NLD – Các làng nghề truyền thống rơi vào cảnh chợ chiều cũng bởi cung cách làm kiểu “ăn xổi”, gắn mác hàng Trung Quốc chất lượng kém vào hàng thủ công truyền thống rồi tung ra thị trường

Theo một nghệ nhân gắn bó lâu năm với làng đúc đồng Phước Kiều, làng nghề mai một và kém hưng thịnh cũng bởi một số cơ sở tư nhân kinh doanh theo kiểu “treo đầu dê, bán thịt chó”. Nhiều cửa hàng mang thương hiệu Phước Kiều nhưng thực chất mua lại nguồn hàng từ Thừa Thiên – Huế, Bắc Giang hay TP HCM. Nhiều hộ thậm chí còn chơi xấu nhau.
Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh cũng nổi lên ở Hà Nội như làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông), làng gốm Bát Tràng (huyện Gia Lâm)… Ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cho biết ở Bát Tràng, một số hộ làm nghề đã nhập gốm sứ Trung Quốc về rồi gắn nhãn hiệu Bát Tràng để bán; người dân thậm chí “dìm hàng”, nói xấu nhau.
Ở Vạn Phúc thì mua lụa nơi khác rồi về pha, biến thành sản phẩm của làng. Bởi vậy, nhiều làng nghề đang “chết mòn” vì thiếu quy hoạch và sản xuất theo kiểu “ăn xổi”, chỉ chăm chăm chạy theo lợi nhuận.

“Chúng ta sẵn sàng hội nhập nhưng phải ghi rõ đâu là hàng Trung Quốc, đâu là của làng nghề. Đằng này lại trà trộn rồi dán nhãn mác thành của mình để bán, bảo sao không mất uy tín!” – ông Dần lo ngại.
Mặt khác, sản phẩm của các làng nghề còn quá đơn điệu, có khi chất lượng thấp nên không được phía đối tác nước ngoài cũng như du khách lựa chọn. Lý giải về vấn đề này, ông Nguyễn Kỳ ở làng nghề dệt Mã Châu (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) cho rằng sản phẩm từ làng dệt ít được ưa chuộng trên thị trường bởi không cạnh tranh nổi với hàng Trung Quốc vốn có mẫu mã đẹp mà giá lại rẻ hơn.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa được nhiều người ở làng nghề lý giải là do nguyên liệu nhập về để sản xuất như sợi thì phải mua với giá cao, mua xong trả tiền ngay. Ngược lại, sản phẩm bán ra thì giao hàng trước rồi chờ lấy tiền sau nên làng nghề dệt vì thế trở nên đuối sức.
Công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm
Trong khi nhiều làng nghề ở Hà Nội, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam sản xuất cầm chừng vì ế ẩm thì các làng nghề gạch, gốm tại 2 tỉnh Vĩnh Long, An Giang buộc phải thu hẹp do phương thức sản xuất lạc hậu gây ô nhiễm môi trường.
Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long, các khu vực lò gạch trong tỉnh phát tán nồng độ axit flohidric cao, có nơi vượt quy chuẩn 10-30 lần và ngày càng tăng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Hầu hết các cơ sở này không có nơi che chắn trấu, tro nên khi gió mạnh sẽ bị thổi lan ra sông, rạch và nhà dân.
Ông Trương Chí Thiện – Phó Phòng Công Thương huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long – cho biết vì các lò gạch thủ công gây ô nhiễm môi trường nên huyện đã quy hoạch thành 6 tuyến sản xuất, không cho phép mở rộng lò. Trước tình hình này, giám đốc một công ty sản xuất gạch, gốm tại huyện Mang Thít đề nghị được hỗ trợ cho vay vốn để thay đổi công nghệ, giảm giá thành sản xuất; như vậy mới mong sản phẩm cạnh tranh với nhiều thương hiệu khác.
Theo ông Trần Minh Đoàn – làng nghề mộc Chợ Thủ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang – các cơ sở mộc, chạm khắc gỗ tồn tại trong khu dân cư nên mạt cưa và sơn PU gây ô nhiễm rất nặng. Vì vậy, để nghề mộc chạm khắc gỗ Chợ Thủ trụ vững, rất cần tăng nguồn vốn hỗ trợ mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất, thành lập khu sản xuất tập trung và phòng trưng bày sản phẩm làng nghề ở các trung tâm huyện, TP trong tỉnh. Ông Đoàn cho rằng cần thành lập nhà máy, tận dụng mạt cưa chế biến thay than củi sử dụng trong đun nấu, vừa tăng lợi nhuận vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Cần vốn
Bà Lê Thị Bá Hạnh, Trưởng Phòng Quản lý công nghiệp Sở Công Thương tỉnh Thừa Thiên – Huế, cho biết sở đang xây dựng mỗi làng nghề có 1-2 doanh nghiệp làm đầu mối tiêu thụ. Đã nhiều lần, sở đứng ra tổ chức hội nghị gặp mặt giữa các doanh nghiệp với những làng nghề nhưng đến nay chưa đạt kết quả. Ngoài ra, vấn đề trợ vốn cho các làng nghề dù đã rất cố gắng nhưng vẫn còn nhỏ giọt.
Cũng gặp khó khăn về vốn, chị Nguyễn Thị Hân, chủ một cơ sở sản xuất mây tre đan xuất khẩu ở làng nghề Phú Vinh (Hà Nội), than: “Vay vốn ngân hàng bây giờ khó lắm. Nhiều khi vay được về đến nhà thì đơn hàng của đối tác đã trôi đi từ lâu rồi”. Theo ông Lưu Duy Dần, hiện có đến 80% số hộ và các cơ sở sản xuất không thể tiếp cận được vốn vay ngân hàng bởi nhiều quy định khắt khe.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 11-6
Kỳ tới: Mò mẫm trên đường hội nhập
Làng nghề hấp hối: Ngày tàn không xa!
Thứ Ba, 11/06/2013 23:24
Thu hẹp sản xuất hoặc phải đóng cửa hàng loạt; thế hệ nghệ nhân lão làng ít dần trong khi đội ngũ kế cận không có…, hầu hết các làng nghề đứng trước nguy cơ tàn lụi
Hà Nội được mệnh danh là đất trăm nghề với 1.530 làng nghề (chiếm khoảng 50% số làng nghề trên cả nước), trong đó có 281 làng nghề truyền thống thuộc 47 nhóm nghề. Kinh tế suy thoái, hàng nước ngoài giá rẻ tràn vào khiến các làng nghề truyền thống điêu đứng.
“Lửa cháy hai đầu”
Làng Phú Vinh, xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội là làng nghề mây tre đan nổi tiếng nhất nước với gần 400 năm tuổi nghề. Từng được mệnh danh là “làng tỉ phú” nhưng về Phú Vinh giờ chỉ nghe những tiếng than thở. Quy mô sản xuất giảm đến 50%, nhiều công ty, cơ sở sản xuất đã bỏ nghề, đóng cửa từ lâu. Hàng làm ra không bán được nên thu nhập của dân làng nghề rất thấp. Chị Hằng, một người thợ trong làng, ví von rằng người làng nghề giờ phải sống trong cảnh “lửa cháy hai đầu” – khách hàng thì ép giá; nguyên liệu đầu vào và công lao động tăng cao.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Chung cho biết các thị trường chính như: Nga, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản… đều giảm nhập khẩu mặt hàng này. Đơn hàng mới không có, việc ít nên nhiều người dân đã chuyển sang làm nghề khác như buôn bán hoặc đi làm công nhân cho những KCN quanh vùng để kiếm sống. Trước đây, Phú Vinh có hàng chục doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng nay chỉ còn vài cơ sở hoạt động cầm chừng trong khó khăn.

Theo ông Hoàng Văn Hạnh, chủ cơ sở sản xuất mây tre đan Hoàng Hạnh, người trong làng giờ làm chỉ được 30.000 đồng/ngày, thợ giỏi trong làng cũng chỉ được 70.000 đồng/ngày, công nhân của tổ hợp đang phải làm cầm cự, doanh thu giảm mạnh, có nguy cơ phải đóng cửa.
“Chúng tôi không biết sẽ cầm cự được bao lâu nữa. Nếu không giữ được nghề, đó sẽ là nỗi đau rất lớn đối với người Phú Vinh” – ông Hạnh tâm sự. Theo ông Hạnh, nguyên liệu để làm sản phẩm chỉ có theo mùa, giá thì tăng chóng mặt, người dân phải sống trong cảnh “bắc nước chờ gạo làng”, thi thoảng mới có đơn hàng mới…
Nằm bên dòng sông Hương, làng đúc đồng Phường Đúc và Thủy Xuân (TP Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) ra đời từ thế kỷ XVII. Đến nay, làng nghề đúc đồng Phường Đúc chỉ còn lại 61 cơ sở sản xuất của 58 hộ gia đình, một DNTN và 2 HTX. Dù Thừa Thiên – Huế đang vào mùa cao điểm du lịch nhưng khu trưng bày và bán sản phẩm của Phường Đúc có 12 ki-ốt thì chỉ 50% trong số này hoạt động thật sự.
Chị Nga, người bán sản phẩm của cơ sở đúc đồng Nguyễn Thắng Tín, thở dài: “Bán buôn ế ẩm quá nên người ta đóng quán để khỏi tốn tiền thuê nhân viên”. Chúng tôi ghé nhà nghệ nhân Nguyễn Văn Thùy (76 tuổi), thấy ông đang thư thái ngồi uống nước trà, đứa con trai thứ năm kế nghiệp ông do không có việc nên tranh thủ ngủ. “Hơn 1 tháng trở lại đây có khách hàng nào đặt hàng đâu” – ông Thùy chán nản.
Theo ông Hồ Văn Vàng, Chủ tịch Hội Nghề gốm tỉnh Vĩnh Long, năm 2007, làng nghề sản xuất gốm xuất khẩu ở Vĩnh Long có 120 cơ sở nhưng nay còn 32, trong đó chỉ có khoảng 20 cơ sở hoạt động thường xuyên. Năm 2012, toàn ngành gốm sản xuất được gần 12 triệu sản phẩm, đạt chưa tới 60% kế hoạch năm, giảm 20% so với năm 2011. Với tình hình này, nếu không có sự chuyển đổi, cải tiến công nghệ để tiết kiệm nhiên liệu thì làng nghề truyền thống lâu đời ở Vĩnh Long bị lụi tàn là điều khó tránh khỏi.
Bỏ nghề hàng loạt
Bi đát hơn, làng nghề the La Khê ở quận Hà Đông, TP Hà Nội nay chỉ còn 2 người gồm 1 già và 1 trẻ đang kế tục, giữ nghề nhưng họ cũng đang cảm thấy buồn tủi vì quá đơn độc. Làng đúc đồng Ngũ Xã nằm bên hồ Trúc Bạch, quận Ba Đình, TP Hà Nội từng nức danh khắp chốn hàng trăm năm nay cũng còn vỏn vẹn 2 hộ theo nghề. Thời thịnh vượng, cả làng theo nghề của cha ông, cuộc sống khá sung túc khi đơn đặt hàng làm không hết.

Nay làng Ngũ Xã đã lên phố, đi khắp làng chỉ thấy quán ăn, cửa hàng, nhà nghỉ. Anh Thanh Long, con của nghệ nhân đúc đồng nổi tiếng Nguyễn Văn Ứng, không biết có thể bám trụ được đến bao giờ. “Để làm ra một sản phẩm phải trải qua nhiều công đoạn như tạo mẫu, tạo hình, khuôn đúc, sửa nguội, hoàn thiện, có khi mất tới cả tháng mới xong. Tính ra tiền công chẳng đáng là bao” – anh Long nói.
Cũng như vậy, thôn Lư Cấm, phường Ngọc Hiệp, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa chỉ còn 5 hộ theo nghề gốm và chủ yếu làm lò đất nung. Ông Lê Văn Sương, một người bám nghề gần 30 năm, cho biết: “Mấy đứa con tôi đều lo học hành cả, nghe đến làm bếp là tụi nó sợ luôn. Nghề cực quá, mà hàng làm ra ngày càng ế”.
Cũng suy nghĩ như vậy, bà Ngô Thị Đan, nghệ nhân thứ hai còn làm nghề đúc đồng tại Ngũ Xã (Hà Nội), ngậm ngùi: “Chẳng thể trách người dân bỏ đi làm nghề khác. Khi giá bán rẻ mạt, không xứng với công lao động thì làm sao có thể bắt họ giữ nghề”.
Theo ông Trần Túc ở làng nghề Mã Châu (Quảng Nam), nhân công ngành dệt hiện rất khó kiếm bởi thu nhập thấp nên thợ đã chuyển hầu hết sang làm công nhân nhà máy. Vì tìm không ra lao động nên các cơ sở dệt lụa tơ tằm cũng chết dần chết mòn…
Nguy cơ thất truyền
Theo nghệ nhân Dương Ngọc Tiễn ở làng nghề Phước Kiều (Quảng Nam), số lao động theo nghề giảm dần. “Nhà nhà ở làng này không muốn con theo nghề thủ công đúc đồng mà phần lớn cho đi học. Lao động không có thì xưởng sản xuất mở ra nhiều lấy ai làm” – ông Tiễn nói.
Bà Ngô Thị Đan (làng đúc đồng Ngũ Xã), chua chát nói rằng quy ước của làng Ngũ Xã bấy lâu nay không truyền nghề ra ngoài nhưng giờ đây, những người như bà Đan lại đang ngày ngày phải truyền dạy các kỹ thuật tinh túy nhất cho cánh thợ đến từ Nam Định, Thanh Hóa… vì sợ thất truyền.
Kỳ tới: “Chết” vì chụp giật, lỗi thời
Mình nhận thấy người Việt chúng ta trong kinh doanh chưa biết đặt chữ “Tín” lên hàng đầu.
Vì vậy mà những sản phẩm chúng ta làm ra, bán ra chỉ một thời gian ngắn là dẫn đến tình trạng hấp hối, chết non, chết yểu… Thật đáng tiếc 😦
Matta Xuân Lành
LikeLike