Nhân xem bộ phim “Bi, đừng sợ”
“Điện ảnh là một vũ khí nguy hiểm nhưng cũng tuyệt vời biết bao trong tay của các nhà thơ…”
( Jean Cocteau – đạo diễn Pháp )
Bộ phim “Bi, đừng sợ” đã làm dấy lên những luồng dư luận cực kỳ đa dạng và trái chiều đến đối cực mà chưa từng thấy ở bất kỳ bộ phim Việt nào trước đó.
Thành công về mặt nghề nghiệp của bộ phim này cùng những bất cập của nó về nội dung tư tưởng đã được nhiều cây bút phê bình chuyên và không chuyên, của không ít người trong nghề lẫn đông đảo khán giả vạch ra khá cụ thể. Tôi chỉ xin làm công việc điểm báo, trích lại đôi ba dẫn chứng từ hàng ngàn ý kiến đã được đăng tải trên nhiều báo chí, trang mạng ( Để bài viết đỡ lòng thòng, xin phép không ghi tên người viết và xuất xứ đoạn trích).
Khen nhiều:
– “Bi, đừng sợ” có những khuôn hình đẹp và những góc quay tinh tế gây ấn tượng sâu sắc về mặt thị giác. Trạng thái tâm lý tình cảm giữa các nhân vật… cũng được khai thác tới tận cùng bằng những hình ảnh mạnh. ”
– “Nỗi dày vò, bứt rứt của người cô và sự nhẫn nại, tấm tức bên trong của người mẹ được lột tả qua những suy nghĩ, hành động đầy táo bạo đến rùng mình. “Bi, đừng sợ” ví von những mối quan hệ tình cảm của con người giống như viên nước đá – có thể chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác để rồi sau đó tan chảy và biến mất vào hư không.”
– ” Những hình ảnh trên phim trong veo, như một dòng chảy chậm, phản ánh cuộc sống như chính nó đang diễn ra. Diễn viên cũng sống thật, thoải mái trong không gian thật của cuộc sống. Phan Đăng Di đã chuyển tải hình ảnh bằng một góc máy dài để người xem có thể tự do đảo mắt nhìn xung quanh, quan sát và cảm nhận cuộc sống của các nhân vật; mọi góc cạnh của cuộc sống khách quan và thật nhẹ nhàng như những gì diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lặng lẽ như mọi việc, mọi vật vốn vậy”
– ” Những con người như thế, vừa an phận, vừa mong manh chờ đợi để duy trì gia đình, duy trì đời sống. Trong quan niệm chung, đời sống cần được tiếp nối, trôi chảy, nhưng với họ, chẳng biết thế nào – có lẽ đó chỉ là nghĩa vụ!”
– ” Những hình ảnh còn thể hiện tính bức bối rõ ràng thông qua việc dàn cảnh có phần méo mó và ánh sáng mù mờ, chỉ phản chiếu nhân vật giữa một phông nền đen.”
– “Bi đừng sợ” không “truyền thống” kiểu phải có bài học rút ra, tuyên truyền này nọ, nhưng ít nhất xét về tính sáng tạo, tôi thấy ăn đứt nhiều bộ phim khác… so với bộ phim “Đời cát” từng nổi đình nổi đám một thời và cũng đã đoạt giải tại LHP Châu Á Thái Bình Dương thì tôi thấy phim này hay hơn.”
– “Phan Đăng Di đã lựa chọn một cách kể chuyện tưởng như đơn giản, nhưng thực chất, đã pha trộn một cách xuất sắc những hình ảnh tương phản, đôi lúc khốc liệt trong bộ phim của mình.”
– “Cái tôi quan tâm là bộ phim đã tạo ra cái cảm giác rất chân thực. Nó nhắc lại cho tôi một lần nữa rằng tôi đang sống trong một môi trường như thế, tôi phải sống như thế nào, và, sau này, con cái của tôi nên được nuôi dạy ra sao?!”
– “Bộ phim không đi theo quy chuẩn điện ảnh thông thường, mà hướng vào việc tạo ra cảm giác trong từng cảnh quay.”
– ” Có thể thấy trong mỗi khuôn hình, sự cầu kỳ, chỉn chu của đạo diễn. “
– “Bộ phim được dựng cắt, chuyển cảnh một cách đột ngột, như thể chuyển từ trạng thái cảm xúc này qua trạng thái cảm xúc khác, như thể mô tả bản chất thực sự của cuộc sống, của tình cảm của con người. Đạo diễn cũng cố tình lảng tránh các yếu tố cơ bản để tạo nên kịch tính, không đặt nhân vật trước trước thử thách để họ phải giải quyết, không giải thích những biến chuyển tâm lý của họ…”
– “đi ngược với số đông “bình dân học vụ”.
– “Tôi nghĩ phim này là một cái tát vào những lới mòn của tư duy cũ kỹ và đạo đức giả.”
– “Bộ phim không đi theo quy chuẩn điện ảnh thông thường, mà hướng vào việc tạo ra cảm giác trong từng cảnh quay.”
– “Thế nhưng, cái mà Bi, Đừng Sợ tạo ra chính là những cảm giác rất hiện thực nhưng đồng thời cũng rất khó giải nghĩa trong các mối quan hệ của con người, thông qua việc trộn lẫn nhiều câu chuyện của nhiều nhân vật vào với nhau, gói ghém vào chung một gia đình. “
– “dù bộ phim như một sự thách thức với những khán giả chưa có điều kiện tìm hiểu sâu, nhưng hy vọng sau những bộ phim như thế này, văn hóa xem phim của khán giả Việt Nam sẽ được nâng cao hơn nữa.”
Và chê cũng lắm:
– “Đa số nhà chuyên môn đều chê “Bi, đừng sợ”, thậm chí có người còn cho rằng nó như một “cú tát vào mặt khán giả”
– “Phim phản ánh một đời sống quá đen tối và bức bối của tầng lớp thị dân, xoay tròn trong một gia đình mà tất cả các giá trị truyền thống đang bị phá vỡ. Những con người bình thường tự đi vào ngõ cụt cảm xúc của họ và không có lối ra”.
– “Xem phim chẳng thấy giống con người Việt Nam gì cả. Những con người như thế không tiêu biểu ở miền đất vốn dĩ rất luôn coi trọng nề nếp, nền tảng gia đình như Hà Nội”.
– “Bi, đừng sợ” đã rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, theo góc nhìn phiến diện của đạo diễn về cuộc sống, hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật. Điện ảnh có quyền chọn thể hiện cái cá biệt nhưng nó phải phản ánh được cái chung”.
– “Thật đáng thất vọng… xem phim xong tôi cảm thấy sợ thực sự, sợ cho con cháu mình, cho những thế hệ sau của chúng tôi, nếu như chúng vô tình xem phim này, nếu như chúng sống và lớn lên trong một xã hội mà giá trị đạo đức suy đồi, điên đảo và nhớp nhúa đến vậy…”
– “Bôi nhọ luân thường đạo lý trong quan hệ gia đình, giữa cha – con, vợ – chồng, bố chồng – con dâu, quan hệ giữa chủ và người làm thuê ghê tởm, bôi nhọ hình ảnh cao quý của nghề giáo bằng nhân vật cô giáo Hương, một xã hội tối tăm và nhơ bẩn nhất dưới gầm cầu … Bằng những hình ảnh trần truồng như nhộng, tục tĩu như phim khiêu dâm…rồi cuối cùng lại chẳng nói lên được điều gì…”
– “Đừng sợ, đừng sợ cái gì, đừng sợ thì cũng thật lạ đối với những tâm hồn trong trẻo, trẻ thơ như Bi, khi những điều đó làm chúng tôi, đã hai phần ba tuổi đời trải nghiệm… quá khiếp sợ!”
– “Xã hội mà chúng ta đang sống có thể có những điều xấu xa đó, nhưng cũng chỉ là một số rất nhỏ hiếm hoi trong những điều tốt đẹp đang diễn ra hàng ngày, thì tại sao những thứ nhỏ mọn xấu xa đó được đưa lên phim như đại diện của những con người đang sống ở Thủ Đô Hà Nội nói riêng, người Việt Nam nói chung…”
– “xin thú thật là tôi chẳng hiểu nội dung phim nói gì ? Diễn biến, cốt truyện của phim rời rạc, những tình huống nhạy cảm trong phim rất “phô” và phải nói là rất dung tục.”
– “Thất vọng Bi, đừng sợ! … Điểm sáng duy nhất cho bộ phim chỉ có thể là nhân vật Bi (diễn viên nhí Phan Thành Minh) với gương mặt thơ ngây, trong trẻo trước tất cả mọi thay đổi của cuộc sống.”
– “Bi, đừng sợ” đã bóp méo sự thật, không coi trọng con người. Phản ánh hiện thực cuộc sống phải làm sao để khán giả có thể nhìn thấy họ trong đó nhưng xem phim, khán giả không chia sẻ được với đạo diễn mà chỉ cảm thấy con người đang bị xúc phạm đến tận cùng. Không ai phản ứng chuyện điện ảnh nêu lên những vấn đề về tình yêu, tình dục và phản ánh nó bằng ngôn ngữ điện ảnh mượt mà, bằng những tư tưởng lớn lao, nhưng ở phim này, tôi chẳng thấy được ở chỗ nào cả”.
– “Bức bình phong “giải thưởng quốc tế”… Một bộ phim khi đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế thì nghiễm nhiên chiếm một “vị thế” nhất định, ngay cả khi nó khó hiểu cũng không nhiều người dám “nói thẳng, nói thật”. Tâm lý chung này đã vô tình mặc định cho những bộ phim “xem không hiểu được, không cảm được” trở thành tác phẩm “có tư tưởng lớn”.
– “Nó hoàn toàn chẳng có gì Việt Nam và chỉ xoay quanh mỗi vấn đề tình dục… hiện thực cuộc sống có hàng trăm, ngàn thứ cần quan tâm, không hiểu sao các đạo diễn chỉ bám vào “tình dục thô thiển” chả lẽ chẳng còn gì để phản ánh sao? chả lẽ người dân Việt Nam từ già trẻ bé lớn đàn ông đàn bà chỉ chăm chăm mỗi chuyện đó sao?”
– “Thế nhưng bạn không bao giờ có thể đi dạy cho người xem biết là cái này hay lắm, được nhiều giải lắm để người ta cũng đồng cảm với mình… mà chỉ có thể chứng minh bằng tự tác phẩm đó có thể có. Mọi người không thể bới đống bùn ra mà tìm viên ngọc mà bạn cho là có được.”
– “Phim cũng là lĩnh vực kinh doanh, tôi cho những ai làm phim có các cảnh tình dục đều là hành vi lợi dụng tình dục vào mục đích kinh doanh cả thôi. Nó giống với các web xex. “
– “Xem phim chẳng thấy giống con người Việt Nam gì cả. Phim đã bóp méo sự thật, không coi trọng con người. Phim đã rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, theo góc nhìn phiến diện của đạo diễn về cuộc sống, hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật. Phim gây sốc vì cảnh “nóng…”
– “Nếu coi mỗi cảnh phim là một viên gạch thì Bi, đừng sợ giống như một đống gạch chứ không phải cái người ta mong muốn có thể nương náu, thỏa mãn – một ngôi nhà…”
– “Những nhân vật trong phim với câu chuyện lập lờ thiên về bề mặt của mình, chứ không phải lấp lửng hóa như một thủ pháp, hoàn toàn không có khả năng gợi lên bất cứ sự đồng cảm nào từ người xem.”
– “Ở đây, chênh vênh một ranh giới giữa việc thể hiện trẻ con đúng tâm sinh lý, đặc điểm tính cách của chúng và từ đó đạt hiệu quả truyền tải, với sự gượng ép, cố “nặn” ra một đứa trẻ mang những ngôn ngữ, cử chỉ như của “người lớn dạy”, để rồi trông thì có vẻ thật mà hoá ra là “trẻ con giả”.
***
Có thể nói: hầu hết những ý kiến đánh giá, khen chê tràn ngập công luận kể từ lúc phim ra đời tới nay- thậm chí kể cả những ý kiến có động cơ tô vẽ quảng cáo hoặc có động cơ trù ghét đố kị, xét cho cùng, đều chứa đựng hạt nhân sự thật. Thế nhưng, đâu mới là chân lý cuối cùng? Cần nhận định thế nào cho thật khách quan về tác phẩm này?
Điều trước tiên, tôi muốn khẳng định ngay là: bộ phim “Bi, đừng sợ”, đứng về mặt đẳng cấp nghề nghiệp đã vượt trội so với nhiều phim Việt từng giành giải Bông sen vàng Quốc gia hoặc gặt hái những giải thưởng Quốc tế (Tôi không muốn so sánh với những phim đang “hot”và lấy được nhiều nước mắt khán giả gần đây, ví như “Cánh đồng bất tận”- một bộ phim làm theo kiểu mélodram hạng tồi nhất!) Những nhận xét về về thủ pháp điện ảnh chứng tỏ đẳng cấp đó của đạo diễn Phan Đăng Di qua mấy trích dẫn trên theo tôi là đã khá chuẩn xác và đầy đủ, tôi xin miễn phải bàn thêm.
Một người bạn đạo diễn trẻ của tôi từng học qua trường điện ảnh của Pháp (Index) từng kể cho tôi nghe: ở bên đó, những đạo diễn trẻ có dự án hay ý tưởng sáng tác độc đáo đều được nhà nước ủng hộ, họ đều có thể có điều kiện quay lên tất cả những gì họ nghĩ ra. Song, đến khâu hậu kỳ- nghĩa là dính dáng tới guồng máy kinh doanh điện ảnh thì số phim được hình thành chỉ dưới 10%! Như vậy, trường hợp của Phan Đăng Di- một nhà làm phim độc lập nước ta là rất đáng nể, vì chỉ với số tiền thưởng LHP quốc tế Pusan về kịch bản và chạy vạy tìm thêm nguồn kinh phí từ các nhà tài trợ trong – ngoài nước, đạo diễn Phan Đăng Di đã đã thực hiện được một phim hoàn chỉnh, lại được gửi tới tham dự LHP Cannes lần thứ 63 và mang về cho điện ảnh Việt Nam giải thưởng Kịch bản hay nhất tại LHP này.
Nhưng, phim chỉ được giải về kịch bản mà không được giải về phim hoặc về đạo diễn! Đây chính là điều đã không được nói đến – vô tình hay cố tình. Chưa kể, như một nhà phê bình& biên kịch điện ảnh có uy tín là Đoàn Minh Tuấn đã cho biết: “Các phim tố cáo hiện thực nêu lên những mặt trái của xã hội, những nghiệt ngã của con người lại rất thường được phương Tây trao giải. Các phim dạng này cũng không hiếm ở nhiều nước: Nga, Ba Lan, Cộng hòa Czech… Nhưng sẽ khó mà thấy được tương lai của đạo diễn nếu như mải theo đuổi dạng phim kiểu này”. Còn khi đạo diễn kỳ cựu Nguyễn Vinh Sơn nhận xét: “Có thể thấy Phan Đăng Di nhập vào dòng phim hiện thực với những chuẩn mực của nó”, thì bất chợt chúng ta phải đặt câu hỏi: đó là dòng phim hiện thực nào? Theo kiểu Tân hiện thực Ý hay Làn sóng mới của Pháp? Hay Hiện thực XHCN mà người ta đã nói tới nhàm và thực ra cũng chẳng còn nội dung nghiêm túc thực sự? Và cái chuẩn mực đó là gì? Lấy gì làm thước đo, làm tiêu chuẩn? Đã trót đả động tới cái gọi là “chuẩn mực” thì cũng nên bàn cho ra nhẽ một chút!
Đạo diễn Michelangelo Antonioni ( một trong những nhà cách tân sáng giá của điện ảnh Italia giữa thế kỷ trước, thuộc thế hệ khai phá chủ nghĩa Tân hiện thực) trong bộ phim “Sa mạc đỏ” nổi tiếng (sản xuất năm 1964) đã mổ xẻ một cách thấm thía sự cô đơn trong tâm hồn con người, sự tách rời giữa tâm hồn và trí tuệ, giữa cá nhân con người với quan hệ ruột thịt và cội rễ gia đình- khi các giai tầng xã hội phân chia sâu sắc và nền văn minh kỹ trị bắt đầu thống trị tất cả; cùng hàng loạt các phim của ông đều tỏ rõ thái độ bênh vực những con người nghèo khổ bất hạnh, căm thù tội ác và sự thối nát xã hội. Chính thái độ dứt khoát trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa nhân văn và phi tính người đã khiến sự nghiệp nghệ thuật của ông chói sáng trong nền điện ảnh thế giới.
Cũng thuộc nền điện ảnh Italia, đạo diễn Bernado Bertoluci có lần tranh luận với đồng nghiệp là đạo diễn Pháp Gean-Luc Godard: “Tại sao không có can đảm đứng cách xa với nguyên mẫu của anh, chấm dứt chuyện liên tục lặp lại những nhiễu loạn thần kinh mà hãy đối diện với số đông khán giả của mình?” Trên thực tế, Bertoluci đã đem một thứ điện ảnh giàu tính nhân văn tới đông đảo công chúng toàn thế giới- những tác phẩm mãi mãi làm rung động lòng người, như “Bản tăng-gô cuối cùng ở Paris”, “Thân phận con người”, “Hoàng đế cuối cùng”, “Tiểu Phật”… là những minh chứng rực rỡ của một nghệ thuật độc đáo và luôn quan tâm đến số phận con người ở bất kỳ tầng lớp nào, ở bất kỳ hoàn cảnh sống nào.
Ingmar Bergman, đạo diễn Thụy Điển lại ưa dùng hình thức ngụ ngôn giàu bản sắc vùng Bắc Âu để thể hiện những vấn đề thời đại cấp bách, mà cấp bách nhất đối với người đạo diễn tài ba này chính là phải bảo vệ con người và môi trường sinh thái- văn hóa xung quanh con người, giữa khi tràn ngập chứng ngủ lịm về đạo đức, sự lên ngôi của bản chất giáo điều, thói nhẫn tâm, khi sự dửng dưng nguội lạnh trước thân phận con người được che đậy bằng các thứ mặt nạ. Bergman coi điều nguy hiểm chính của xã hội là những quan điểm chỉ vì cái quyền lợi cục bộ của một nhóm người mà bất chấp mọi sự sống khác của số đông người… Trong bộ phim được trao giải Oscar: “Fanni và Alekxandr”, những nhân vật nhỏ tuổi có tâm hồn đẹp đẽ nhiều mơ ước của ông cuối cùng đã buộc phải chấp nhận cuộc đấu tranh không cân sức với những con quỷ tồn tại trong tâm hồn của tên giáo chủ độc ác Vergơrut để bảo vệ lý trí, nghị lực và những tình cảm tốt đẹp của mình…
Cũng nên nhắc tới “người khổng lồ” của điện ảnh Tây Ban Nha: Louis Bunuel- người được phong danh hiệu “Nhà điện ảnh bậc thầy” tại LHPQT Venise 1969, đoạt giải Oscar phim “Ước muốn mơ hồ” năm 1977. Ông là người đạo diễn luôn luôn bị trục xuất khỏi Tổ quốc mình, nhưng trái tim mãi mãi thuộc về Tây Ban Nha bởi trong tất cả các tác phẩm của mình, ông đã kiên trì say mê khám phá nội tâm đích thực của nhân vật, chúng mang tính nhân loại nên cũng liên quan đến Tổ quốc đau thương của ông- những nhân vật mang bản chất khổ đau bởi niềm tin mù quáng, giáo điều, bởi tàn nhẫn và bất công xã hội đã ngăn cản họ làm điều thiện, đã phá hủy nguyên tắc nhân đạo mà họ lựa chọn… Ông từng tâm sự: “Tôi không thích thú làm phim về những vấn đề cá nhân, bản ngã. Tôi quan tâm đến những vấn đề đó chỉ trong trường hợp chúng tác động lên tiến triển của một tính cách chung, có liên quan đến xã hội chúng ta… Tuổi thơ, rồi thời thanh niên của tôi diễn ra dưới ảnh hưởng những chuẩn mực hư hỏng, sa đọa và những nguyên tắc của xã hội đó. Chúng đã di căn trong tôi hậu quả có thật- ấn tượng về một thế giới đầy dục vọng luôn muốn trội hơn, muốn áp đảo kẻ khác… Những luận thuyết và những nguyên tắc không sờ tới được lại có khả năng tiêu diệt rất lớn. Chính vì những nguyên tắc ấy trở thành phương tiện để áp đảo và đè nén, nên tôi cần phải nhẩy vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì tự do…”
Qua một vài tên tuổi lớn của điện ảnh của thế giới, chúng ta có thể nhận thấy điểm chung nhất: tài năng bậc thầy được tôn vinh ở họ chính là cái chủ nghĩa nhân văn được nung lên tới độ cháy bỏng và được thể hiện một cách kỳ lạ trong những hình thức có một không hai; và tôi chỉ muốn góp phần khẳng định thêm cái điều hiển nhiên này: người nghệ sĩ cần sự độc đáo, cần vươn tới sự hoàn thiện về nghệ thuật của riêng mình, song tất cả sẽ là vô nghĩa, nếu như chúng không hướng tới một cái đích cao cả là bênh vực, bảo vệ, cổ vũ con người. Người đạo diễn điện ảnh thường được coi là “thầy phù thủy” nắm trong tay biết bao số phận, mảng đời, triết lý, cảm xúc, sắp xếp chúng một cách nghệ thuật nhất, ấn tượng nhất rồi trưng ra không gian hai chiều (giờ thì đang tiến tới không gian ba, bốn chiều) khiến người xem trực tiếp khóc, cười, sau đó còn tiếp tục suy ngẫm… Nhưng cũng thực là tai hại nếu người đạo diễn tung ra những “âm binh” làm nhiễu loạn thêm cái cuộc sống vốn đang bị đảo lộn các giá trị, càng nguy hiểm hơn nữa khi người đạo diễn đó có tài! Lịch sử điện ảnh và ngành điện ảnh học thế giới từ trước tới nay không chỉ quan tâm đến diện mạo riêng chung, quy luật phát triển của nghệ thuật thứ bảy, mà còn tìm hiểu sức ảnh hưởng đối với sự hình thành nhân cách con người của một loại hình nghệ thuật mà theo học giả Georger Sadoul “là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập nhất, tại các nước xã hội chủ nghĩa cũng như tại các nước tư bản chủ nghĩa…” Thực tế đã cho thấy, những tác phẩm điện ảnh có giá trị và có sức sống lâu bền trong lòng người là những tác phẩm mang nặng những suy tư về cuộc sống, về số phận con người, về giá trị và vị trí con người trong đời sống xã hội… Nghệ sĩ điện ảnh chân chính là người thù ghét những gì phản với đạo lý tự nhiên, họ miêu tả những nghịch cảnh, những xung đột tâm lý, thông qua hình tượng chân thực của những con người nhằm chống lại cái xấu, cái ác, sự giả dối và phi lý của xã hội… Cả cuộc đời hoạt động điện ảnh của nghệ sĩ thiên tài Charles Chaplin chỉ để nhằm chứng tỏ: “Hơn hết thảy mọi điều, đối với tôi, giá trị cao đẹp nhất chính là nhân phẩm con người.” Marcel Carné- một chủ soái của trường phái điện ảnh hiện thực lãng mạn Pháp đã tuyên bố hùng hồn: “Bộ phim phải là tấm gương phản ánh thời đại mình.” Đạo diễn Palesine Elia Suleiman tâm niệm: “Tôi tin điện ảnh có thể làm cuộc sống của chúng ta ít khó khăn hơn, nếu như mỗi người nghệ sĩ biết tự vấn và biết quan tâm đến số phận con người.” Nữ đạo diễn Israel Kerren Yedaya tin rằng: “Tôi quan niệm mỗi bộ phim-dù phim truyện hay phim tài liệu cần phải giúp đỡ (con người) để thay đổi điều gì đó trong xã hội”. Đạo diễn Tây Ban Nha Pedro Almodovar khẳng định: “Tôi tin rằng nếu chúng ta mang hiện thực đặt vào phim thì cũng có nghĩa là chúng ta đang tham gia cải tạo cuộc sống và giúp chúng trở nên tốt đẹp hơn.” Nhà phê bình điện ảnh Pháp Jean-Paul Torok viết về một đạo diễn lớn của Ba Lan: “Chủ nghĩa hình thức trong dàn dựng tác phẩm của Roman Polanski cũng như của các nhà điện ảnh lớn bao giờ cũng phản ánh hay chứa đựng một thái độ đạo đức, một cái nhìn nào đó về thế giới”. Bài học thất bại của đạo diễn danh tiếng Pháp René Clair cũng đáng để suy ngẫm: rời xa hiện thực để say mê với những công thức máy móc của tư tưởng thuần túy, ảo tưởng, ông đã dần đánh mất bầu nhiệt huyết của người nghệ sĩ, những phim của ông giai đoạn sau cùng mất hẳn đi sức sống và cuốn hút thời trai trẻ nên bị rơi vào quên lãng…
Xin trở lại với phim “Bi, đừng sợ”.
Phải công nhận rằng Phan Đăng Di là một đạo diễn có nhiều công phu suy nghĩ tìm tòi về thủ pháp điện ảnh, và có “gout” thẩm mỹ tốt trong cách lựa chọn khuôn hình, ánh sáng, động tác máy, chi tiết nghệ thuật… Ấn tượng nhất, và có khả năng gợi suy nghĩ nhiều nhất là các chi tiết về chiếc lá phong, quả táo đỏ bị đông cứng trong nước đá. Rồi cảnh người ông nôn ra máu sau khi ngửi một bông hoa đồng nội, cảnh hai đứa trẻ cào bới ruột quả dứa hấu một cách hoang dã sau nhiều ngày chúng nâng niu bảo vệ nó trong bụi kín… Theo thiển ý riêng, tôi cho rằng đó là những cảnh phim, chi tiết phim có thể trở thành kinh điển trong các bài giảng ở trường điện ảnh. Cái thế giới trẻ thơ được đạo diễn khá dày công chăm chút xây dựng, và nếu diễn viên Bi được thay bằng chú bé khác chứ không nhạt nhòa gần như vô cảm trên màn ảnh thì hiệu quả còn mạnh hơn nữa. Song, cái thế giới trẻ thơ đó dường như lạc lõng trong phim, và chúng có mối liên hệ lắp ghép về dựng phim bên ngoài hơn là mối quan hệ nội tại với tổng thể.
Một trong những cây bút ca ngợi phim hết lời đã viết:”Lấy bối cảnh mùa hè HN và hình tượng viên đá xuyên suốt câu chuyện, phim truyện dài đầu tay của đạo diễn Phan Đăng Di dẫn dắt khán giả bước vào cuộc hành trình khám phá những bí mật sâu kín tồn tại trong mỗi con người.” Những bí mật nào đây? Trong phim, người xem rồi cuối cùng cũng đã hiểu: những bí mật đó thực ra chỉ là những ẩn ức dục vọng sinh lý bị kìm nén cần được giải tỏa- cái điều mà nhà phân tâm học Sigmund Freud đã lý giải từ lâu và nó đã được khai thác đến nhàm chán, đến “trơ khố tải” trong văn học nghệ thuật phương Tây đến cả một thế kỷ và hẳn chúng chẳng còn khả năng gây bất kỳ xúc động thẩm mỹ nào nữa! Tình tiết người cô của Bi thủ dâm bằng cục nước đá khiến ta liên tưởng đến hình ảnh cô gái thuyền chài móc cả chùm lưỡi câu vào cửa mình trong phim “Hòn đảo” của đạo diễn tài ba Hàn Quốc Kimkiduk. Song, với kiểu phim luận đề quen thuộc được sử dụng một cách cao tay, Kimkiduk đã phanh phui ra mặt trái đáng ghê tởm, phi nhân tính của xã hội thông qua những hình ảnh giàu tính triết lý, và tình tiết trên đã vượt qua được chủ nghĩa tự nhiên để cài cắm vào tâm trí người xem nỗi nhức nhối về những vấn đề toàn xã hội, thậm chí ở tầm vóc nhân loại. Còn tình tiết “mô phỏng” đó của “Bi, đừng sợ”, cùng hàng loạt cảnh làm tình thô thiển trong phim chỉ khiến rất nhiều khán giả các tầng lớp thấy bức bối phản cảm – và họ có lý!
“Bi, đừng sợ” cũng khiến người xem trăn trở về mối quan hệ từ gia đình tới xã hội đã “đóng băng” một cách thê thảm, và đó cũng có thể là hồi chuông cảnh tỉnh xã hội mà những người làm phim muốn gióng lên. Có điều, hồi chuông cần thiết đó lại được bật ra từ những hình bóng vật vờ như bóng ma, tựa những nét vẽ phúng dụ mà đời sống tinh thần trong đó sao mà méo mó, thảm hại, bé nhỏ, không có chút âm hưởng nào của đời sống thực tại đang cộm lên bao điều gay gắt nóng bỏng! Cuộc đời thực có thể còn tồi tệ ảm đạm hơn thế nhiều, song nếu chỉ làm cái việc mô phỏng nó một cách nghệ thuật, tỉa tót nhấm nháp nó thì cần gì đến sứ mệnh của người nghệ sĩ?! Ngoài một chút ngậm ngùi, có đượm chua xót và mỉa mai của tác giả, người xem thèm biết bao thái độ uất hận đầy dũng khí của người làm phim trước sự tha hóa của tâm hồn – nhân cách mà thực ra phim cũng đã hé lộ ra được phần nào, song tác giả lại không đủ dũng cảm và bản lĩnh nghệ thuật để đi tới tận cùng sự cảnh tỉnh, vì vậy, tác phẩm hóa ra “Chơi vơi”- như tên một bộ phim mà Phan Đăng Di tham gia với tư cách tác giả kịch bản! Người xem đông đảo sẽ thu nhận được điều gì, ngoài sự xuýt xoa về những tiểu xảo, những chi tiết điện ảnh có tính nghệ thuật song xét cho cùng chỉ là những đóa hoa dại mọc trên một bãi cát khô cằn của tư tưởng tình cảm? Đó có phải là hướng đi lâu dài của một đạo diễn trẻ khá tài hoa và chịu khó lao động nghệ thuật? Đó có phải là con đường lớn của điện ảnh Việt Nam? Đó có phải là tác phẩm chứa đựng trong nó những giá trị để xứng đáng gia nhập vào kho tàng điện ảnh nhân loại? Nếu soi vào cái “chuẩn mực” của hiện thực trong nghệ thuật, qua sự nghiệp và tuyên ngôn của một vài nghệ sĩ điện ảnh thế giới đã nêu trên, phần đông người xem phim cũng có thể tự trả lời; và bản thân tôi buộc phải tự nhủ mình: “Người làm phim hãy nên biết “sợ” điện ảnh!”
Nếu cắt “Bi, đừng sợ” ra làm những trích đoạn bài tập về đạo diễn, quay phim, thiết kế mỹ thuật… để sinh viên điện ảnh nghiên cứu, học tập, thì sẽ có khá nhiều bài tập thật xuất sắc; cũng giống như trường hợp của nhiều đạo diễn trẻ ở Pháp đã được thỏa sức thể nghiệm về nghề nghiệp mà tôi kể ở trên… Nhưng, để tạo ra một tác phẩm điện ảnh hoàn chỉnh có tác dụng đích thực đối với xã hội, rõ ràng là Phan Đăng Di- cũng như các nhà điện ảnh nước ta còn phải tự vượt lên trên mình nhiều lắm – không chỉ là vấn đề nghệ thuật thuần túy, kỹ thuật thuần túy mà bất cứ giáo trình điện ảnh nào của Mỹ cũng nhấn mạnh để giúp người làm nghề bước vào một công nghệ càng ngày càng đậm chất thương mại có cơ hội mau chóng chộp được thành công – mà cái chính là thái độ của người nghệ sĩ điện ảnh trước thời cuộc, là một tầm vóc văn hóa – tư tưởng cần thiết. Mà để có được những điều đó, rất cần tới lòng dũng cảm của bản thân cùng sự cổ vũ chân thành của mọi người: “Đừng sợ!”
___________
* Tư liệu tham khảo:
– L’ Histoire du Cinéma mondial – G. Sadoul – Paris, 1985
– Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) – I. Teplix – NXB Văn hóa, 1978
– Đạo diễn điện ảnh thế giới – Nhiều tác giả- Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh VN- Hà Nội, 1995
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
Khi QuynhLinh viết:”Không có một nền tảng tình yêu, ta chẳng thể nói gì cao đẹp về tình dục, mà như TVC nói “Nếu chỉ bản năng thì chưa thoát khỏi con vật”, em đã tự trả lời rằng, quan niệm của em đâu phải là lý tưởng hóa, và điều đó đâu chỉ dành riêng cho phụ nữ!
LikeLike
Em thấy những điều Tống Văn Công nói cũng có nhiều ý đúng. Vấn đề không phải ở sex mà là ở sex thuần túy dục vọng. Sex và love (theo nghĩa hẹp của quan hệ nam nữ) cần được đặt đúng vị trí của nó: love = gắn bó một người nam và một người nữ với nhau cho một cuộc sống lâu dài và cùng nhau xây dựng … nhiều thứ, và sex là những cảm xúc thăng hoa nhất của love để duy trì và phát triển nhân loại – cho sự hình thành con người mới.
Rõ ràng bây giờ không thể giữ an toàn tình dục cho giới trẻ bằng sự cấm kỵ nữa, nên cái cần là dạy các em nhận thức kịp thời về tình yêu trước khi bị khuất phục bởi những thôi thúc của tình dục bản năng. Và để tình yêu và lý tưởng về tình yêu đích thực kiềm tỏa những dục vọng bản năng, và gìn giữ tình dục trong giới hạn của tình yêu, thay vì lầm lẫn những cảm xúc bản năng với tình yêu.
Vậy nên, em nghĩ, cái cần là dạy về yêu thương. Yêu thương nói chung, như anh Hoành vẫn nói thường xuyên ở đây về tình yêu không cần điều kiện, và yêu thương trong quan hệ nam nữ. Để từ đó, giới trẻ được biết đến tình dục ở vị trí cao đẹp và trân trọng nhất của nó: tình dục trong tình yêu. Không có một nền tảng tình yêu, ta chẳng thể nói gì cao đẹp về tình dục, mà như TVC nói “Nếu chỉ bản năng thì chưa thoát khỏi con vật”.
Liệu em có lý tưởng quá không? Và chỉ đúng với phụ nữ?
LikeLike
Bài về phim ” Bi ơi, đừng sợ” kỹ lưỡng, công phu và..bốc thuốc trúng bệnh. Có hai điều anh muốn bàn thêm: Trong thời buổi điện ảnh đang bị “truyền hình hóa” người ta cố tình quên he61tma3ng miếng, góc quay, ngôn ngữ, thủ pháp dàn dựng…thì ” Bi ơi, đừng sợ” làm những ai có lương tâm giật mình để nhớ lại.Còn kiểu phim này,tảng cảm xúc này, cách nhìn này cũng chỉ là giẫm vào bước chân của những người đã đi trước chúng ta nửa thế kỷ hoặc hơn nữa..Tôi nhiệt liệt đồng ý với đồng chí Tuấn về cái đích cần tới, phải tới của nghệ thuật. Dữ dội, tàn nhẫn, phanh phui cuộc sống không thương xót như ông già họ Đốt xứ Nga cũng luôn biết nâng niu, che chở, bênh vực CON NGƯỜI. Mà chính dưới góc nhìn này, hiện thực VN qua hơn nửa thế kỷ vừa rồi- theo thiển nghĩ của tôi-, thiếu gì điều khiến thiên hạ phải sửng sốt. Không hiểu ông em đã đọc ghi chép ” SEX với Lính tráng cánh Bắc Kontum ” của tôi chưa ?
Ngày 27/10/2011 TÔ HOÀNG
LikeLike
Cảm ơn Tiến Trung đã chia sẻ bài này.
Kinh nghiệm ở nước Mỹ, rất tự do về sex, thì chẳng mấy ai viết bài ca tụng sex cả (mình chưa hề đọc được một bài như thế, dù là Google thì cũng có thể là có chăng). Các bài viết về sex ở Mỹ luôn luôn là về các vấn đề lớn do sex tạo ra, như bài báo Washington Post dưới đây.
— Trẻ em vị thành niên mang thai: Hình ảnh về sex quá tự do giúp trẻ em vị thành niên có liên hệ sex sớm, đưa đến tình trạng trẻ em mang thai, đưa đến các vấn đề xã hội lớn–các em bỏ học (tức là mất trí tuệ cho các em và cho quốc gia), tạo thêm gánh nặng an sinh xã hội cho quốc gia (chính phủ phải trợ cấp mẹ con nghèo), gia tăng số người nghèo trong nước, và gia tăng tội phạm trong tương lai từ các em bé sinh ra trong gia đình nghèo khổ.
– Tranh ảnh khiêu dâm (khá tự do ở Mỹ, nhưng quản lý cho người trên 18 tuổi mà thôi) luôn luôn có liên hệ lớn đến các tội phạm tình dục, nhất là tội phạm tình dục đối với trẻ em.
– Trong cách hiểu tự nhiên của người Mỹ, sex, bạo động và ma túy thường đi chung với nhau (xem các phim bạo động của Mỹ thì thấy) (dù là mình chưa đọc được nghiên cứu chính thức nào cho thấy liên hệ mật thết giữa 3 thứ này, nhưng luồng tư duy của văn hóa Mỹ là như thế).
Cho nên vấn đề chính của nước Mỹ hiện nay là làm cách nào để giảm thiểu hay định hướng sex để kiểm soát các vấn đề xã hội.
Dĩ nhiên là Mỹ khác VN, vì Mỹ rất tự do về sex và VN thì không.
Tuy nhiên, một mặt khác VN tự do hơn Mỹ rất nhiều về sex–ở Việt Nam rất dễ cho sinh viên học sinh thuê khách sạn theo giờ để having sex, kể cả các em vị thành niên (Ở Mỹ chẳng ai cho vị thành niên mướn phòng), và tỉ lệ phá thai ở VN lớn nhất thế giới. VN có vấn đề lớn với trẻ em mang thai và phá thai.
Cho nên, tốt nhất là VN nên cẩn thận trong việc quản lý môi trường văn hóa liên hệ đến sex, và nếu mở rộng thì thà là chậm hơn là quá nhanh để tạo ra đủ mọi vấn đề.
In the United States
Tuesday, May 16, 2006
Of course there is no official U.S. position on teen sex, but a portion of the federal Healthy People 2010 report summarizes a set of carefully balanced goals: reduce unwanted pregnancies; cut the proportion of unmarried teens who have had sex; increase the use of birth control and disease prevention techniques among teens who are sexually active; and make contraception, including emergency contraception, more widely available.
But in practice, teens in our culturally heterogenous American society receive many conflicting messages. Many churches in the United States urge abstinence until marriage. Under government and local citizen pressure, many school sex education programs express disapproval of premarital sex and limit information about contraception. A 1999 Kaiser Family Foundation study found that about a third of U.S. public high schools have sex education programs that advocate strict abstinence until marriage. Experts at the Sexuality Information and Education Council of the United States say the number has since grown, with some states not only accepting federal funds for abstinence education, but also including federal government language in their sex education guidelines.
Mary Stetson is a Fairfax County health and physical education teacher who has taught sex education for 11 years. (State guidelines suggest sex ed should run from kindergarten through 12th grade, but individual school districts can decide whether or not to teach it, and parents can have their kids opt out.) Her course focuses on decision-making and values clarification, with an emphasis on encouraging kids not to have sex until marriage. Students learn the consequences of impulsive and risk-taking behavior. Some of her religiously oriented students take abstinence pledges.
Students’ outside-class knowledge of sex tends to vary based on their parents’ education and socioeconomic status. “The more education the parent has, the more likely the parents are going to talk to kids about sex,” she said.
Poverty alone (the United States is home to a greater proportion of poor teens than Western Europe) doesn’t account for the disparity in teen sex behavior here and abroad. According to a 2001 Guttmacher study, the poorest U.S. teens are nearly 80 percent more likely to have a child by 18 than similar teens in Britain.
Outside the classroom, U.S. teens face a barrage of provocation. A study last month in the journal Pediatrics found that the higher the exposure to sexual content in movies, TV, music and magazines, the more likely teens were to have intercourse. The study found “frequent and compelling portraits of sex as fun and risk-free.”
This message falls on too many teens who are ill-informed or unprotected, says Robert Blum, chairman of the department of population and family health at the Johns Hopkins Bloomberg School of Public Health.
“We have a very hyper-sexualized media and, concurrent with that, a total aversion to giving clear and consistent messages about how you reduce risk,” he says. In a 1995 survey, he asked both teens and their parents if the teens had had sex. Half the parents who said their kids were not sexually experienced were wrong, he said. (According to a 2003 survey by the Centers for Disease Control, nearly half of all U.S. students in grades 9-12 have had sex.)
But many American educators and parents say more permissiveness is not the way to go.
Angela Griffiths, executive director of an abstinence-based sex education program in California called Await & Find, said she sees an attitude among some California educators that teen sex is inevitable. Her program focuses on how condoms and birth control sometimes fail to prevent pregnancy and disease, and on the benefits of postponing sex. She said many educators are unwilling to combat what she called the prevailing media attitude that sex is fine for teens.
Too many teachers “are accepting that this is part of youth,” she said.
Jonathan Klein, chairman of the American Academy of Pediatrics Committee on Adolescents, says there is a risk that children’s best interests are getting lost in the debate over teen sexuality.
“We have some groups in our country who would like to prevent unintended pregnancy and sexually transmitted diseases, and some groups that would like to prevent people from having sex,” Klein said. Both are willing to twist research to support their position, he said.
Regardless of a parent’s opinions about teen sex, he said, more open communication is healthier: “Healthy sexual behavior is part of development. From a medical perspective it’s important that parents and children and teenagers are well-educated about the implications of normal, psychosocial and sexual development.”
But what of the emotional consequences? While a series of decades-old studies tied teen sex to other risky behaviors — like drug and alcohol use — many researchers say those findings are not nationally representative. Newer research has linked teen alcohol and drug use to failure to use a condom and more sexual partners, but there’s no proof a cause-and-effect relationship exists, or, if it does, which behavior might trigger the other.
“Although advocates of abstinence-only government policy have suggested that psychological harm is a consequence of sexual behavior during adolescence, there are no scientific data suggesting that consensual sex between adolescents is harmful,” wrote Columbia University’s John Santelli in the January issue of the Journal of Adolescent Health. That’s despite several studies that have looked at the psychological impact of sex on teens.
Where mental health problems are associated with early sexual activity, he says, research suggests that the sexual activity is a consequence of the psychological problems, not vice versa.
In research recently published in the Journal of Adolescent Health, Lydia Shrier, an assistant professor of pediatrics at Harvard Medical School and director of clinic-based research for the division of adolescent/young adult medicine at Children’s Hospital Boston, showed that sexually active people aged 15 to 21 reported more positive feelings on the days they had sex than on the days they didn’t. Shrier said sex education messages should take that into account.
“We have to tailor the messages to reflect our understanding that for many people, sex is not a bad thing or a thing that is ridden with guilt, but as a more positive and less negative experience, for some of these young people, than other things in their lives,” Shrier said.
LikeLike
Để bày tỏ sự đồng cảm với chuyên luận rất công phu tâm huyết của tác giả Tống Văn Công, tôi xin kể lại một tình tiết thú vị trong một tác phẩm văn học nước ngoài mà tôi đã đọc từ rất lâu, quên cả tác giả: nhà văn đó lần đầu tiên được vào thăm một bảo tàng tranh tượng khỏa thân, sau đó ông đã khóc và thốt lên: Trời ơi, con người sao mà đẹp đẽ dường vậy! Thế mà lâu nay, phần đông con người lại làm dơ bẩn vẻ đẹp đó bằng những ý nghĩ xấu xa bệnh hoạn…
Cảm ơn tác giả TVC và những người đã giới thiệu bài viết của ông!
LikeLike
Một bài hay đáng đọc! (Lấy từ : VIET-STUDIES.INFO)
Sex trong xã hội đương đại
và thuần phong mỹ tục Việt
Tống Văn Công
Viết tặng nhạc sĩ Dương Thụ
Sex bị cấm kỵ từ bao giờ?
“Sex trong xã hội đương đại và thuần phong mỹ tục Việt”. Đó là câu nhạc sĩ Dương Thụ nhắn qua điện thoại mời dự cuộc trao đổi ý kiến lý thú ở Cà phê Thứ bảy do anh chủ trì. Rất tiếc, tôi không đến được. Sau đó, chỉ có một tờ báo đưa tin tương đối rõ và có tựa đề là “Khuynh hướng “cởi” và “mở” trong xã hội Việt Nam đương đại với thuần phong mỹ tục Việt”. Tối 24 tháng 7 năm 2011 bản tin thời sự của HTV9 có đưa những ý kiến trao đổi nói trên, nhưng chỉ chọn phát biểu của 3 người (người chủ trì, một cựu quan chức và một đạo diễn), các ý kiến rất quan trọng không được nhắc đến. Do đó, tôi muốn góp vài suy nghĩ của mình.
Ngày nay, chúng ta tỏ ra kiêng kỵ đối với sex hơn bất cứ thời nào trong lich sử! Tôi muốn mọi người nhìn lại xem ông bà ta từ xưa đã đối xử với sex như thế nào. (Sex từ tiếng Anh đã được Việt hóa, có nghĩa: Giới tính trai, gái; vấn đề sinh lý, dục tính; sự giao cấu.)
Trong kho tàng truyện tiếu lâm từ ngàn xưa (hiện nay vẫn tiếp tục có thêm nhiều truyện tiếu lâm mới), có lẽ đủ cho thấy người Việt hiểu sex, bàn về sex không khác và không kém bất cứ dân tộc nào. Quan lại của các triều đình phong kiến, tức là những người từng dồi mài kinh sử theo nho giáo, cũng không hề kiêng kỵ mà lại còn rất mê sex. Sách “Hoa viên kỳ ngộ tập” một tập truyện sex (ra đời 1760-1761) do các quan lại Việt Nam đi sứ sang Tàu mang về chuyền tay nhau đọc. Người ta phát hiện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có vài truyện phỏng tác từ sách này… Xin trích mấy câu trong bài ký Cuộc gặp gỡ ở Tây viên: “Hai nàng thẹn thùng nói: “Chúng em việc xuân chưa am hiểu, lòng thơm đang còn khiếp sợ, chỉ e tình hoa rung rẩy, tơ liễu điên cuồng, ngượng hồng oán lục làm giảm mất một đoạn phong lưu”. Thư sinh đáp: “Cứ tạm thử, không dám làm hai nàng phải khổ vì mây mưa đâu”. Nói xong, sinh cắt tàn bấc cho đèn sáng lên, rồi cùng nằm, ghé sát vàng, tựa kề ngọc, vừa nghiêng bên gối, đã xô vụn sóng ba đào”.
Thi hào Nguyễn Du là bậc thày miêu tả những cảnh sex. Đây là cảnh khỏa thân của nàng Kiêù lúc tắm:
“Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
Cảnh Kiều bị thất thân bởi Mã Giám Sinh:
“Tiếc thay một đóa trà my,
“Con ong đã tỏ đường đi lối về!
“ Một cơn mưa gió nặng nề,
“Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
“Đêm xuân một giấc mơ màng .
“Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”
Đây là lời Tú Bà dạy Kiều cách phục vụ khách làng chơi:
“Này con thuộc lấy nằm lòng .
“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
“Chơi cho liễu chán hoa chê,
“Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời”
“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”, đã có trong Tố Nữ Kinh, tương truyền là ở thời Hoàng Đế của Trung Quốc (hơn 2000 năm trước công nguyên). “Vành ngoài bảy chữ” là kích dục bên ngoài. “Vành trong tám nghề” là cách làm tình. Ai đã đọc Tố Nữ Kinh thì qua câu này đã hình dung ra “nghề chơi cũng lắm công phu”.
Chúng ta không thể không nhắc đến bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương mà hầu hết tác phẩm đều có nghĩa ngầm (cách nói của Xuân Diệu) tả sex.
“Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm;
“Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt”…
Và
“Trai du gối hạc khom khom cật,
“Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”…
Trong Hoàng Lê nhất thống chí, có đoạn, khi được gợi ý việc xin cưới công chúa Ngọc Hân, anh hùng Nguyễn Huệ đã trả lời rất sex: Gái miền Nam thì ta đã được hưởng, nay nếu được biết gái Bắc thì hay quá!
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 văn hóa Pháp truyền vào nước ta, trong đó có sex. Có lẽ nghệ thuật nhiếp ảnh khỏa thân du nhập vào nước ta sớm nhất, trước cả khoa kiến trúc. Anh lính Pierre Dieulefils đã chụp hằng trăm ảnh khỏa thân của phụ nữ Việt Nam ở mọi tư thế. Năm 1886, ông đã tổ chức triển lãm số ảnh khỏa thân đó tại Hà Nội. Điều này cho thấy từ ngày ấy Hà Nội đã có những người Pháp và cả người Việt biết thưởng thức loại hình nghệ thuật rất mới mẻ này. Với số ảnh đó, Pierre Dieulefils đã đoạt nhiều giải thưởng ảnh nghệ thuật của Pháp, Bỉ, để rồi sau khi giải ngũ ông tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh tại Hà Nội. Đến thập kỷ 30, 40, sex đã có mặt ở hầu hết các bộ môn văn học nghệ thuật của nước ta. Tranh khỏa thân của Trần Văn Cẩn, Lê Phổ…(cách đây đã lâu có tin, tranh khỏa thân của các cụ có giá bán hơn 3000 USD một bức); tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng; thơ tình Xuân Diệu…
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, sex vẫn không bị cấm kỵ trong văn học nghệ thuật; nhưng bắt đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thì sex đồng nghĩa với những gì hũ bại, thậm chí rất phản động. Ngay những tác phẩm miêu tả tình yêu lành mạnh như Màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng bị lên án là sa đọa! Các văn nghệ sĩ tham gia cách mạng đều tuyên bố từ bỏ những đứa con tinh thần của mình sáng tác trước 1945 có hơi hướng lãng mạn chứ chưa cần có sex. Ở vùng giải phóng Nam Bộ thời chống Pháp ca vọng cổ cũng bị cấm, vi phạm sẽ bị tù! Để thay thế loại nghệ thuật này, nhân dân vùng giải phóng Bạc Liêu, Cà Mau (quê hương của Cao Văn Lầu, tác giả bài Vọng cổ hoài lang nổi tiếng), đã sáng tạo ra hình thức Nói thơ Bạc Liêu rất “ướt át” để bù lại. Trong khi đó, ở các thành thị và sau này ở miền Nam, sex được các ngành nghệ thuật khai thác và có không ít tác phẩm có giá trị..
“Cởi ra, rồi lại buộc vào…!”
Từ Đại hội 6 đôỉ mới, sex bắt đầu sống lại với các văn sĩ trẻ như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Các tác giả này được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Nhưng không lâu sau đã bị phê phán gay gắt. Nói chung văn nghệ sĩ Việt Nam phải tự răn mình trước khi muốn đưa sex vào tác phẩm vì rất dễ bị lâm nạn! Nhiều tác giả nước ngoài nổi tiếng, thậm chí đoạt giải Nobel văn chương vào Việt Nam cũng bị cắt xẻo. Đầu thập kỷ 90, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi Tình yêu thời thổ tả của Gabrien Gacxia Macket với lý do “truyện đầy cảnh dâm dục”! Có lẽ rút bài học này mà 10 năm sau, tháng 3-2000, khi xuất bản quyển Lụa của nhà văn Ý Alessandro Baricco từ bản dịch của Pháp, nhà xuất bản Trẻ đã viết trong Lời giới thiệu sách: “Gần cuối câu chuyện có một đoạn rất thường gặp trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh phương Tây, nhưng xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông. Đó là những đoạn trong bảy trang thư tình của Hélène, vợ của Hervé Joncour nhờ người viết…Vì lý do thuần phong mỹ tục, Nhà xuất bản Trẻ đã lược bỏ bớt những chỗ quá đáng trong bảy trang thư này”. Đúng ra Nhà xuất bản Trẻ chỉ có thể viết là “không phù hợp với các nhà quản lý văn hóa Việt Nam”, chứ không thể nói “xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông”, bởi vì Nhật Bản từ lâu lắm đã từ bỏ thứ truyền thống phi nhân bản đó, tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan, và đến nay cả Trung Quốc nữa cũng không hề có sự kiêng kỵ đối với sex như chúng ta!
Năm 1995, có sự kiện đáng nhớ là phim Xích Lô của Trần Anh Hùng được giải Sư tử Vàng ở Liên hoan phim Venise lần thứ 52 tại Italia, nhưng Việt Nam cấm chiếu phim này và cấm tác giả về nước với lý do “đầy những hình ảnh bạo lực, nhiều cảnh sex, hiện thực trong phim không đúng thực tế Việt Nam”. Từ đó, cho rằng đạo diễn làm phim này nhằm chống Việt Nam. Hãng phim Giải phóng phải làm bản kiểm điểm vì sao lại hợp tác với Trần Anh Hùng làm phim này. Dù rằng suốt quá trình làm phim, có nhiều cán bộ A25 được giao bám sát, và yêu cầu Trần Anh Hùng phải sửa chữa liên tục! Trong một lần trả lời phỏng vấn, Trần Anh Hùng cho rằng, những cảnh bạo lực của phim phải đạt mục đích là làm cho người xem căm ghét bạo lực và những cảnh sex là cần thiết cho nội dung. Ông Thái Kế Toại người được A25 giao trách nhiêm theo dõi quá trình làm phim này đã đặt câu hỏi: “Chẳng lẽ vì để chống Việt Nam mà ban giám khảo LHP Venise hạ thấp mình để trao giải cho bộ phim mà người Việt Nam cho là thấp kém? Nếu có lý trí tỉnh táo, có thiện chí thì giải đáp câu hỏi này không khó”. Rất tiếc 16 năm đã qua không có cơ quan có trách nhiệm nào giải đáp câu hỏi rất cấp thiết đó!
Mười lăm năm sau, phim Bi, đừng sợ của Phan Đăng Di vượt qua 4 ứng viên nặng ký của Nga, Pháp, Australia, Rumani, đoạt hai giải thưởng lớn Phim đầu tay xuất sắc, và Quay phim xuất sắc ở LHP Stockholm Thụy Điển. May mắn hơn Xích Lô, phim Bi, đừng sợ được chiếu trong nước và được vài nhà bình luận viết bài khen ngợi, nhưng chỉ vài ngày sau, đã bị một trận bão phê bình vùi dập tơi bời trên các báo lớn, chủ yếu vì phạm tội sex, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam! Phan Đăng Di là đạo diễn được đào tạo bài bản. Ông được những nhà lý luận của các cường quốc điện ảnh như Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Hàn Quốc… đánh giá cao, thế mà những người lớn tiếng chỉ trích ông chỉ cần “món võ” thô sơ là “trái thuần phong mỹ tục”!
Từ đầu thập niên 90, cho đến gần đây, nhiều họa sĩ và nghệ sĩ nhiếp ảnh xin triển lãm tranh và ảnh khỏa thân đều không được cho phép. Ban đầu, các nhà quản lý tìm cớ loanh quanh như địa điểm không thích hợp, thời điểm chưa thuận (Sở văn hóa Hà Nội đối với nhà nhiếp ảnh Thái Phiên), sau đó thì nói thẳng là trái thuần phong mỹ tục. Thái Phiên cho rằng, đó là cách viết lịch sự ở văn bản, còn nói với nhau người ta lên án là “ảnh khiêu dâm”! Bức ảnh Đồi trinh nữ của Thái Phiên đã được giải đặc biệt ở cuộc thi ảnh nghệ thuật Hàn Quốc, nhưng Sở văn hóa thông tin Hà Nội vẫn phán là “không phù hợp”. Tranh khỏa thân của họa sĩ Nguyễn Kim Đính được Hội đồng nghệ thuật Thừa Thiên-Huế thẩm định là “đạt tiêu chuẩn nghệ thuật”; nhưng Sở văn hóa thông tin (tức là những người có quyền nhưng không có chuyên môn) vẫn kết luận “không phù hợp thuần phong mỹ tục”. Có thể xem nội dung công văn của Phó giám đốc Sở văn hóa thông tin thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Tuất Việt gửi cho nữ nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng là lập luận chung của tất cả các nhà quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay:
“Nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam là nét đẹp kín đáo. Các bức ảnh đều chụp cận cảnh và phô diễn những đường nét nhạy cảm nhất của người phụ nữ, nên việc triển lãm này đến công chúng là không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam”.
Nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng nói: “Khi đọc công văn của Sở tôi cảm thấy vô cùng tổn thương!”
Năm 2005, có một sự kiện đáng nhớ là việc phát hành tập truyện Bóng Đè của nhà văn nữ Đỗ Hoàng Diệu. Tập truyện được các nhà phê bình, nhà văn hóa hàng đầu của đất nước hết lời ca ngợi. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết: “Phụ nữ trong quan hệ với dục tính, nhưng quan trọng hơn, phụ nữ và dục tính trong quan hệ với xã hội và lịch sử.” Nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ, ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng một thứ ăngten riêng, dường như họ nhận ra được và truyền đến chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, xã hội, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc mà chính họ bằng luận lý cũng không nói ra cho rõ được.” Nhà văn Châu Diên: “Đây là cuốn sách mà tôi kính trọng”.Độc giả Hoàng Hạc từ Canada cho rằng “Ở Việt nam có thể cho là mới, nhưng so sánh không đâu xa, ngay với Trung Quốc thôi cũng không có gì là mới cả!”
Ngay lập tức trên tờ báo Sai Gòn Giải Phóng của đảng bộ TP HCM có một bài viết phê phán rằng, đây là một quyển sách dung tục, lạc lỏng, bác bỏ ý kiến ở trên của Nguyên Ngọc một cách nặng nề: “Không biết sâu xa ý tứ ấy là gì, nhưng một người bình thường đọc quyển sách này đều khó lòng nhận ra điều cao cả ấy, nếu không muốn nói là sự báng bổ đến khó hiểu trong tâm thức nhà văn này”. Một nhà báo không lấy gì làm nổi tiếng, lại lấy ý kiến của “một người đọc bình thường” (có lẽ tác giả muốn nói là ý kiến của công nông chăng), nhưng đã đủ sức khóa miệng các danh sĩ bậc nhất của đất nước!
Năm 2010 ầm ỹ với Sợi Xích của Lê Kiều Như. Lẽ ra các nhà phê bình chỉ rõ: đây không phải là một tác phẩm văn học. Sự yếu kém của Sợi Xích như bố cục lỏng lẻo, tâm trạng nhân vật nhạt nhẽo, tả sex vụng về, tự nhiên chủ nghĩa… Nhưng tất cả mọi chỉ trích dồn dập nhằm vào sex!
Có ba điều cần “cởi” và “mở”
1. Sex làm cho con người khác con vật
Ngôn ngữ học cho rằng, con người khác con vật là biết tư duy qua ngôn ngữ. Tôi muốn nói thêm , con người còn khác con vật ở sex. Ông Osho một triết gia Ấn Độ cho rằng từ tình dục đến tình yêu cũng giống như từ than đá đến kim cương vậy. Không có tình dục sẽ không có tình yêu, cũng như không có than đá thì không có kim cương. Hiểu theo Osho thì con người có trình độ văn hóa cao thì tình dục và tình yêu hòa nhau làm một, như viên kim cương không còn dấu vết nào của than đá.
Tôi nghĩ, sẽ rất sai lầm nếu cho rằng những quyển sách Tố Nữ Kinh của Trung Quốc, hoặc Kama Sutra của Ấn Độ là sách dạy dâm dục. Đúng ra phải hiểu đó là những quyển sách sớm nhất của nhân loại dạy cho con người biết nâng sinh hoạt tình dục thành một nghệ thuật, khoái lạc hơn, bảo vệ sức khỏe tốt hơn, hoàn toàn khác với con vật. Hãy nghe Tố Nữ góp ý cho Hoàng Đế: “Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược là vì ngài không biết cách sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy khoái lạc mà lại mệt mỏi. Tất cả chỉ vì Hoàng Đế không hiểu thủy tính và hỏa tính, không hiểu hệ quả khi không biết điều hòa âm dương”. Sau khi Nho giáo bị lợi dụng trở thành công cụ bảo vệ vương quyền thì Tố Nữ Kinh không được phổ biến cho trăm họ nữa mà biến thành của riêng vua chúa, áp dụng nó với mục đích trụy lạc trong cung cấm.
Ở nước ta một số trống đồng đã khai quật được có niên đại suýt soát thời Hoàng Đế, miêu tả những cảnh giao hợp, chứng tỏ sinh hoạt tình dục từ xa xưa, không hề bị ông bà chúng ta coi là điều xấu xa, kiêng kỵ mà đã đặt nó ở bình diện văn hóa. Như vậy cũng tức là từ xa xưa, thuần phong mỹ tục Việt Nam đã gồm có cả sex!
Nếu cứ giữ tình trạng như hiện nay, thì chúng ta sẽ là quốc gia cá biệt đối với sex. Bởi vì Trung Quốc xứ sở của nho giáo lại cùng thể chế như ta, vậy mà từ hơn 10 năm trước đã xuất hiện dòng văn học linglei bởi những nữ tác giả rất trẻ. Ban đầu các nhà lý luận định kiến gọi đó là loại “lưu manh”, nhưng chỉ ít lâu sau đã định nghĩa lại là “sự năng động”. Ở các quốc gia Hồi giáo, sex là điều rất cấm kỵ có thể bị coi là phạm tội chết. Vậy mà nữ tác giả Nedjma người A-rập theo đạo Hồi đã có tác phẩm Trái Hạnh Đào được gọi là “sự thức tỉnh về tình yêu và tình dục”. Nhật Bản quốc gia “đồng văn” phương Đông với chúng ta, sex trong văn học nghệ thuật từ lâu đã là điều bình thường. Haruki Murakami tác giả Rừng Na Uy nổi tiếng thế giới cho rằng “Tình yêu luôn gắn với tình dục”. Ông viết về tình dục, nhưng văn phong không hề gợi dục tính: “Tình dục là cánh cửa mở vào tâm linh”. Chính vì Murakami coi sex là của con người cho nên ông đươc các nhà bình luận nhiều nước cho rằng: “Tác phẩm của Murakami có quy mô hành tinh, nó đụng chạm đến những vấn đề của toàn thể loài người” (Philipp Vase).
Trong cuộc trao đổi Cà phê Thứ Bảy, dịch giả Trần Đỉnh, ngoài 80 xuân, cho rằng “chuyện đó” rất “người”, nên nhìn nó ở khía cạnh nhân bản. Ông cho rằng không thể dùng chuẩn mực của những người nhuộm răng đen để phê phán người răng trắng. Nhà nghiên cứu Lữ Phương đã phát triển ý này: “Càng không nên biến chúng thành những quy phạm để chỉ đạo văn học nghệ thuật”.
2. Nếu chỉ bản năng thì chưa thoát khỏi con vật
Tiến sĩ Trần Hữu Quang cho rằng đằng sau hiện tương sex tràn lan trên báo “lá cải” là sự khủng hoảng của xã hội đang có dấu hiệu của sự đổ vỡ. Từ hiện tượng sex, ông đã nhìn ra bình diện rộng. Đúng là xã hội chúng ta đang đứng trước những nghịch lý chưa giải tỏa được, kéo theo sự khủng hoảng văn hóa, đạo đức, trong đó có sex. Người ta chưa phân biệt sex được thể hiên như thế nào mới đạt phẩm chất của con người, còn nếu như miêu tả thô tục, bản năng thì gần với con vật. Ông Lữ Phương nhấn mạnh cái gọi là “cởi” và “mở” hiện nay đang nghiêng quá nhiều về phần đua đòi, lai căng, thô tục, xem thường phụ nữ… tràn lan trên cả các mạng chính thống của nhà nước, rất trắng trợn, hạ cấp, không phân biệt cho từng lứa tuổi. Ông cho rằng:
“Vấn đề quan trọng này không được pháp luật quy định một cách phân minh. Nếu không có giải pháp đúng đắn thì có thể chúng ta từ mong muốn thoát ra khỏi tình thế bất thường cũ lại trượt dài vào tình trạng bất thường mới: Xã hội chúng ta vẫn chưa có được một trạng thái cân bằng mà các xã hội phát triển khác đang có”
Có lẽ, vấn đề này nên xem xét, đánh giá cả hai phía. Các văn nghệ sĩ, nhà báo phải miêu tả sex ở tầm văn hóa của con người, học tập, nâng cao nghệ thuật từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và tiếp thu tinh hoa của các bậc thày nước ngoài. Nếu miêu tả sex một cách bản năng thì chưa đạt tính người mà hãy còn gần với con vật. Mặt khác, người tiếp nhận nghe nhìn, thưởng thức văn học nghệ thuật cũng phải được nâng sự hiểu biết lên, để phân biệt sự thanh cao với điều ô trọc. Họa sĩ tài danh người Tây Ban Nha Francisco José Goya (1746-1826) có câu nói được truyền tụng: “Sự trần truồng là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hóa ban cho con người. Ý nghĩ tà dâm nãy sinh trước sự trần truồng là sự bộc lộ bản chất của những kẻ gian manh!”. Nhưng trước khi mạ lỵ như thế, cần phải có sự giáo dục đã!
3. Để có trạng thái của một xã hội bình thường
Nhà nghiên cứu Lữ Phương cho rằng việc quan tâm đến sex có mặt tích cực là: Phản ánh sự đòi hỏi chuyển biến từ một xã hội không bình thường sang một xã hội bình thường. Ý kiến của ông.rất có lý. Xã hội ta nhiều năm qua đã đem cái không bình thường làm cái bình thường: chấp nhận phong bì, lót tay; bầu người thoái hóa thành người “4 tốt”; khen tặng những tập thể đang che giấu tiêu cực lại là “trong sạch vững mạnh”…Trái lại, biến cái bình thường thành cái không bình thường như: Dám tố cáo tham nhũng; nhường chỗ ngồi cho người già yếu, phụ nữ; dừng xe trước đèn đỏ… Trong những điều bất bình thường đó có sex, là chuyện bình thường từ ngàn xưa bỗng dưng trở thành một thứ bẩn thỉu, phải kiêng kỵ.
Trong cuộc trao đổi ở Cà phê Thứ Bảy, nguyên phó giám đốc Sở văn hóa thông tin TP HCM, bà Thế Thanh cho rằng “Cần có những đường lối phù hợp để mọi người có thể chia sẻ sự sáng tạo của mình trong báo chí, điện ảnh hay các lĩnh vực nghệ thuật xã hội khác”. Nói vậy là các nhà quản lý văn hóa hiện nay đang thực hiện một “đường lối” nào đó không còn thích hợp? Giở văn kiện Đại Hội 11 ở phần Phát triển văn hóa: “Huy động các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.” Nội dung này hầu như không thay đổi từ các Đại Hội Đảng trước kia. Vậy có lẽ phải hiểu thế nào là “kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp” và thế nào là “tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Việc đó chủ yếu không phải của các nhà chính trị và các nhà quản lý văn hóa mà là của các nhà nghiên cứu lý luận văn học nghệ thuật từng chuyên ngành, đồng thời phải được sự tranh biện công khai và cuối cùng được kết luận bởi cơ quan có thẩm quyền ở từng chuyên ngành.
Các văn nghệ sĩ phải được bảo đảm tự do sáng tác. Các nhà quản lý có trách nhiệm bảo đảm cho các loại tác phẩm đến đúng với đối tượng, ví dụ sách, ảnh, phim… loại nào dành cho lứa tuổi nào. Việc phê bình đánh giá tác phẩm nên được tiến hành công khai, tôn trọng sự phản biện và các quan điểm chưa được số đông công nhận cũng được bảo lưu và tiếp tục tranh biện. Tránh sự áp đặt một quan điềm không biết từ đâu mà ai cũng kiêng dè. Ví dụ mới đây, có nhà báo viết dưới tiêu đề Dấn thân vào cảnh nóng gồm ba bài liên tục: Cảnh “nóng” và nước mắt; Đi qua dư luận và Giá trị không ở cảnh sex. Chỉ cần đọc ba tựa đề cũng thấy được người viết không coi sex có sự cần thiết cho bất cứ tác phẩm nào mà chỉ là một loại để câu khách! Lẽ ra người viết loạt bài này phải chỉ ra cụ thể, những bộ phim Việt Nam nào (người viết cho rằng đến 80% số phim) đã đưa sex không phải vì cần thiết cho nội dung mà chỉ nhằm câu khách.Vậy mà, tất cả văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình Việt Nam đều im tiếng. Đó là một tình trạng rất, rất không bình thường!
Ngày 27 tháng 7 năm 2011
TVC
LikeLike
(Chị) Linh Tran đã cho em một suy nghĩ rất thuyết phục, cảm ơn Linh Tran a 🙂
LikeLike
Cảm ơn lời đề nghị của LinhTran, coi đó như là một sự tin cậy quý giá và cũng là một món nợ tinh thần đáng yêu! Xin đính chính chút: nghệ thuật vị nhân sinh thì chuẩn hơn
LikeLike
Ngọc Vũ, theo thiển ý của mình thì đối với người làm nghệ thuật thì điều quan trọng nhất là tác phẩm phải đẹp trong con mắt của chính họ, còn việc đánh giá của công chúng và các chuyên gia thì chỉ xếp hàng thứ 2 thôi.
Cảm ơn đạo diễn NAT vì bài phân tích rất khách quan và bổ ích. Cháu xem phim dù khả năng cảm thụ nghệ thuật không cao nhưng cũng cảm thấy dường như đạo diễn đã cắt một đoạn tối của cuộc sống đưa lên phim, rồi xen vào giữa không gian u ám những cảnh quay đầy nghệ thuật. Nhưng cái phần của cuộc sống này dường như nó không thoát ra được, không tiến lên được mà có cảm giác như nó sẽ lặp đi lặp lại bất kể trong tương lai hay hiện tại. Điểm sáng duy nhất về lối thoát ở trong bộ phim mà cháu cảm nhận thấy được là cảnh ở cuối phim, khi Bi nhìn chiếc máy bay bay về cuối trời.
Nếu đạo diễn NAT có thời gian thì cháu mong chú sẽ có bài viết kỹ hơn về “nghệ thuật vị nhân văn” và “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Cháu vẫn chưa hiểu rõ và phân biệt được về 2 khái niệm này.
LikeLike
Em đọc xong bài viết của đạo diễn NAT và hiểu ra được những chướng ngại vật rất lớn của một người đạo diễn phải vấp phải trên con đường làm nghệ thuật. Em cũng rất ghiền phim ảnh và đã từng ước được trở thành đạo diễn, nhưng rút cuộc lại thôi vì thấy nghề này…khó quá và mình chẳng có talent để làm được nó.
Xét cho cùng, công việc phục vụ nghẹ thuật quần chúng đã là một việc rất khó vì dư luận rất dày và nhiều chiều, nhiều phía, làm nghề đạo diễn vì thế mà..cũng lao đao lên xuống khi con tinh thần của mình được đưa ra ngoài công chúng, có người thấy được vẻ đẹp này, nhưng người khác lại không thấy và không cảm được, hoặc cùng một vẻ nhưng người thì thích, thấy hứng thú và người khác lại không, nhiều khi em thấy băn khoăn khi đánh giá đâu mới là vẻ đẹp thật sự của nghệ thuật khi các ý kiến luôn trái chiều nhau? Và người đạo diễn, hay những người làm nghệ thuật biết vịn vào đâu để phát triển con người ta lên?
Đó là trường hợp chung, còn như trong bài viết của đạo diễn NAT, các ý kiến đã lôi ra được nhiều thiếu sót mà Phan Đăng Di đã phạm phải khi thực hiện bộ phim của mình. Và em hiểu được người làm nghệ thuật chân chính là luôn biết bù đắp cho những khiếm khuyết của mình khi nó được người khác phơi bày ra và góp ý, tuy nhiên không phải ai cũng có được những góp ý chân tình như chú NAT, tìm được những lổ hổng thật sự để giúp người ta sửa, và nhận ra những giá trị đẹp người ta đem đến được..
LikeLike
Cũng thử xem qua phim này rồi, ít khi xem phim Việt lắm nhưng thấy bà con khen chê này nọ về phim này nhiều quá nên tò mò coi thử, nói thật là ko phải gu của mình, coi một hồi là thôi tua nhanh vài đoạn coi tiếp vẫn…chán, chả hiểu khen với chê thế nào với phim này mà hay thế, mình chỉ thấy nó chán thôi.
LikeLike
Cảm ơn Tuấn đã viết bài này.
Minh đã cố xem phim này để biết nó ra sao, nhưng sau 31 phút 15 giây, mình bỏ cuộc không đủ kiên nhẫn xem thêm vì chán quá.
Diễn viên đóng không được. Không diễn tả cho khán giả hiểu được một tình cảm gì diễn viễn muốn chuyển tải. Người nào thì cũng một khuôn mặt “chẳng nói lên điều gì như nhau”.
Camera thì rất xoàng. Không có các góc ảnh tạo được ấn tượng tâm lý. Chẳng có close-up nào có ấn tượng. Chẳng có long-short nào có ấn tượng.
Âm thanh và music chẳng có gì.
Sau hơn 30 phút mà mình chỉ thấy một mớ hình ảnh ráp vào nhau, chẳng thấy có một câu chuyện gì trong đó cả, dù là chỉ bắt đầu một câu chuyện (ngoại trừ một cô lớn tuổi có vẻ như thích một cậu học trò, nhưng đây xem ra chỉ là một phần rất bé xíu của cả phim). Cuốn phim có vẻ như không có cốt truyện. Mà phim không có cốt truyện thì khán giả không thể nói với nhau: “Xem thử phim này đi” “Vậy hả? Nó nói về cái gì?” “À…à…. khó nói qua…” Một cuốn phim mà người ta không thể nói cho nhau nghe trong một hai câu cuốn phim nói gì, thì là nội dung bị hỏng, và khán giả, kể cả người đã xem rồi, sẽ quên nó ngay sau khi xem, vì không có gì để nhớ.
Đó là chỉ nói đến một nội dung “thành truyện” để kể–dù chỉ là nội dung để giải trí như là “hai anh cao bồi giành một cô và tìm cách thanh toán nhau từ đầu đến cuối phim”, chưa cần nói đến các mục đích nhân văn cao hơn của điện ảnh như đạo diến NAT nói trong bài.
Cách lắp ráp hình ảnh rời rạc thiếu bố cục này, cứ như là các video clip nhạc–thường là chỉ một mớ hình, chẳng có nội dung gì cả.
Chỉ có cái rõ nhất trong cả 30 phút mình xem–là hình ảnh cố tình thiếu ánh sáng, ẩm thấp, mờ mịt, cho người ta một cảm giác ngột ngạt khó thở, áp bức… Nhưng các cảm giác này, từ góc độ và màu sắc đen tối của của hình ảnh, chẳng nối vô được nội dung nào cả.
LikeLike