ khác về đạo học, bèn cố bỏ hơn thua.

• Vài năm sau hắn mong đợi được phong chức tu viện trưởng, và khám phá ra rằng mình thầm hằng mong người bạn của mình đừng được chức đó.

• Sau khi thành tu viện trưởng, hắn khuyến khích mọi tu sĩ của hắn giảng đạo hăng hái cho mọi người. Rồi một ngày hắn khám phá ra là hắn vẫn thường nghĩ rằng chỉ con đường đạo học của hắn là đúng và những người theo những đạo khác là lạc đường…

Cứ như thế, tu luyện càng cao thâm ta càng khám phá ra ta có rất nhiều khiếm khuyết và yếu kém, mà trước đó ta không thấy được.

Điều này rất phù hợp với các khái niệm vô minh và giác ngộ của Phật gia—khi vô minh ta không thấy được cái si mê của mình; thấy được một điều si mê là giác ngộ được một tí.

Người học võ cũng thế. Học trò mới học võ thì chỉ thấy mình mạnh. Nhưng đại sư phụ thì biết nơi nào là tử huyệt của mình, địch dùng loại đòn nào thì có thể hạ mình.

Và trong Thiên chúa giáo, ý niệm “tội tổ tông”—cái yếu kém bẩm sinh của con người—cũng là cái nhận biết sâu sắc của những người đã tu luyện đến mức thượng thừa.

Vậy thì chúng ta đã biết một công thức tu luyện nội tâm rồi đó. Ngày nào ta còn tiếp tục khám phá ra những điểm yếu của mình để khắc phục, ngày đó ta đang tu tập đúng hướng.

Ngày nào ta nói “Tôi tốt rồi, đạo đức rồi, manh mẽ rồi, ngộ rồi…”, ngày đó ta còn đang chết.

Chỉ có người học nghiêm chỉnh mới nắm được sự thực là càng học mình càng dốt. Chỉ có người tu tập nghiêm chỉnh mới thấy càng tu càng tội.

Và “tu” có nghĩa là làm cho tốt thêm. Làm cho con tim của mình sáng thêm, sạch thêm, yêu ái thêm, mạnh mẽ thêm, là tu. Ai trong chúng ta cũng tu cả.

Và “tu” cũng có nghĩa là thực hành.

Đọc sách đạo học hay tư duy tích cực mà không thực hành, thì kiến thức đọc đó không thể là kiến thức thật được, và ta cũng không thể làm cho con tim đang chết của ta sống lại được.

Chỉ kiến thức thật, đến từ thực hành và trực nghiệm, mới đủ sức hồi sinh một quả tim đang chết.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Sinh nhật mù

Lời cầu nguyện của con tôi, ngày 28 tháng 11, 2007

Đêm hôm qua , đứa con gái 5 tuổi của tôi không chịu ngủ mà khóc. Nó nói:

-Sao con đã cầu nguyện xin Chúa cho ba hết bị mù mà ba vẫn cứ bị mù hoài. Chúa có ở trên cây Thánh giá không?

Tôi nghẹn ngào nghe những lời này và trong nhất thời tôi cũng không kịp nghĩ ra một lời giải thích nào cho con, tôi chỉ bộc trực đáp:

-Ba bị mù thì có sao đâu. Bị mù vẫn vui mà. Ba thích bị mù…

Nó không chấp nhận điều ấy và nói:

Bị mù thì có gì vui chứ?

Những lời ngây ngô của con trẻ khiến tôi ứa nước mắt. Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào nữa mà chỉ còn ôm nó vỗ về. Tôi bỗng nhớ đến một cảm xúc mà hồi đầu năm này tôi đã viết nhưng chưa hoàn chỉnh. Đêm nay câu nói của con trẻ làm tôi không ngủ được và xin kể lại câu chuyện ngắn ấy thay phần nhập đề cho cảm nghĩ hồi đầu năm của tôi….

O0o

TBT

SINH NHẬT “MÙ” 8 tháng 1, 2007

Khi tôi mở cửa sổ ra đón chào một ngày mới, cơn gió mát dịu và một ít nắng ấm của mùa đông nhiệt đới lùa vào phòng. Trời Sài gòn sáng nay nhiều mây nhưng cũng đủ ấm để không phải mặc áo dài tay. Ngày 8 tháng 1 năm nay giống 8 tháng 1 của 29 năm trước. Hôm ấy, trời cũng nhiều mây và gió mát dìu dịu, tôi đi tắm biển chung với một nhóm bạn học rồi …. Tai nạn đã đến.

Tai nạn đã cướp mất ánh sáng của tôi. Những năm đầu với bóng tối thật là vất vả. Có một hôm ngồi trước hiên nhà với cậu Lâm Cậu hỏi tôi:

-Nếu chọn một trong hai trường hợp, hoặc là sáng mắt và sống trong nghèo đói, cô đơn và vất vả và hoặc là mất ánh sáng nhưng có tất cả, đời sống sung túc, gia đình hạnh phúc v.v. thì cháu chọn cái nào?

tôi ngẫm nghĩ mãi rồi trả lời với cậu bằng một câu hỏi khác:

-người ta có đôi mắt, có sức khỏe để làm gì? Có phải là để đổi lấy một đời sống có ý nghĩa hay không? vậy thì nếu có đầy đủ sức khỏe mà không đạt được mục tiêu của đời mình thì sức khỏe ấy có ích gì?

Đến nay, tôi vẫn tin rằng đấy là câu trả lời hợp lý nhất của mình. Nhiều người quen biết cũng từng cảm thương cho cái số kiếp tăm tối của tôi và họ bình luận rằng: nếu có tiền muôn bạc vạn mà mất đi đôi mắt thì của cải kia để làm gì đây. Tôi cũng chỉ dùng một câu trả lời như từng nói với cậu để đáp lại ý kiến này Cám ơn cậu và cám ơn bạn bè của tôi. họ đã giúp tôi hình thành một định hướng đúng cho đời mình. Từ ngày ấy, tôi nhận ra ý nghĩa của đời mình là xây dựng tương lai từ những cái đang còn lại. Tôi không còn hoang tưởng đến một điều kiện tối ưu hoặc đứng núi này trông núi khác như tôi vẫn thường nghĩ trước đây.

Tôi đã có, đã mất và đã làm lại từ đống hoang tàn đỗ nát của đời mình. bài học lớn nhất là chấp nhận thực trạng của mình. Trong suốt quãng đời đã qua, tôi không hề cảm thấy rằng mình sống vô ích hay cô đơn. Tôi đã cố leo lên bao nhiêu con dốc cao của đời người. Những thứ mà tôi có được hôm nay chính là niềm vui và sự mãn nguyện.

Có nhiều lần, bạn bè tôi biết được tin tức của một đoàn bác sĩ nhãn khoa nước ngoài mới sang Việt nam công tác. Họ tìm mọi cách để dành cho tôi một xuất được khám chữa. Họ mong rằng cách giải quyết tốt nhất cho trường hợp của tôi là nhờ sức mạnh của y học để trả lại ánh sáng cho tôi. Mấy năm đầu, tôi còn sốt sắng đi theo họ. nhưng sau nhiều lần với thật nhiều câu hứa hẹn để an ủi của bác sĩ, tôi nhận ra rằng đây có lẽ là định mệnh của tôi. Định mệnh với tôi là cái mà mình không thay đổi được. giống như việc bạn là con của ông bà này mà không phải ông bà khác, bạn được sinh ra vào ngày này nhưng không phải ngày khác và bao nhiêu thứ đã được sắp xếp trước mà bạn chẳng được dự phần vào việc sắp xếp ấy. Tôi tin rằng định mệnh tác động rất lớn lên cuộc đời mỗi con người. Nhưng cái tác động lớn hơn là ở chính mình. Tôi cảm thấy rất bực tức mỗi khi mình bị loại ra khỏi sự sắp xếp cho đời mình. Vì thế, tôi cương quyết phải tham dự vào cuộc sắp đặt này.

Lắm khi, tôi đã thất bại và đau đớn cho những thiệt hại do sự thất bại gây ra. Có lúc tôi buồn đến nổi nghĩ rằng mình nên chết quách đi cho xong. Những lần như thế tôi bỗng chợt nhớ rằng tôi là người mù. Cái mất mát thuộc loại lớn nhất tôi đã gánh chịu được và đang có rất nhiều cơ hội để chiến thắng nó. Nếu tôi chết đi trước khi có thể hoàn toàn chinh phục được nó thì uổng phí quá. chính cái mù đã giúp tôi lấy lại thăng bằng sau những thất bại này. phải, cái mù chính là nguyên nhân đầu tiên của các thất bại. Thoạt đầu tôi đã nhận ra nếu tôi không bị mù có lẽ mình không gặp cái thất bại vừa rồi. nhưng sau đó, cái mù lại giúp tôi vượt qua thất bại. Kinh nghiệm của những lần thất bại dạy tôi một bài học rất lớn. Hãy lợi dụng cái yếu nhất của mình để chiến thắng. Tôi đã từng lợi dụng những cái mạnh nhất của tôi để thành đạt và nay tôi biết thêm một điều nữa là cả cái yếu nhất cũng cần biết sử dụng nó. Lắm khi tôi còn thấy mình láu cá khi ỷ lại vào cái mù để nhanh chóng dành được phần ưu tiên.

Một đồng nghiệp làm công tác cộng đồng chia sẻ kinh nghiệm với tôi rằng. Khi anh tiếp xúc với cộng đồng người có HIV anh thường xuyên mặc một kiểu áo quần, dùng một kiểu nón, đi một kiểu xe và đủ thứ cái chi tiết ngoại hình khác. Cốt lỏi là để gây ấn tượng về anh trên đối tượng của anh. Khi nói đến anh, họ hình dung một cán bộ cộng đồng với kiểu dáng vẻ bề ngoài như anh đã tạo cho họ. thậm chí, nhiều đối tượng có HIV anh chưa hề quen biết cũng có thể dễ dàng nhận dạng ra anh vì đặc điểm này. Nghe xong tôi chợt mỉm cười. Tôi vốn có sẵn cái mù làm nhãn hiệu cầu chứng tòa cho thương hiệu của mình rồi. khi bước vào hội thảo chuyên ngành, tôi chẳng cần phải vỗ ngực xưng tên nhiều. Đối tác của tôi họ nhận dạng tôi rất nhanh nhờ cái mù này. Thậm chí, một vài đối tác khi gặp tôi lần đầu, họ chưa biết tôi là ai. nhưng họ tự hỏi tại sao một người mù lại có mặt ở đây. Và thế là họ tự đến tìm tôi để hỏi thăm. Cái mù từng bước đã được tôi thuần hóa và biến thành một lợi thế tự nhiên không dễ gì cạnh tranh được.

O0o

1 giờ sáng 29/11/2007

Quả là tôi đã chiến thắng cái mù. Tôi còn biết nhiều bạn bè khuyết tật của tôi cũng đã chiến thắng cái khiếm khuyết của họ. Dường như người khuyết tật chúng tôi chỉ cần chiến thắng cái gánh nặng của định mệnh là có thể xem như vượt qua bể khổ cuộc đời. Mỗi năm tôi lại kỷ niệm ngày mình bị mù với một tâm trạng rất lạc quan, phấn khởi. Nhiều cô gái muốn bạn bè đặt cho mình một biệt danh kèm theo cái nét mỹ miều nhất của cô ta như: Loan Mắt Nhung, Thúy Điệu v.v.. Lắm khi có bạn gọi tôi bằng cái tên Thiện Mù tôi lại thấy vui vui. Mặc dù, người bạn ấy khi biết rằng tôi đã nghe trộm anh gọi tôi như thế có cảm thấy hơi lúng túng vì đã dùng một thứ nhãn hiệu không đẹp lắm gán cho tôi.

Nói gì đi nữa thì cái mù, cái khuyết tật vẫn là những thứ tiêu cực của cuộc đời. Có nhiều người may mắn nhào nặn nó để biến nó thành một thứ độc đáo cho riêng mình. Thành tích ấy vừa để tự an ủi và cũng để họ có thể sống tiếp một cách có ý nghĩa. Thế nên nếu có một đặc ân của Thượng đế cho tôi một điều ước như con gái tôi từng cầu nguyện thì tôi sẽ ước cho thế gian không còn người khuyết tật nữa, không còn người mù nữa. Nếu điều ấy được ứng nghiệm thì tôi sẽ xin Ngài hãy cho tôi là người mù cuối cùng được sáng mắt. Bởi tôi và nhiều người khác tuy có mang thương tật nặng nhưng chúng tôi không còn khuyết tật từ ngày tôi biết vui với cái khiếm khuyết ấy.

Tặng con gái cưng những lời yêu thương tha thiết nhất của ba.

Thursday, November 29, 2007

O0o

Ngày 8 tháng 1, 2008

Buổi sáng sớm tôi gặp em trên mạng liền gởi một tin nhắn báo rằng hôm nay là sinh nhật mù của tôi và em hãy chúc mừng, kèm theo là cái địa chỉ blog của bài này. Em nhanh chóng gởi ngay cho tôi một lời chúc mừng sinh nhật rất giản đơn và cũng chân tình. Tôi vui mừng đón nhận vì lâu lắm mới có một người chúc mừng tôi trong ngày này.

Trưa đến, có lẽ em thong thả thời gian hơn đã vào đọc bài viết này. Sau đó, em gởi cho tôi một lời xin lỗi vì em không nghĩ đấy là kỷ niệm ngày tôi bị tai nạn. Tôi khẩn cầu em:

Bạn tốt của anh, hãy cho anh cái mà anh thích. Đừng cho anh cái mà mọi người thích.

Câu nói ấy vẫn chưa thực sự thuyết phục em, em cho rằng không nên đem điều ấy ra mà ăn mừng. Tôi nói thêm:

Điều đã đến thì đã đến rồi. Nổi đau đã không còn nữa. Giờ đây cái tai nạn chỉ là nguyên cớ để tôi có một cuộc sống mới. Cuộc sống ấy cũng có đầy đủ ý nghĩa. Nếu em hiểu tôi như một người bạn tốt của tôi, xin hãy nhìn ngày ấy là một bước ngoặc. Tôi đã chiến thắng nó và tôi được phép ăn mừng chiến thắng ấy. từ nay, nó không còn là một nổi đau hay một thất bại nữa. Đừng bi lụy xin hãy vui mừng để tôi được thực sự thoát khỏi cái nổi đau của bóng tối.

Em chấp nhận. tôi mừng lắm. Tôi và em học chung suốt 5 năm trong lớp đại học tại chức. Thế nhưng tôi và em chẳng quen nhau. Mãi đến cuối cùng khi trường tổ chức ôn tập thi tốt nghiệp, chúng tôi học nhóm với nhau và từ ấy mới hiểu được nhau. Tôi và em cách tuổi nhau khá xa và cùng có gia đình riêng. Em đã có 2 con, tôi chỉ mới một con. Cám ơn bạn tốt của tôi. Mong rằng mọi người đừng kéo tôi trở về nổi đau của ngày đầu mới bị khuyết tật nhưng hãy cùng tôi mỉm cười với nó.

Trần Bá Thiện

Bài đã đăng tại:

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=238908&ChannelID=194

Quả tim tôi cháy như lửa

Soyen Shaku, thiền sư đầu tiên đến Mỹ, nói: “Tim tôi cháy như lửa nhưng mắt tôi lạnh như tro chết.” Thiền sư có những quy luật thực hành mỗi ngày trong đời, như sau:

• Mỗi buổi sáng trước khi thay áo quần, đốt nhang và ngồi thiền.

• Đi ngủ đúng giờ mỗi ngày. Ăn đúng giờ. Ăn vừa đủ, không bao giờ đến mức thỏa mãn.

• Tiếp khách với thái độ y như lúc chỉ một mình. Lúc một mình, giữ thái độ y như lúc tiếp khách.

• Cẩn trọng trong lời nói, và nói điều gì thì thực hành điều ấy.

• Khi cơ hội đến, đừng để nó vuột mất, nhưng luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động.

• Đừng ân hận về dĩ vãng. Nhìn về tương lai.

• Có thái độ không biết sợ của một anh hùng và quả tim yêu ái của một em bé.

• Khi đi ngủ, ngủ như là giấc ngủ cuối trong đời. Khi thức dậy, rời khỏi giường tức thì như là vất đi một đôi giày cũ.

Bình:

• Soyen Shaku (釈 宗演, 1859 – 29.10.1919, sinh ở Kamakura, Japan, là thiền sư đầu tiên giảng thuyết ở Mỹ. Thiền sư là Lão Sư (Roshi) của dòng thiền Lâm Tế và là sư trưởng của cả hai chùa Kencho và Engaky ở Kamakura. Shaku là đệ tử của Imakita Kosen và có một đệ tử rất nổi tiếng trong việc mang Phật học và Thiền học đến phương Tây – D.T. Suzuki.

• “Tim tôi cháy như lửa nhưng mắt tôi lạnh như tro chết.” Câu này ý chỉ người tình cảm nồng nàn nhưng ngoài mặt thì lạnh lùng? Shaku nhìn bên ngoài lạnh lùng thật.

Hay muốn nói, những cái thấy được bên ngoài (danh sắc) không ảnh hưởng tôi, nhưng từ ái thì mạnh mẽ trong tôi?

Dù sao đi nữa thì, nói rằng “tim tôi cháy như lửa” nghe cũng hơi xa lạ với Phật gia, vì Niết Bàn (Nirvana) có nghĩa là “lửa đã tắt.”

Các bài giảng của Soyen Shaku ở Mỹ được SuzukI dịch sang Anh ngữ trong quyển Sermons of a Buddhist abbot: addresses on religious subjects

• Tám qui luật sống hàng ngày của Shaku:

1. “Mỗi buổi sáng trước khi thay đồ, đốt nhang và ngồi thiền.” Vài phút tĩnh lặng hoặc cầu nguyện sẽ giúp mở đầu tâm tĩnh lặng cho một ngày.

2. “Đi ngủ đúng giờ mỗi ngày. Ăn đúng giờ. Ăn vừa đủ, không bao giờ đến mức thỏa mãn.” Các bác sĩ ngày nay cũng khuyên thế.

3. “Tiếp khách với thái độ y như lúc chỉ một mình. Lúc một mình, giữ thái độ y như lúc tiếp khách.” Khi có khách thì thành thật (như với chính mình lúc một mình), khi một mình thì nghiêm chỉnh (với chính mình như đang trước mặt khách).

4. “Cẩn trọng trong lời nói, và nói điều gì thì thực hành điều ấy.” Để lời nói đáng tin. Thực hành điều mình nói. Chứ không phải “Hãy nghe điều tôi nói, đừng làm điều tôi làm.” Thầy đạo đức giả và dối trá thời nào cũng nhiều.

5. “Khi cơ hội đến, đừng để nó vuột mất, nhưng luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động.” Cơ hội đến không chịu nắm lấy mà hành động, rồi lại trách trời chẳng thương tôi!

6. “Đừng ân hận về dĩ vãng. Nhìn về tương lai.” Đã làm điều gì lầm lỗi thì cũng đừng ngồi đó tự lấy búa gõ đầu hoài. Chấp nhân đó là lỗi lầm của mình, rồi đứng dậy và hăng hái đi về hướng tương lai.

7. “Có thái độ không biết sợ của một anh hùng và quả tim yêu ái của một em bé.” Anh hùng với tấm lòng yêu ái và trong sáng.

8. “Khi đi ngủ, ngủ như là giấc ngủ cuối trong đời. Khi thức dậy, rời khỏi giường tức thì như là vất đi một đôi giày cũ.” Không lo lắng suy tư đủ mọi thứ khi đi ngủ. Thức dậy thì hoạt động ngay.

Nhưng… xem ra thiền sư chưa biết thú nằm nướng 🙂 nhất là vào các ngày cuối tuần và nghỉ lễ. 🙂

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

My Heart Burns Like Fire

Soyen Shaku, the first Zen teacher to come to America, said: “My heart burns like fire but my eyes are as cold as dead ashes.” He made the following rules which he practiced every day of his life.

* In the morning before dressing, light incense and meditate.

* Retire at a regular hour. Partake of food at regular intervals. Eat with moderation and never to the point of satisfaction.

* Receive a guest with the same attitude you have when alone. When alone, maintain the same attitude you have in receiving guests.

* Watch what you say, and whatever you say, practice it.

* When an opportunity comes do not let it pass you by, yet always think twice before acting.

* Do not regret the past. Look to the future.

* Have the fearless attitude of a hero and the loving heart of a child.

* Upon retiring, sleep as if you had entered your last sleep. Upon awakening, leave your bed behind you instantly as if you had cast away a pair of old shoes.

# 22

Không xa Phật vị

Một sinh viên đại học thăm thiền sư Gasan và hỏi ông: “Đã bao giờ thầy đọc Thánh Kinh Thiên chúa giáo chưa?”

“Chưa, đọc cho tôi nghe đi,” Gasan nói.

Người sinh viên mở Thánh Kinh và đọc phúc âm Thánh Matthew: “Và tại sao lại lo áo quần? Hãy xem các bông huệ ngoài đồng mọc thế nào. Chúng không làm việc, không dệt vải, nhưng tôi nói thật với các bạn ngay cả vua Solomon trong tất cả vinh quang của mình cũng không mặc đẹp như các bông hoa đó… Đừng lo đến ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo cho nó.”

Gasan nói, “Ai nói những lời này, tôi xem đó là một người đã giác ngộ.”

Người sinh viên đọc tiếp: “Xin và bạn sẽ được, tìm và bạn sẽ thấy, gõ cửa và cửa sẽ mở cho bạn. Bởi vì ai xin thì sẽ nhận, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa sẽ được mở cửa.”

Gasan nói: “Tuyệt vời. Ai mà nói điều này thì không xa Phật vị.”

Bình:

• Đó là các lời nói của Giêsu của Nazareth. Các điều sâu thẳm trong con tim của con người vượt biên giới tôn giáo mà nhiều tín đồ của các tôn giáo thích lập nên bằng những rào cản phân biệt ta đúng họ sai.

• “Đừng lo đến ngày mai” tức là sống ở đây lúc này. Đó là Thiền.

“Tìm thì sẽ thấy” tức là muốn thành tâm tìm chân lý thì sẽ có lúc được. Đó là Phật pháp.

• Gasan Jōseki (峨山 韶碩 1275–23.11.1366) là một thiền sư Tào Động Nhật Bản. Là học trò của Keizan Jokin, và có các học trò: Bassui Tokushō, Taigen Sōshin, Tsūgen Jakurei, Mutan Sokan, Daisetsu Sōrei, và Jippō Ryōshū.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Not Far From Buddhahood

A university student while visiting Gasan asked him: “Have you even read the Christian Bible?”

“No, read it to me,” said Gasan.

The student opened the Bible and read from St. Matthew: “And why take ye thought for raiment? Consider the lilies of the field, how they grow. They toil not, neither do they spin, and yet I say unto you that even Solomon in all his glory was not arrayed like one of these…Take therefore no thought for the morrow, for the morrow shall take thought for the things of itself.”

Gasan said: “Whoever uttered those words I consider an enlightened man.”

The student continued reading: “Ask and it shall be given you, seek and ye shall find, knock and it shall be opened unto you. For everyone that asketh receiveth, and he that seeketh findeth, and to him that knocketh, is shall be opened.”

Gasan remarked: “That is excellent. Whoever said that is not far from Buddhahood.”

#16

Tâm trí tự do

Chào các bạn,

Vị thầy dạy mình Ju Jitsu (nhu thuật) là một giáo sư cận chiến cho công an ở vùng ngoại ô thủ đô Mỹ, ngoài giờ dạy công an thì dạy tại võ đường riêng. Thầy này có những câu khẩu quyết ngắn ngắn, lập đi lập lại hoài, cho nên chẳng học trò nào mà không thuộc. Một trong những khẩu quyết mình thích nhất là “Chẳng có chiêu nào sai” (There is no wrong move). Chỉ có chiêu có hiệu quả và chiêu không hiệu quả.

Tức là khi chiến đấu, chúng ta phải luôn chuyển động, luôn luôn tung chiêu thức, mọi chiêu đều đúng, chiêu này không hiệu lực thì tung chiêu khác ngay, kể cả các chiêu thức chưa bao giờ học nhưng cảm thấy thích hợp lúc đó. Trong chiến đấu, luôn luôn sáng tạo cho hoàn cảnh tức thì, tâm trí không được ràng buộc vào một qui tắc đúng sai nào.

Đó chính là tâm trí tự do (free mind), tâm trí sáng tạo (creative mind). Tâm trí tự do và sáng tạo chỉ có được nếu ta không lệ thuộc vào công thức có sẵn nào cả. Đó chính là điều các võ sư và thiền sư gọi là “tâm không” hay “vô tâm” (no-mind).

Chiến đấu trong tòa án cũng thế. Dù là trước đó đã có chuẩn bị bài bản tử tế, đến lúc vào tòa, luôn luôn có những ngạc nhiên về bằng chứng và thủ tục, và người luật sư sẽ phải sáng tạo và biến hóa rất nhanh.

Làm thương mãi cũng vậy, Địch thủ tung sản phẩm mới, hoặc chiến dịch tiếp thị mới, hoặc kinh tế thê giới lên xuống trồi sụt… ta phải phản ứng ngay, và chiêu này không hiệu quả phải lập tức tung chiêu khác.

Và nếu ta nói chuyện với các vị cha chú lão thành đã kinh nghiệm trong chiến tranh, chắc chắc các vị ấy cũng sẽ nhấn mạnh đến tính sáng tạo liên tục trong chiến tranh.

Cuộc đời là thế. Nói chung, cuộc sống ở đời tùy thuộc vào khả năng sáng tạo nhậy bén của ta. Tức là, lệ thuộc vào một tâm trí tự do, sáng tạo, không bị đóng khung bởi các công thức.

Và không chỉ là cá nhân, quốc gia cũng thế. Quốc gia chỉ có thể hùng cường trong kỹ nguyên thông tin và sáng tạo này nếu (1) các cá nhân công dân sáng tạo, và (2) guồng máy công quyền nhậy bén đủ để sáng tạo biến hóa liên tục.


Tuy nhiên vấn đề của mỗi chúng ta là chúng ta luôn luôn trưởng thành trong một cái khuôn nào đó—gia đình ta (cấp tiến hay bảo thủ), vùng ta ở (bắc hay nam), tôn giáo (công giáo, phật giáo, hay chẳng tôn giáo nào), học lực (lớp 5 hay tiến sĩ), mức độ kinh tế (ngồi mát ăn bát vàng hay cày còng lưng), kinh nghiệm (chỉ là cậu ấm hay đã phải làm cu li)… Nói chung là, mỗi người chúng ta trưởng thành và sống trong những hoàn cảnh đặc biệt, tạo nên cung cách cảm xúc và suy nghĩ của riêng ta. Cung cách cảm xúc và suy nghĩ này định nghĩa con người ta, và đồng thời cũng có thể là một cái khuôn đóng ta trong đó. Vậy thì làm sao ta có thể thoát khỏi cái khuôn của chính mình để có được tâm trí tự do, tâm trí không vướng mắc?

Đã bao nhiều lần chúng ta nói và viết: Đừng có thành kiến, đừng chấp trước, đừng ngục tù tư tưởng… Hãy mở rộng đầu óc, mở rộng tư tưởng, hãy để tâm trí bay xa… Rồi nhìn chung quanh chúng ta thấy gì? Thiên hạ chia nhóm, chia bang, xỉ vả nhau, chỉ trích nhau, đánh đấm nhau, bắt bớ nhau, bỏ tù nhau, giết chóc nhau. Anh em đánh đấm nhau, quốc gia hơn thua nhau, ai cũng lèm nhèm chưởi bới “phe kia” là tội ác.

Trời phật ơi! Làm sao chỉ một việc mở rộng tâm trí tự do để không còn trong ngục tù tranh chấp, để mọi người có thể sống chung hòa bình với nhau, lại khó thế ?

Càng lớn tuổi mình càng phục Phật Thích Ca – con người chúng ta mê muội khôn lường.

Dù sao đi nữa thì cá nhân chúng ta có thể lựa chọn. Ta không cần phải nhốt ta vĩnh viễn trong ngục tù tâm trí. Ta có cách để mang tâm trí đến vùng trời tự do, nếu ta thực tâm muốn làm thế. Ta có thể làm cho đời ta và thế giới này tươi đẹp hơn một tí nếu chúng ta thực hành “tâm trí tự do.”

• Ta có thể thiền và buông xả như các thiền sư. Hoặc cầu nguyện để có tâm “như trẻ em” và yêu vô điều kiện như Giêsu.

• Hoặc, trong đời sống hàng ngày, ta thực tập các điều sau đây:

1. Đời là tương đối: Mình có cái đúng của mình, người khác có cái đúng của họ. Cái đúng của họ sai đối với mình, nhưng mình tôn trọng y’ họ vì nó đúng với họ.

2. Mình muốn lắng nghe người khác không? Mình muốn hiểu và thông cảm người khác không?

3. Mình có thể gạt các kết luận, giả thiết, và thành kiến về người khác ra ngoài đầu óc hạn hẹp của mình không?

4. Mình có muốn trò chuyện, đối thoại, đặt câu hỏi, và lắng nghe người khác, để hiểu họ không? (Tức là, không trò chuyện với thái độ kiêu căng để giảng cho họ rằng họ ngu và họ nên theo con đường của mình).

5. Mình thực sự muốn kéo những người khác đến gần mình, hay mình chỉ muốn người khác làm theo ý mình? Tức là, lo lắng của mình hướng vào người khác, hay chỉ hướng vào mình?

Điều thứ 5 là điều cuối cùng và căn bản nhất: Trong tư duy chăm sóc lo lắng của ta, ta là trung tâm của vũ trụ, hay mọi người quanh ta là trung tâm của vũ trụ của ta?

Nếu chúng ta, như một cá nhân, một nhóm người, một tôn giáo, một đảng phái… nhìn vào chính ta, chính nhóm ta, chính tôn giáo ta, chính đảng phái ta… như là trọng tâm của suy tưởng và lo lắng của chính mình… thì ta hoàn toàn không có lối thoát và thế giới này cũng không có lối thoát…

Lối thoát ra khỏi ngục tù nằm ở bên ngoài nhà tù–ở trong những người quanh ta. Đó là nơi tư duy của ta nên tập trung quan tâm và lo lắng.

Chúng ta có muốn làm vậy không? Chúng ta nghiêm chỉnh và quyết tâm đến thế nào về việc này?

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Phản ứng lập trình hay hành động tự do?

o0o

© copyright 2025
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Tự tin – Yêu quý bản thân

Nếu giá trị của bản thân phải phụ thuộc vào người khác để khẳng định, thì đó không phải là giá trị của chính mình nữa mà đó là giá trị của người khác. Hiện nay trong xã hội luôn nhấn mạnh vấn đề, phải biết: “Yêu bạn bè, Yêu tập thể, Yêu thầy cô, Yêu bố mẹ….” nhưng ít khi nói đến chuyện phải biết yêu bản thân, và cũng có rất nhiều người không dám thể hiện điều đó ra bên ngoài , vì sợ “tự yêu quý mình” sẽ dễ bị hiểu nhầm thành tự tư tự lợi….

Yêu, là nhu cầu mà ai cũng cần có, vậy tại sao không dám yêu bản thân mình nhiều một chút? và tại sao trước mặt người khác lại phải coi nhẹ bản thân ?…

Yêu quý bản thân mình, có nghĩa là dựa vào những ý nguyện của bản thân để biến mình trở thành người có giá trị và luôn được người khác tiếp nhận. “Khả năng yêu bản thân mình” chính là một cái gương giúp cho bạn có thể nhận xét, đánh giá chính mình một cách toàn diện nhất. Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu lúc nào bạn cũng chỉ thấy mình thua kém hơn người khác, và cho rằng mình không có giá trị gì cả…Ngay cả bản thân mình cũng thấy mình kém cỏi và đáng ghét, vậy thì làm sao bạn có thể khiến người khác yêu quý và đón nhận mình một cách vui vẻ được.

Yêu quý bản thân, cũng đồng nghĩa với việc bạn phải biết làm cho hình tượng của mình trở lên tích cực hơn. Giả dụ, khi đứng trước gương, bạn phải khẳng định thân hình của mình, mặc dù trên người bạn có một vài khuyết điểm mà bạn không thích, nếu có thể thay đổi được hãy cố gắng tìm cách để thay đổi nó. Nếu không thể thay đổi được, thì hãy coi những điểm đó là điều hiển nhiên, và rất bình thường…chứ đừng vì nó mà trách móc bản thân. Vì oán trách bản thân là một hành động không có lợi, điều đó chỉ làm cản trở cuộc sống sinh hoạt của chính bạn, làm bạn bị tổn thương và cuối cùng sẽ làm bạn đánh mất sự tự tin của mình.

Hãy nghĩ rằng mình cũng thuộc túyp người thông minh, vì trên thế gian này không phải ai sinh ra cũng có thể là thiên tài ngay được. Mặc dù thành tích học tập của bạn kém hơn so với người khác, nhưng điều đó không có nghĩa bạn là người không thông minh, mà chỉ do ở lĩnh vực học tập bạn phải dành nhiều thời gian hơn người khác, và ở một lĩnh vực nào đó bạn lại mất ít thời gian hơn người khác đấy .

Cố gắng thể hiện năng lực của mình trong xã hội, nếu ở một vài phương diện nào đó bạn vẫn kém hơn người khác, thì đó không phải là do bản thân bạn có vấn đề, mà vấn đề là ở chỗ cách bạn lựa chọn vấn đề chưa thật sự tốt mà thôi.

Vậy yêu bản thân bằng cách nào?

Bằng cách làm cho mình tự tin hơn, mạnh mẽ hơn, thành công hơn…phải không các bạn? Sau đây mình sẽ giới thiệu với các bạn một vài mẹo nhỏ để chúng ta học cách yêu bản thân mình sao cho hiệu quả nhé:

1. Ghi chép lại những việc đã từng làm cho bạn bị quẫn bách, lo lắng, sợ sệt vào một cuốn sổ. Tìm ra cách để khắc phục những nhược điểm đó, và rèn luyện bằng cách đứng trước gương hàng ngày để khích lệ bản thân.

2. Đặt ra cho mình một mục tiêu nhất định, rồi vạch ra phương pháp để đạt mục tiêu đó…đừng sợ, hãy làm từng bước từng bước một.

3. Hãy tìm ra cho mình một hình tượng lý tưởng để học tập, và bắt trước các hành động của họ một cách thích hợp.

4. Rèn luyện cách làm cho mình trở lên mạnh mẽ, tự tin trước những người mà mình đã từng rất sợ hay rất sùng bái, chẳng hạn như nhìn thằng vào mắt người đó trong khi nói chuyện, hay đi lại một cách nhẹ nhàng thoải mái trước mặt họ, đừng khúm lúm hay co rò chạy thật nhanh mỗi khi thấy họ.
……..

Nào, hãy giúp tôi bổ sung thêm và cùng tôi học cách yêu bản thân mình sao cho hiệu quả các bạn nhé.

Chúc các bạn một ngày tự tin, một ngày mạnh mẽ và một ngày thành công.

Kiều Tố Uyên
(dịch từ trung văn)

Tiếng vỗ của một bàn tay

Mokurai, Tiếng Sấm Tĩnh Lặng, là thiền sư trụ trì chùa Kennin. Sư có một đệ tử nhỏ tên Toyo mới 12 tuổi. Toyo thấy các đệ tử đàn anh vào phòng thầy mỗi sáng và tối để nhận giáo huấn trong lớp riêng một thầy một trò và được hướng dẫn cá nhân về cách dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang.

Toyo cũng muốn được vào lớp riêng.

Mokurai nói, “Đợi một thời gian đã. Con còn nhỏ.”

Nhưng Toyo nằng nặc xin, vì vậy cuối cùng thầy cũng đồng ý.

Chiều tối, cậu bé Toyo đến đúng giờ, trước cửa phòng thầy Mokurai dùng làm lớp riêng. Cậu đánh một tiếng cồng báo hiệu đã có mặt, gập mình chào lễ phép ba lần ngoài cửa, và bước vào ngồi yên lặng một cách lễ độ trước mặt thầy,

“Con có thể nghe âm thanh của hai bàn tay khi hai tay vỗ vào nhau,” Mokurai nói. “Bây giờ chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay.”

Toyo cúi chào và về phòng để suy nghĩ vể câu hỏi. Từ cửa sổ cậu có thể nghe nhạc của các cô geishas. “A, tôi có rồi!” cậy bé tuyên bố.

Sáng hôm sau, khi thầy hỏi cậu trình bày tiếng vỗ của một bàn tay, Toyo làm tiếng nhạc của geishas.

“Không, không,” Modurai nói. “Không bao giờ được. Đó không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Con chẳng hiểu gì cả.’

Nghĩ là nhạc của geishas cắt đứt dòng suy tưởng, Toyo chuyển chỗ ở đến một nơi yên lặng hơn. Cậu bé thiền định. “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?” Cậu bé nghe tiếng nước nhỏ giọt. “Tôi có rồi,” Toyo nghĩ.

Khi Toyo đến gặp thầy sau đó, cậu bé bắt chước tiếng nước nhỏ giọt.

“Cái gì vậy?” Mokurai hỏi. “Đó là tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Cố thêm đi.”

Hoài công Toyo thiền định để nghe tiếng vỗ của một bàn tay. Cậu nghe tiếng thở dài của gió. Nhưng tiếng đó cũng bị thầy gạt bỏ.

Tiếng vỗ của một bàn tay cũng không phải là tiếng ve kêu.

Hơn mười lần Toyo vào thăm Mokurai với những loại tiếng khác nhau. Tất cả đều trật. Cả một năm, cậu bé suy nghĩ tiếng gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay.

Cuối cùng Toyo vào được thiền định thật sự và vượt lên trên tất cả mọi âm thanh . “Tôi chẳng còn tìm được tiếng nào nữa,” sau này cậu bé giải thích, “vì vậy tôi đạt được âm thanh im lặng.”

Toyo đã đạt được tiếng vỗ của một bàn tay.

Bình:

竹田黙雷 Takeda Mokurai (1854-1930)

aka 黙雷宗淵 Mokurai Sōen, 左辺亭 Sahen-tei

• Takeda Mokurai (1854-1930) (“Silent Thunder” – Tiếng Sấm Tĩnh Lặng) đi tu lúc còn nhỏ và được huấn luyện bởi các thiền sư hàng đầu thời đó. Mokurai trở thành sư trụ trì chùa Kennin, một trong những ngôi chùa cổ nhất và quan trọng nhất ở Kyoto, Nhật, vào năm 1892 khi Mokurai chỉ 38 tuổi. Mokujrai còn là một họa sĩ nổi tiếng với tên Sayu Núi Đông. Sayu vì một trong những bút danh của Mokurai là Sayutei, và Núi Đông là chỉ chùa Kennin.

• Bài này nói đển thủ tục lễ nghĩa khi đến gặp thầy để có lớp riêng với thầy (sanzen) rất rõ.

• “Dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang.” Đây chính là yếu tính của công án. Đa số công án không phải là một câu hỏi cho một câu trả lời bằng chữ nghĩa hay lý luận, như câu hỏi “tiếng vỗ của một bàn tay” ở đây.

Người học trò, trong tiến trình tìm câu trả lời, sẽ tự nhiên tìm mọi cách để tập trung tư tưởng, không cho tư tưởng đi lang thang. Tâm sẽ lặng từ từ, như nghe tiếng nhạc, đến tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở dài của gió…

• Đến một lúc nào đó, tâm hoàn toàn tĩnh lặng đến nỗi không còn âm thanh nào có thể làm cho ta bị phân tâm. Tai nghe thì vẫn nghe, nhưng tâm hoàn toàn không xao động. Đó là “vượt lên trên” mọi âm thanh.

• Nhưng tại sao lại là tìm được “âm thanh tĩnh lặng” (soundless sound)?

Âm thanh tĩnh lặng (soundless sound) cũng là âm thanh của tĩnh lặng (sound of silence) như tên một bản nhạc của Simon and Garfunkel hay “tiếng thầm trong ngọc nói lời hay” của thiền sư Kiều Trí Huyền.

Tức là, trong tĩnh lặng ta “nghe”, “thấy”, “hiểu” hay “ngộ” được nhiều điều mà khi tâm ta bị phân tâm vì các “tiếng động” ta không nghe, không thấy, không hiểu.

Điều này thì chúng ta ai cũng đã có kinh nghiệm loáng thoáng phần nào—đôi khi ta tĩnh lặng, chẳng làm gì cả, chẳng suy nghĩ gì cả, tự nhiên bao nhiêu ý tưởng sáng tạo lại ùa đến. Tĩnh lặng làm con người thông thái ra, bao nhiêu vị thầy đã nói như thế.

• Tại sao vị học trò trong truyện này chỉ mới 12 tuổi?

Thưa, vì: (1) 12 tuổi thì ít có tiếng động trong đầu từ những lo lắng—con cái, công việc, chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện tiền bạc, chuyện nợ nần… và (2) 12 tuổi thí ít có kiến thức lý luận để mà có thành kiến “Làm sao một tay mà phát ra tiếng vỗ được? Vô l‎ý!”

Tức là nếu cái tâm ta càng nhẹ nhàng, giản dị, và không cố chấp, như trẻ thơ, thì ra sẽ thiền dễ hơn và đạt giác ngộ dễ hơn.

Muốn vào được thiên đàng thì hãy như trẻ thơ.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

The Sound of One Hand

The master of Kennin temple was Mokurai, Silent Thunder. He had a little protégé named Toyo who was only twelve years old. Toyo saw the older disciples visit the master’s room each morning and evening to receive instruction in sanzen or personal guidence in which they were given koans to stop mind-wandering.

Toyo wished to do sanzen also.

“Wait a while,” said Mokurai. “You are too young.”

But the child insisted, so the teacher finally consented.

In the evening little Toyo went at the proper time to the threshold of Mokurai’s sanzen room. He struck the gong to announce his presence, bowed respectfully three times outside the door, and went to sit before the master in respectful silence.

“You can hear the sound of two hands when they clap together,” said Mokurai. “Now show me the sound of one hand.”

Toyo bowed and went to his room to consider this problem. From his window he could hear the music of the geishas. “Ah, I have it!” he proclaimed.

The next evening, when his teacher asked him to illustrate the sound of one hand, Toyo began to play the music of the geishas.

“No, no,” said Mokurai. “That will never do. That is not the sound of one hand. You’ve not got it at all.”

Thinking that such music might interrupt, Toyo moved his abode to a quiet place. He meditated again. “What can the sound of one hand be?” He happened to hear some water dripping. “I have it,” imagined Toyo.

When he next appeared before his teacher, he imitated dripping water.

“What is that?” asked Mokurai. “That is the sound of dripping water, but not the sound of one hand. Try again.”

In vain Toyo meditated to hear the sound of one hand. He heard the sighing of the wind. But the sound was rejected.

He heard the cry of an owl. This was also refused.

The sound of one hand was not the locusts.

For more than ten times Toyo visited Mokurai with different sounds. All were wrong. For almost a year he pondered what the sound of one hand might be.

At last Toyo entered true meditation and transcended all sounds. “I could collect no more,” he explained later, “so I reached the soundless sound.”

Toyo had realized the sound of one hand.

# 21