
Bao trăm năm một hồng nhan sử viền
Núi sông ngời đỏ bút nghiên
Dòng sanh hoa lệ nặng thuyền trần ai
(‘’Tình sử công chúa Huyền Trân ’’ – Vũ Đình Ninh)
Công chúa Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306 bà bị gả đi Chiêm Thành (Champa) cho vua Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến bắc Quảng Trị) bây giờ. Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt hạ sinh một hoàng thái tử thì quốc vương Chế Mân qua đời. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông (anh trai công chúa Huyền Trân) cho người là quan thần Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung đưa lính sang cứu công chúa Huyền Trân về bằng đường biển. Cuộc hải hành kéo dài một năm và theo một số tài liệu thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa, vì thế về sau có câu chuyện tình yêu về công chúa Huyền Trân được thêu nên từ chi tiết sử này.

Là một người thơ yêu thiên nhiên, yêu hoa cỏ đến độ ” Tình có nụ cười bối rối các loài hoa”, NNB – người tự nhận là “một lãng du yêu”, trong khi nói về các loài hoa như trà mi, hoa sữa, hoa quỳnh, cả loại “hoa chân chim” – bước chân của “chim trống lặn lội đi tìm” chim cái, v.v, anh không thể không nói đến Hoa nhài. Phải chăng, “Hoa thơm ai giắt mái đầu/Mây kia bất tử một mầu nhớ thương” mà NNB ngẩn ngơ, trước hết chính là hoa nhài? Ta có thể hình dung, trong một đêm nọ, “Sân trăng tình lại ngồi kề bên nhau/ Mái đầu lại chụm mái đầu “, người thơ đã kể về một loài hoa thực đáng yêu song từng bị chịu đựng nhiều bất công hơn cả – đó là hoa nhài:
Ôi, những đã mong nó qua! Trán vẫn mát. Nhưng mà trong người thì cứ nghe nóng, và hình như từ sáng bắt đầu nóng dần lên thấy rõ. Ho nhiều nên cổ rát luôn rồi. Và thấm mệt! Thế là lười càng có điều kiện hoành hành. Đã cảm, lại thêm cái bệnh lươi huyền thì thôi hết chỗ nói. 
