Chào các bạn,

Ý nghĩa của sự tồn tại của con người là gì? Ngẫu nhiên hay có mục đích? Và chiều tiến hóa tiếp theo của con người sẽ như thế nào? Đây là những câu hỏi nhân sinh mà con người luôn tìm kiếm câu trả lời trong các truyền thống tôn giáo khác nhau. (Xem Bước tiến hóa của con người_TĐH )
Trong kinh điển Phật giáo, khi các bậc A-la-hán đã tự giải thoát mình nhờ hiểu biết chân chánh về Tứ Diệu Đế sẽ nhập Niết bàn và không quay lại trần gian theo luân hồi để trả nghiệp nữa. Nếu nhìn từ quan điểm đó, mục đích của thế giới ta bà này chính là để luyện tâm, để nhìn được bản chất của Tâm thanh tịnh, trong sạch. Chừng nào còn chưa nhìn ra được ý nghĩa trong sự vô thường của đời sống, chưa phát nguyện tu tập ‘Không làm các điều ác, tu tập các hạnh lành; giữ tâm ý trong sạch’, chúng ta còn bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Chừng nào còn bám vào ‘bản ngã’ của Ta, điều bám chấp đó sẽ ràng buộc chúng ta vào cuộc đời và đau khổ với những thay đổi không như ý muốn. Nếu chỉ sống với mục đích hạnh phúc cho bản thân Tôi, gia đình Tôi, con cái Tôi, sẽ đến thời điểm chúng ta cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn, khi mọi thứ dường như vô nghĩa và những điều bất thiện trong suy tư và trong hành động mà chúng ta đã phạm không có cách gì có thể thay đổi.
Chánh Tư Duy, nhánh thứ hai của Bát Chánh Đạo, cùng với Chánh Kiến tạo nên nhóm Tuệ (hai nhóm còn lại là Giới, bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, và ba nhánh còn lại thuộc về nhóm Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định). Trong đạo Phật trí tuệ là quan trọng tối thượng, vì sự thanh tịnh có được là nhờ trí tuệ, do trí tuệ, tuy nhiên Đức Phật không bao giờ tán thán tri thức suông mà trí phải luôn luôn đi đôi với thanh tịnh tâm, với sự toàn thiện về Giới trong hành động. Sự toàn thiện về Giới củng cố Ðịnh và Ðịnh trở lại thúc đẩy Tuệ.
Tư duy rất quan trọng, vì những lời nói và hành động của con người đều xuất phát từ tư duy mà ra, hay nói cách khác chính tư duy đã được chuyển thành ngôn ngữ và hành động. Chánh Tư Duy là kết quả trực tiếp của Chánh Kiến, hay nói một cách dễ hiểu hơn thì: Chánh tư duy là suy nghĩ với Chánh kiến. Như trong kinh Song Tầm đức Phật dạy:
“Này chư Tỳ Kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và còn là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỳ Kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hạitầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỳ Kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn (tức là không đưađến tâm thanh thản an lạc và vô sự cho mình cho người)”. Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỳ Kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Nàychư Tỳ Kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.
Chúng ta phải học cách trực diện với những tư tưởng về tham lam hay sân hận, học cách nhận biết sự xuất hiện và tái xuất hiện của tham và sân, và cuối cùng nhận biết chúng áp đảo tâm như thế nào. Chúng ta phải nhận ra được bản chất của chúng. Nếu một người cứ cho phép tâm mình tiếp tục nuôi dưỡng những tư duy tham lam và sân hận này mà không cố gắng kiểm soát chúng, chắc chắn những tư duy này sẽ mạnh mẽ hơn và thống trị tâm của họ. Nhưng nếu một người thực sự muốn đoạn trừ những ác tư duy, người đó sẽ cố gắng để thấy được sự sanh khởi của chúng và thấy được bản chất vô ngã của chúng, từ đó đoạn trừ được những tư tưởng độc hại.
Phật dạy rằng: ‘Hãy tu tập quán niệm tâm từ vô lượng vì nhờ tu tập lòng từ, sân hận sẽ bị đẩy lùi. Hãy tu tập quán niệm tâm bi vô lượng, vì nhờ tu tập lòng bi, hại và ác tâm sẽ bị đẩy lùi’. Lòng từ bi được coi như “trái tim” của Phật pháp, là một điểm có thể dùng để đánh giá trong quá trình tu tập của Phật tử, dựa vào lòng từ (ban vui) và bi (cứu khổ) có tăng trưởng trong quá trình hay không mà chúng ta biết có đi đúng đường hay không, và cũng dựa vào đó để phân biệt giữa bậc Bồ tát và phàm nhân.
Nhiều người nhầm lẫn giữa lòng từ bi vị tha (không phân biệt, không bám víu) và lòng thương yêu vị kỷ (bám víu vào một đối tượng nào đó). Ví dụ gần gũi và khó vượt qua nhất về tình yêu vị kỷ là tình yêu của bố mẹ dành cho con cái. Nhiều bậc cha mẹ sẵn sàng làm những điều bất thiện để con cái được sung sướng, nhận phần “bất thiện” về mình để con được trong sạch, nhưng không biết rằng tất cả chỉ là Một, bố mẹ và con cái chỉ là Một, chỉ một người làm ác thì tất cả phải chịu một phần hậu quả, cũng như một người làm thiện, tất cả đều được hưởng một phần lợi lạc. Đây cũng là ý chính trong Pháp Duyên Khởi của Phật pháp, tất cả mọi sự kiện đều là đa nhân sanh, và tất cả đều liên hệ đến nhau trong Toàn thể, ngay cả một tư tưởng nhỏ nhất cũng có khả năng rung động đến vô lượng thế giới.
‘Không có người tác nghiệp
Cũng không người thọ quả;
Chỉ có hiện tượng trôi chảy
Thấy như vậy là Chánh Kiến’
Con người khi vẫn còn bám chấp vào quan niệm cố chấp có “Ta”, Tôi và của Tôi, và tất cả mọi câu hỏi đều xoay quanh cái Ta này, sẽ thắc mắc cái gì đạt đến hay ai chứng đắc Niết bàn, mà quên mất rằng chỉ đạt được đến Niết bàn khi đã vô ngã, tức là cái “Ta” không còn hiện diện, cho nên có Niết bàn nhưng không có người chứng đắc Niết bàn. Khi một người nhìn rõ bản chất vô ngã và tiến trình hoại diệt “bất cứ pháp nào có bản chất sanh, tất cả pháp ấy đều có bản chất hoại diệt”, người ấy sẽ tự mình hiểu được Niết bàn thanh tịnh vẫn luôn nằm ngay trong Tâm.
Tổng kết lại, chúng ta có những suy tư cần diệt trừ, là những suy tư về tham dục, sân hận và ác độc, những suy tư cần tăng trưởng là về lòng từ bi vô lượng hướng đến tất cả mọi người mọi loài không phân biệt. Con người tuy rằng thông minh hơn các loài động vật khác, nhưng đều là các loài hữu tình cùng có ý nghĩa tồn tại tương đương nhau, chúng ta không có lí do gì giết hại ăn thịt các loài động vật khác chỉ để thỏa mãn sự khoái khẩu của mình. Sự sát sanh, chỉ gây ra những tầng lớp oán thù bủa vây con người trong sự bất thiện và tội lỗi, vì vậy Phật giáo chủ trương giữ Giới, tôn trọng sự tồn tại của các loài hữu tình như chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta còn cần tránh những suy tư vô ích, trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước các câu hỏi siêu hình. Đức Phật giải thích điều này sẽ làm chúng ta chia trí, không tập trung vào việc diệt khổ, như người trúng tên độc hay nhà cháy mà không lo chữa, cứ thắc mắc các chuyện siêu hình.
Trong kinh Tương Ưng phần 41.I. Tư Duy (S.v,446) viết:
7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, chớ có suy tư về thế giới : “Thế giới là thường còn”, hay : “Thế giới là vô thường”, hay : “Thế giới là hữu biên”, hay : “Thế giới là vô biên”, hay : “Mạng sống và thân thể là một”, hay : “Mạng sống và thân thể là khác”, hay : “Như Lai(*) có tồn tại sau khi chết”, hay : “Như Lai không tồn tại sau khi chết”, hay: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”, hay : “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Vì sao ?
8) Các điều suy tư ấy, này các Tỷ-kheo, không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
9) Nếu có suy tư, này các Tỷ-kheo, các Ông hãy suy tư : “Đây là Khổ”… “Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt”. Vì sao ?
10) Các suy tư như vậy, này các Tỷ-kheo, liên hệ đến mục đích, các suy tư ấy làm căn bản cho Phạm hạnh, các suy tư ấy đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
11) Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết : “Đây là Khổ”… một cố gắng cần phải làm để rõ biết : “Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt”.
Có nhiều sách vở học giả Phật giáo về sau cố giải thích những điều mà Đức Phật đã im lặng, cố gắng đặt vấn đề phải chăng Đức Phật có giải thích những vấn đề huyền hoặc này? Chúng ta cũng không cần có một kết luận nào, nhưng chúng ta có một điều có thể khẳng định rằng pháp mà Đức Phật biết thì nhiều hơn pháp mà Đức Phật đã nói. Trong kinh điển còn ghi lại, một hôm Đức Phật nắm một nắm lá trong tay và hỏi các đệ tử rằng:
“Này các Tỳ-kheo, trong tay Ta nhiều lá hay trong rừng nhiều lá?”. Các Tỳ-kheo trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn rất ít so với là trong rừng ” Đức Phật dạy: “Cũng như vậy, những pháp mà Như Lai chứng biết như lá trong rừng, còn những pháp mà Như Lai nói cho các vị như lá trong nắm tay này, chỉ có một ít, những pháp mà Như Lai nói rất hữu hạn. nhưng tại sao Như Lai không nói hết? Vì chúng không có ích, không hướng dẫn mọi người chứng đắc Niết-bàn. Đó là nguyên nhân mà Như Lai không nói hết những pháp đó”.
Như vậy những điều này không phải Đức Phật không biết, mà vì Đức Phật quán thấy sự hạn chế của ngôn ngữ, không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt một cảnh giới siêu việt (xem thêm: Đức Phật không trả lời những câu hỏi siêu hình).
Chúc các bạn thanh lọc những suy tư của mình để giữ được tâm an lạc thanh tịnh trong cuộc đời đầy cám dỗ nhiễm ô này và không bị mất thời gian vào những suy tư vô ích “Cái gì tồn tại ở ngoại biên của vũ trụ này?” ^^
Hẹn gặp lại các bạn.
Phạm Thu Hường
07/10/2013
(*) Chú thích: Đức Phật gọi là “Như Lai” viết tắt của “Như Lai Như Khứ”–as it comes, as it goes (như đến như đi), tức là đấng tĩnh lặng, điềm nhiên tự tại, tự do, không dính mắc.
Bài viết sử dụng tư liệu trong cuốn Con đường Cổ Xưa của Tỳ kheo Piyadassi Thera, do Tỳ kheo Pháp Thông dịch.
Các bài cùng chuỗi:
Kinh Chuyển Pháp Luân: Trung Đạo
Kinh Chuyển Pháp Luân: Tứ Diệu Đế
Kinh Chuyển Pháp Luân– Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh Tư Duy
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh nghiệp
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh ngữ
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh mạng
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh Tinh Tấn
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh niệm
Kinh Chuyển Pháp Luân — Bát Chánh Đạo: Chánh định
Got it, thanks anh!
LikeLike
Trung em chẳng hiểu gì cả. Học như em thì 100 năm cũng chẳng biết gì. Điểm chính anh nói là em lấy tên người bừa bãi, không biết đây là ai nói, Einstein hay anh cả bựa nào. Tức là đang chuyển tải rác trên Internet. Một điều dối trá là rác, kể cả khi nó nghe có lý. Lời nói dối nào trên thế giới cũng đều nghe có lý. Vậy mới lừa thiên hạ được.
Nếu công thức đó do em sinh ra, có lẽ anh đã nói: “Wow, Trung thật là sáng tạo.”
Nếu em muốn học tâm linh, điều đầu tiên là khi thấy mình sai thì nhận. Đừng bào chữa gì cả. Bào chữa là cái tôi, kể cả khi mình đúng 100%. Học Hakuin
Em đang đứng ở hàng đai trắng, mới có đai được hai ngày. Hãy có tác phong của một vị thầy lớn. How long have you read me?
Come on!
A. Hoành
LikeLike
Hi anh Hoành,
Cảm ơn anh đã dành thời gian phản hồi về “công thức” trên 🙂
Thật ra do em dùng từ ngữ hơi dễ khiến nhiều người hiểu lầm vì từ công thức ở trên không có nghĩa là công thức khoa học. Chỉ đơn giản là cách sống. Cụ thể là từ người cha viết thư cho con gái, nhắn nhũ con mình hãy biết sống yêu thương, ông dùng chính công thức nỗi tiếng E=MC2 của mình làm cách nói ẫn dụ để con gái mình dễ nhớ(cũng giống như câu nói “một tiếng khảy móng tay cũng có thể…”).
Em rất ấn tượng với “công thức” này không quan trọng nó đến từ đâu mà vì giá trị nhân văn của nó. Từ khi áp dụng điều này vào cuộc sống em thấy khá lên hẵn. Em thường hay tự hởi mình tình trạng năng lượng tình yêu mình đang như thế nào: đang xuống thấp, trung bình hay tốt, chỉ cảm nhận vậy thôi chứ đừng suy nghỉ chi tiết về nó, vì càng suy nghĩ về câu trả lời càng làm tiêu tốn năng lượng và càng rối rắm một cách không cần thiết.
Cách thực hành đơn giản này thực ra cũng chính là thiền tập, với đối tượng hành thiền là tình trạng năng lượng tình yêu.
Great Day anh!
e.Trung.
LikeLike
Hi Trung,
Mình biết Einstein có công thức chuyển đổi từ vật thể ra năng lượng, giúp Oppenheimer và các cộng sự làm ra quả bom hạt nhân đầu tiên. Người ta gọi đó là thuyết tương đối (relativity theory). Tức là dạng của vật thể có thể được chuyển thành dạng năng lượng. Nghĩa là mỗi dạng hiện hữu chỉ là tương đối, dạng này có thể chuyển thành dạng kia.
Đó là E = mc2
M là “mass” (khối lượng của vật thể). c là vân tốc ánh sáng. c2 là vận tốc ánh sáng bình phương. E là năng lượng được tạo ta.
Đại khái là một khối lượng vật chất rất nhỏ có thể biến thành một năng lượng cực lớn, nếu toàn khối lượng đó biến thành năng lượng.
Theo mình hiểu đây là một khái niệm về chuyển đổi giữa vật chất và năng lượng. Kiểu như khúc củi cháy và tạo ra năng lượng ấm. (Nhưng củi cháy thì hầu hư vật thể còn nguyên vẹn – trong khói, than, các loại khí tạo ra khi củi cháy. Nhưng khi vật thể hoàn toàn biết mất và thành các sóng năng lượng, thì số lượng nặng lượng được tạo ra lớn kinh khủng, đại diện bằng cong thức E = mc2.
Nhưng công thức này, theo mình hiểu là cách diễn tả một lý thuyết hơn là một công thức toán chính xác, vì công thức này không có đơn vị đo lương. Vật thể, tính băng gì? gram? Miligram? Vật thể gì? Năng lượng tính bằng đơn vị đo lương nào?
Hiện nay các nhà vật lý nguyên tử dùng khái niệm lý thuyết của Einstein để tìm cách phá vỡ các nguyên tử (atom) để tạo ra năng lượng. Nhưng mỗi thứ vật thể đều hoạt động hơi khác nhau một chút, và cách phá vỡ nguyên tử cũng ảnh hưởng đến số năng lượng được tạo ra.
Chiều ngược lại, biến năng lượng thành vật thể thì hình như chưa được ai nghiên cứu, nhưng đó là vấn đề sinh học. Chúng ta có thể thấy động và thực vật hấp thụ năng lượng vào và tăng trưởng. Mình có nghe đến vài nhà sinh học nghiên cứu những điều kiện vật lý và hóa học mà hy vọng là tự chúng tạo ra sự sống (những siêu vi khuẩn đơn giản nhất), nhưng chưa ai thành công.
Nhưng công thức E=LC2, trong đó L là love, thì mình nghĩ anh chăng nào đó xạo ra rồi lấy tên Einstein. Einstein đủ thông mình để nói về vật lý, chẳng phiêu lưu vào tính toán love thành số lượng, which is stupid. Và mình nói “anh chàng xạo” vì phụ nữ rất thông minh về tình cảm, chẳng cô nào ngớ ngẩn đến mức tính tình yêu ra con số (ngoại trừ có ít cô có thể nói: “Anh yêu em thì chứng minh bằng một chiếc xe ô tô 100 ngàn đô đi.” Nhưng các cô này là siêu thông minh, chẳng ngớ ngẩn 🙂 )
Coi chừng rác trên Internet. Các câu quote của Khổng tử, Buddha, Đạt Lai Lạt Ma, Einstein và đủ mọi loại người nổi tiếng khác, theo mình thấy thì ít nhất 50% là xạo. Cách nhận ra dễ nhất là mình nắm vững vấn đề. Đọc một câu quote của Buddha mình phải nhận ra đây không phải là Phật nói, nếu câu đó nói về thiện thắng ác, tốt thắng xấu… Vì Phật gia vượt lên trên nhị nguyên, vượt lên trên đối đãi…
Chúng ta phải nắm vững những tư tưởng lớn, đồng thời nhạy cảm một chút về thiên hạ láu cá. Chỉ có Chúa Giêsu ít bị lạm dụng, dù là cũng có, vì một câu quote của Giêsu nếu search the Bible không có, thì đó là xạo. Còn các vị kia thì kinh sách nhiều quá, nhiêu khi search không ra. Vì thế cái đầu nhạy cảm của mình rất quan trọng trong việc chọn lọc các thứ trên Internet. (NHưng thánh kinh thì bị lạm dụng đến hơn 90%. Các giáo lý thánh kinh nói thế này nói thế kia, mà không có citation, như John 5:10, thì coi như đó là xạo. Nhiều khi mỗi câu nói ra đều có citation chính xác, nhưng vẫn là xạo, vì dùng những câu khác nhau, chắp vá lại thành một điều mới mà thiên hạ muốn, chứ Thánh kinh hay Jesus không nói như vậy.
Cho nên, suy nghĩ sắc bén và nhạy cảm. Các bạn, nếu thế giới không tràn ngập Chùa Ba Vàng và “Đại đức” Thích Trúc Thái Minh, thì các bạn đã chẳng hề biết đến mình. Mình đã dành thời giờ ra bãi biển hóng gió hằng ngày rồi, chẳng lý do gì phải nói chuyện Thích Ca và Giêsu với các bạn, trong khi chuyện luật mình còn không muốn nói nhiều. Cho nên, chúng ta cần cẩn trọng về điều gì ta nói, vì sẽ có nhiều người học ta.
Great day, Trung.
A. Hoành
LikeLike
Mình rất ấn tượng với công thức E = LC2 mà Enstein gởi cho con gái trong một bức thư.
1. E: chính là năng lượng của tình yêu. Năng lượng lành lành tính(không giống như dạng năng lượng của một trái bom, hay năng lượng của tham/ sân). Theo kinh thánh, Jesus cứu chuộc(chữa lành, giúp đỡ…) loài người bằng chính nguồn năng lượng này vì Jesus sinh ra vì tình yêu với loài người – sống vì tình yêu với loài người – bị đóng đinh vẫn cứ yêu loài người(đặc biệt là với người trực tiếp đóng đinh ngài bằng lời cầu nguyện với tình yêu thay vì chửi thề). Nói chung cuộc đời Jesus chỉ sản xuất ra năng lượng tình yêu từ chính đời sống của mình và lan tỏa rộng ra thế giới cho đến ngày nay. Và điều tương tự đối với Phật, năng lượng từ bi.
2. L: chính là chỉ số/mức độ mạnh yếu của tình yêu mỗi người có tại một thời điểm nào đó, nó luôn thay đổi tùy vào điều kiện bên trong và bên ngoài(sáng sớm ngồi tỉnh tâm phát thấy “cuộc đời vẫn đẹp sao”, đến trưa năng lượng tụt xuống đến đáy thì yêu cái nổi gì). Mỗi chúng ta cần phải tìm phương pháp thực hành nào phù hợp phù hợp nhất với mình để nuôi dưỡng chỉ số này(phổ biến nhất là kết nối với Jesus/Phật để các ngài truyền cho một ít năng lượng(E)).
3. C2: bình phương(BP) vận tốc ánh sáng(vd 2 BP = 2*2 = 4). C là hằng số không đổi nên không cần bàn luận chỉ cần biết nó là một con số vô cùng lớn.
khi mình cảm thấy tốt(bình an, vui, hạnh phúc, tràn trề năng lượng…nói chung là thuộc về vế tốt) nghĩa là chỉ số E đang tốt, có thể (1) do mình đang tiếp xúc được với nguồn năng lượng tốt từ Jesus/Phật hoặc do(2) chỉ số L đang tốt như mình đang có cảm tình tốt với người mình đang gặp hay việc mình đang làm… Và ngược lại.
Mình tin vào công thức này của Enstein cũng như tin vào chúa Jesus hay Phật vậy. Nếu lấy Bát Chánh Đạo ra làm hệ qui chiếu thì mình nghĩ chẵng trật đi đâu được. Mình không rành nhiều về chủ đề này nên không dám bàn luận nhiều, chỉ một ví dụ đơn giản như ai đó nói lời hay ý đẹp với mình(chánh ngữ) thì người đó đã sản xuất ra một số năng lượng lành(E) cho mình và cả người nói.
Và cũng chánh ngữ một chút, Chúc cả nhà một kì nghĩ cuối tuần thật nhiều năng lượng tình yêu!.
LikeLike
Dạ chị QL rủ em về thăm vườn nhà ạ 🙂
Em hiểu điều anh nói về kết nối với Jesus thì không còn khổ, vì có sức mạnh tâm linh từ đó để làm mọi việc. Có lẽ điều số (5) này là cái nhìn từ bên ngoài vào thì thấy như vậy tưởng là khổ, là mệt và nhiều khi không hiểu được nên nhiều nghi kị, định kiến. Nhưng nếu có Jesus trong lòng thực sự thì mọi huấn luyện không bao giờ là quá sức.
Em Hường
LikeLiked by 1 person
Wow, hôm nay Hường trở về nhà. Mấy hôm trước thì Quỳnh Linh. Hèn chi mấy bữa nay có động đất, mà trong lòng anh vui vẻ lạ thường. 🙂
Nói về “khổ” của nhà Phật, người ta thường bị rối rắm và do đó không hiểu được đến tận cùng. Thiên hạ hay hiểu nghèo là khổ, thiếu ăn là khổ, tật nguyền là khổ… Đây là những điều khổ đối với nhiều người, nhưng thực sự chỉ là một chút ngoài da, không phải là “khổ” mà nhà Phật nói đến trong Phật triết.
Khổ là si mê, là tội, là tội nghiệp (hay nghiệp tội), vì không hiểu được chân lý trong Phật pháp.
Cuộc đời và con người của chúng ta cực kì phù du trong cõi vô cùng. Cuộc đời, 60 hay 100 năm, chưa bằng một chấm nhỏ của đầu bút bi trên giấy, trong dòng thời gian vô lượng của vũ trụ. Tương tự, con người của chúng ta chưa bằng dấu chấm bút bi, trong vũ trụ rộng rãi vô lượng.
Tức là, cuộc đời và con người của ta chẳng có gì đáng nói. Nhà Phật dùng các từ phù du, không thật, ảo ảnh, mộng ảo bọt bóng… để nói đến điểm này: ta và đời ta chẳng có gì đáng nói.
Chính ta và đời ta còn chẳng đáng nói, thì nói gì đến giàu nghèo, khuyết tật hay lành lặn, danh dự hay nhục nhã, bần cùng hay quý phái… Tất cả đều là ảo ảnh, đều không đáng nói như nhau. Khuyết tật, hay bị đụng xe chẳng hạn, có đủ thứ lý do, nhưng đều không đáng nói. Và đó cũng chẳng là “khổ”, đó chỉ như mọi thứ khác là điều không đáng nói. “Khổ” là không biết được ta và đời ta rất phù du ảo ảnh, không đáng để bám vào, dính vào, chấp vào.
Và giải thoát khỏi “khổ” là hiểu được Phật tính (tâm nguyên thủy tinh khiết) trong ta để nắm lấy Phật tính mà sống. Làm được thế là được giải thoát, được tỉnh thức, được là Người tỉnh thức (Bồ tát – Bodhisattva, Phật – Buddha – the Enlightened One).
Khái niệm “khổ” không phải là khái niệm chính của Thánh kinh Kitô giáo, nhưng được giáo hội Công giáo nâng “khổ” lên hàng chính sách cao nhất, để mọi tín đồ siêng năng chịu khổ, đi xâm lăng (khổ cho Chúa và chết cho Chúa Giêsu). Hoặc vui vẻ chịu sống trong bần cùng và áp bức của tầng lớp quí tộc và giáo sĩ (để làm Chúa vui). Đây chính là lý do Karl Marx luôn nói “tôn giáo là á phiện.” Nhưng Marx nói về “tôn giáo” (tức là các giáo hội). Marx có vẻ muốn mọi người được có “tự do tâm linh cao hơn” (greater spiritual freedom) bằng cách phá bỏ xiềng xích trên thân thể trước. Marx có lẽ có trái tim rất yêu thương người nghèo và người bị áp bức.
Lenin mới là người dùng từ “vô thần” (atheism) trong tư tưởng chính trị.
Trung tâm điểm của Thánh kinh Kitô giáo là Chúa Giêsu. Không phải khổ hay sướng, giàu hay nghèo, trí tuệ hay ngu dốt…
Anh thấy yêu và kết nối tốt với Chúa Giêsu thì ta luôn vui vẻ hạnh phúc tại moi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Không có chỗ đứng cho “khổ” trong tâm ta. (Nếu kết nối với Jesus mà còn khổ trong tâm thì đó chẳng là kết nối). Và rất dễ hiểu là Jesus yêu chúng ta nên đương nhiên muốn mọi chúng ta vui vẻ hạnh phúc. Tại sao Jesus yêu chúng ta mà lại muốn chúng ta khổ, nhất là khổ vì “yêu Jesus” hay “bảo vệ (tên) Jesus”? Jesus đâu cần ai yêu Jesus để khổ, hoặc bảo vệ Jesus hay tên Jesus. He doesn’t care about those things. He wants us to be happy.
Còn việc lên xuống ở đời thì đôi khi mệt – anh không muốn dùng từ “khổ”, vì đời nó vậy – và đôi khi Giêsu muốn huấn luyện ta – huấn luyện như trong quân trường thì tất nhiên phải mệt. Anh được Jesus huấn luyện kiếu đó có lẽ là nhiều hơn người trung bình.
Chúc em vui.
In Christ, Hường.
A. Hoành
LikeLiked by 2 people
Em comment vào post cũ này vì bây giờ nhìn lại em có thể hiểu Phật pháp ở tầng sâu hơn chút nữa. Nhất là liên hệ với chuyện gần đây, việc tùy tiện dùng tiền kiếp để lập luận về hoàn cảnh của cô gái tội nghiệp là một tội (tội thế tục) rất rõ : làm nhục người khác trên phương tiện thông tin đại chúng và phải chịu tội trước pháp luật.
Đây cũng là một ví dụ điển hình về sự si mê khi người nói và nghĩ những điều tương tự như thế khi tu theo đường Phật: sao người ta không nhận ra sự ác (tội tâm linh) khi nói thế?
Hầu hết mọi nền văn hóa trên thế giới ngày trước, tin rằng khi người ta bị thương tích, thiệt hại, tật nguyền là do Chúa phạt, vì mình có tội hay, như các em bé, thì bố mẹ có tội, hay như trong nhà Phật, do tội tiền kiếp. Nhưng đây là một tư duy không đúng, và rất tội nghiệp, vì người khi bị hoạn nạn thì lại bị thêm bạn bè hàng xóm cho đó là bị Chúa phạt hay do nghiệp từ kiếp trước mà thiếu đồng cảm và chia sẻ. Ngày nay ta không thể tư duy như thế. Nếu nhìn từ bên ngoài, con người sinh ra đời những với hoàn cảnh khác nhau, nhưng trong tất cả các truyền thống tâm linh, ý nghĩa của sự sống không nằm ở những khác biệt này.
Trong cái nhìn của nhà Phật, mọi hoàn cảnh đều bình đẳng, như những màu sắc khác nhau như những bông hoa sinh ra với hương sắc khác nhau. Mỗi người nhận được những hoàn cảnh của riêng mình, bố mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè, bạn đời do duyên phận. Mục đích của truyền thống tâm linh này là giác ngộ về đời sống vô thường, vô ngã để đạt được tâm tĩnh lặng. Với mục đích ấy thì những hoàn cảnh khó khăn hơn lại có thể khiến người ta nỗ lực nhiều hơn để vượt qua sóng gió, đồng thời cảm nhận được cuộc sống ở tầng sâu hơn những người có hoàn cảnh suôn sẻ, may mắn.
Dù vậy, câu hỏi vẫn có đó là: đau khổ nhìn theo quan điểm nhà Phật thì giải thích như thế nào nếu không phải là do tội tiền kiếp? Mình đã viết đoạn này trong bài Chánh Tư Duy (nhánh thứ 2 của Bát Chánh Đạo) ở trên:
“Đây cũng là ý chính trong Pháp Duyên Khởi của Phật pháp, tất cả mọi sự kiện đều là đa nhân sanh, và tất cả đều liên hệ đến nhau trong Toàn thể, ngay cả một tư tưởng nhỏ nhất cũng có khả năng rung động đến vô lượng thế giới.
‘Không có người tác nghiệp
Cũng không người thọ quả;
Chỉ có hiện tượng trôi chảy
Thấy như vậy là Chánh Kiến”
Theo Kinh Thập Nhị Nhân Duyên thì mỗi quả không phải chỉ có một nhân sinh ra, mà do nhân duyên nhiều tầng nhiều lớp. Nên chuyện không may xảy ra với em gái không thể chỉ là do tội tiền kiếp, mà do nhiều nhân gây ra, ngoài duyên nợ của em kiếp này với trần gian đã hết thì trong đó đương nhiên là có cả nguyên nhân từ sự yếu nền tảng tâm linh nên xã hội mất niềm tin và tệ nạn xuất hiện nhiều hơn.
Còn nếu người ta tin vào Thiên Chúa, thì cũng biết rằng không ai có thể hiểu được ý của Thiên chúa. Con cái có thể bệnh tật vì những hậu quả từ thời chiến tranh, từ chất độc da cam được dùng trong cuộc chiến. Chúa không thể ngăn cản “quả” của “nhân” do con người gieo. Con người tự do gieo nhân thì tự do thấy quả, và phải học cách khắc phục quả của mình. Thầy mình nói: “Thiên chúa thường nhìn loài người như một nhóm chung, không nhất thiết phải theo phe này phe kia. Tuy nhiên có một điều rất chắc là Thiên chúa có thể dùng tất cả mọi người—từ người lành lặn đến người khuyết tật—như thiên sứ của Ngài, để là the Word của Ngài, để giúp thế nhân biết Thiên chúa là ai, để mọi người có được eternal life. Và trong công việc rao giảng Thiên chúa, người khuyết tật thường làm tốt hơn người lành lặn.”
Thánh kinh có nói đến 5 trường hợp con người bị đau khổ:
(1) đau khổ như là một chứng minh hay thử thách của lòng tin
(2) đau khổ để tiến bộ, cho sự trưởng thành của chính ta
(3) đau khổ vì bị trừng phạt do tội lỗi
(4) đau khổ để biểu hiện vinh quang của Chúa
(5) đau khổ vì làm chứng cho Jesus
Trong đó 3 điều đầu tiên là tư duy đúng đắn về đau khổ/sự dữ/sự ác gần như giống nhau giữa các truyền thống tâm linh. Hai điều cuối thì được những người đi theo Jesus hiểu rõ hơn.
LikeLike
Bài này rất hay chị Hường!
Cảm ơn chị đã viết ra những tài liệu quý như thế này ❤️
Em thực sự rung động khi đọc chuỗi bài “Bát Chánh Đạo” này.
Đệ tử cuối đầu bái phục Như Lai.
Và xin bái lạy chư Phật, chư Bồ Tát.
Nguyện tinh tấn thực hành.
Em Phương
LikeLiked by 1 person
Hi chị Hường,
Sáng nay em vào đọc bài chánh tư duy của chị, chị viết rất gần gũi và dễ hiểu cho người mới mò mẫm trên con đường học đạo như em. Chúc chị và gia đình năm mới nhiều bình an, hạnh phúc và may mắn nhé.
LikeLike
Chào cả nhà,
Dear chị Quỳnh Linh: Anh Hoành mới nói cho em biết tuổi của chị, chị bằng tuổi chị gái em ^^ (em sinh năm 1984).
Cảm ơn Tuấn đã ủng hộ bài viết của mình, hi vọng những bài giới thiệu của mình đem lại cho những người bận rộn một vài điểm thú vị trong Phật pháp, và những người thong dong một quan điểm về Phật pháp để nhận xét và góp ý thêm cho em.
Chúc bình an cho mọi người
Em Hường
LikeLiked by 1 person
Hi Chị Hường,
Cám ơn chị về bài viết. Em chưa hiểu nhiều về Phật Giáo, nhưng qua bài viết của chị e được biết thêm một chút. Nếu mỗi ngày biết một chút là mừng rồi chị ạ. 😀
Em Tuấn.
LikeLike
Cám ơn Thu Hường. 🙂
Em chưa kịp đọc bài này đâu, vì em đọc những vấn đề này khá chậm. Nhưng thấy mọi người nói chuyện vui quá nên em muốn vào chào hỏi ạ. 🙂
LikeLiked by 1 person
Dạ, em cảm ơn anh Hoành và chị Xuân Lành đã đọc và nhận xét. Em đọc và viết về Phật pháp cũng thấy hiểu được vấn đề sâu sắc hơn rất nhiều. Ngày trước em chỉ đọc và chưa thực sự thấy mình là người con của Phật, từ khi bắt đầu viết ra những dòng này em có ý thức rõ hơn và bắt đầu ăn chay để bớt đi một nhu cầu về sát sanh.
Cảm ơn cơ duyên đã đưa em đến với ĐCN, em rất mong có ngày được đến thăm buôn làng của chị Xuân Lành, cùng với các bạn vườn chuối nữa. Đó chắc chắn sẽ là một dịp rất vui và ý nghĩa.
Chúc cả nhà một ngày an lành
Em Hường
LikeLiked by 2 people
Hi Thu Hường
Sau khi đọc quyển “Con Đường cổ xưa” do Anh Hai giới thiệu, mình hiểu Chánh Kiến và Chánh Tư Duy của Bát Chánh Đạo, tạo nên nhóm Tuệ và không thể tách rời vì Chánh Tư Duy là kết quả trực tiếp của Chánh Kiến.
Để dễ hiểu theo cách gọi thông thường, mình có thể tạm gọi: một bên là lý trí, một bên là tình cảm.
Lý trí tức là cái lý luận cái nhìn của mình, mình tạm hiểu như Chánh Kiến.
Và Chánh Tư duy là đời sống tình cảm mình hiểu như là những cảm xúc, cảm xúc đó lành mạnh thì đời sống mình mới có điều kiện để đi xa hơn và làm mọi việc tốt hơn.
Muốn như vậy đừng để mình quá dính mắc vào, quá thích một thứ gì đó.
Về phương diện cảm xúc lành mạnh của đời sống con người thì mình có quyền giận, nhưng không nên để chuyện phiền trở thành một phần thường xuyên cố hữu ở trong đời sống!
Cái giá phải trả cho những sự sân, những sự phiền não đó là sân tư duy, sân tưởng, sân tầm, nó không lợi ích cho ai hết, vì vậy cần cố gắng xóa đi .
Làm sao để tâm không quá dính mắc, cái gì mà dính mắc quá nhiều thì đó là dục cần để ý.
Kiểm soát coi chừng cái sân, trong đời sống hàng ngày không nên mỗi chuyện mỗi giận nó làm cho đời sống trở nên như vết dầu loang.
Và thường xuyên nhắc mình không nên oan kết oán thù, cái oan kết oán thù thật ra không có lợi cho ai hết, nó chỉ làm cho bản thân của mình bị oan trái đời này và đời sau!
Con người còn nhiều bám chấp do vậy nên suy ngẫm và tìm hiểu nhiều về Chánh Tư duy và cần quán được Lời Phật dạy:
‘Hãy tu tập quán niệm tâm từ vô lượng vì nhờ tu tập lòng từ, sân hận sẽ bị đẩy lùi. Hãy tu tập quán niệm tâm bi vô lượng, vì nhờ tu tập lòng bi, hại và ác tâm sẽ bị đẩy lùi’.
Matta Xuân Lành
LikeLike
Cám ơn Hường.
Chánh kiến (nhìn đúng) và Chánh tư duy (suy nghĩ đúng) là 2 phần quan trọng nhất trong Bát chánh đạo.
Chánh kiến là nhìn thấy ngã và chấp ngã là đau khổ. Vô ngã là giải thoát.
Chánh tư duy là trong khi suy nghĩ luôn cảnh giác loại bỏ tham sân si, điều hại, điều ác, điều độc… và luốn suy nghĩ với lòng từ và lòng bi.
Giữ được 2 điều này thì đã là Bồ tát rồi.
LikeLiked by 4 people