Tag Archives: kinh doanh

It’s not charity: the rise of social enterprise in Vietnam

More work still needs to be done to dispel confusion surrounding social enterprises in Vietnam and help promote sustainable growth

Traditional Vietnamese paper-making
Social enterprise is keeping traditional paper-making alive. Photograph: Zó project

in Vietnam

theguardian – It’s mid-afternoon in the village of Duong O, Bac Ninh province, but Huong hasn’t got time to break for tea. She’s only halfway through the long, exhausting job of making a traditional paper called Do. It’s winter and her hands are raw from the process of dipping a framed screen into a trough of frigid water, raising the pulpy tree bark fibres from the surface and transferring them onto a board, where they will be pressed and dried to become a single sheet of paper.

Continue Reading on CVD

Thai goods silently penetrating Vietnamese market ahead of regional economic bloc establishment

Vietnamese visitors scramble to buy a Thai canned food product with money in their hands at a trade fair showcasing Thai products at the Tan Binh Exhibition and Convention Center in Tan Binh District, Ho Chi Minh City, in July 2015. Thoai Tran/Tuoi Tre News

TTN – UPDATED : 08/18/2015 20:03 GMT + 7

It was 10:00 pm on August 9, and the atmosphere at the Tan Binh Exhibition and Convention Center in Tan Binh District, Ho Chi Minh City, was still bustling, as local customers were busy packaging goods they had bought from an exhibition of Thai goods there to bring them home. Continue reading Thai goods silently penetrating Vietnamese market ahead of regional economic bloc establishment

Phố đổi tiền ở Hà Nội hoạt động công khai

Khi vắng bóng lực lượng chức năng, hàng chục quầy đổi tiền lẻ lại nhộn nhịp hoạt động trên phố Quang Trung, quận Hà Đông (Hà Nội).

Đến hẹn lại lên, một đoạn phố Quang Trung (quận Hà Đông) biến thành phố đổi tiền lẻ dịp giáp Tết. Từ đầu Bưu điện Hà Đông theo hướng Ngã ba Ba La, có khoảng 20 quầy đổi tiền lẻ hoạt động với đủ loại mệnh giá 500 đồng, 1.000 hay 2.000. Con phố đổi tiền này được người dân biết đến từ hàng chục năm nay.

doitien2-2160-1423799860.jpg

Những quầy đổi tiền lẻ ngồi san sát trước Bưu điện Hà Đông. Ảnh: Võ Hải

Continue reading Phố đổi tiền ở Hà Nội hoạt động công khai

Tư duy hàng đặt và tư duy hàng hóa

Có một người mở một xưởng từ năm 2002 đến nay, xưởng vẫn vậy vẫn một máy tiện, một máy khoan, một máy mài. Ai đến đặt hàng thì làm, không có ai đến đặt hàng thì ngồi chơi xơi nước.

Có một cửa hàng may ở thị trấn của một người chị trong nhóm bạn thân của tôi, vất vả lắm mới mở được cửa hàng vì ít vốn. Vậy mà chỉ sau 8 năm đến nay chị ấy đã trở thành một giám đốc một công ty may có nhiều sản phẩm bán chạy trên thị trường.
Continue reading Tư duy hàng đặt và tư duy hàng hóa

Mười chiêu chạy tốt trong quản lý các dự án

Chào các bạn,

Cuộc sống hiện đại và lối sống công nghiệp, cùng với các hiệu quả cao và phát triển xã hội, cũng đem đến… rất nhiều việc để làm và x-trét.

boat
Các bạn quản lý nhiều việc một lúc như thế nào? Làm sao để vừa đi làm toàn thời gian, vừa học thi các chứng chỉ ngành nghề? Nộp hồ sơ đi học nước ngoài ? Làm thêm các dự án khác ở ngoài? Và giữ cho thân thể và tinh thần khỏe khoắn?

Sau đây, anh Michael Angier, người sáng lập và người điều hành của Mạng Thành Công (SuccessNet) chia sẻ về bí quyết kham nhiều việc và cân bằng cuộc sống của anh. Hóa ra, công ty của anh đặt tại South Burlington, Vermont, thị trấn hồi trước mình ở 🙂

Anh có sở thích du thuyền, và đây là con thuyền mang tên “Attitude” (Thái độ) của anh – Lao thẳng về phía trước!

Mình đọc được bài viết này vào đầu năm 2007 . Mình thấy có nhiều ý hay và cũng áp dụng được một ít. Mình không áp dụng hết máy móc được vì tính cách mình cũng hơi khác, cũng như anh Micheal nói, mỗi người sẽ có cách khác nhau.

Với mình, hiệu quả nhất là chiêu “Thời gian nghỉ”, mình dạo này thường làm các việc bình thường như đi bộ, rửa bát đĩa, gặt cỏ để ‘vệ sinh đầu óc”và ‘xới lại mảnh vườn”. Khi làm những việc bình thường đó, tự nhiên các câu hỏi và các câu trả lời sáng tạo chợt đến cho những vấn đề cũ và mới nghĩ ra. Rất hay.

Các bạn quản lý thời gian và liên hệ với cách của anh Micheal thế nào? Các bạn chia sẻ thêm nhé.

Chúc các bạn một ngày năng suất,

Hiển.

.

Mười chiêu chạy tốt cho tôi trong quản lý các dự án và ưu tiên công việc

Tôi thường được hỏi điều gì giữ cho tôi có được sự tập trung và liên tục trên tuyến đường tiến đến những mục tiêu của tôi. Mọi người muốn biết cách nào “chạy được”. Họ muốn biết “vũ khí bí mật” của tôi để làm nhiều dự án và các ưu tiên công việc. Sự thật là chẳng có cách nào chạy được cho tất cả mọi người. Mỗi chúng ta đều có cách cá nhân của mình, thế mạnh cũng như điểm yếu. Cách chạy được cho người này có thể không chạy cho người khác.

Tuy nhiên, đây là mười điều chạy được cho tôi. Khi tôi thấy mình không năng suất được như tôi muốn, tôi nhìn vào xem điều nào trong những điều này xem tôi có lẽ đã làm không tốt và kiên trì như tôi nên.
successful
1. Mục đích rõ ràng, viết ra được

Tôi viết những mục đích của tôi xuống và để chúng trước mặt. Tôi đặc biệt quan tâm tới ba mục tiêu đầu. Ba cái quan trọng nhất mà tôi đang trong quá trình hoàn thành. Sự rõ ràng dẫn tới sức mạnh, và có những mục đích rõ ràng, viết được ra giữ cho tôi tập trung hơn.

2. Cuốn sổ dự án

Tôi giữ một cuốn sổ kẹp với 3 móc ở gáy, với một cái gáy đánh số cho mỗi dự án. Trong mỗi phần, tôi có danh sách các việc cần làm, ghi nhớ về tài nguyên và ý tưởng đề hoàn thành những dự án.

Rồi, tôi chẻ nhỏ những dự án của tôi thành những kế hoạch hành động. Hầu hết mọi người có danh sách việc để-làm, nhưng tôi chia danh sách của tôi thành cần kíp, cấp bách và quan trọng. Tôi dùng A, B, C và cố hết sức để tâm tới chúng theo thứ tự. Những cái A phải được làm xong và nhạy cảm về thời gian, những cái B nên được làm hay phải được làm, nhưng không quá gấp về thời gian, những cái C nếu làm được thì cũng hay, tôi có ý muốn làm, nhưng chúng không gấp hay thiết yếu.

Cố hết sức, tôi đặt thời gian để làm các việc A. Tôi đặt hẹn lịch cho chúng và như vậy ít có khả năng chung sẽ trượt và không được làm đúng hẹn.

3. Thời gian nghỉ.

Tôi không thực hành được điều này tốt như tôi muốn, nhưng tôi biết điều này sẽ chạy khi tôi làm, và tôi đang khá lên ở điều này. Chúng ta cần những khoảng nghỉ. Những khoảng nghỉ dài ngày (ít nhất một tuần hay mười ngày), những kỳ nghỉ tương đối (cuối tuần dài (thứ bảy, chủ nhật + 1 ngày) ). Nhớ rằng, chính khoảng lặng giữa những nốt nhạc tạo nên âm nhạc. Đảm bảo rằng, tạo ra một chút khoảng nghỉ của bạn trong ngày, trong tháng trong năm và trong cuộc sống của bạn.
Hầu hết, nếu không phải là tất cả, những người lãnh đạo và thành đạt vĩ đại dành thời gian lánh đi – thời gian yên lặng, thời gian suy tưởng, thời gian thiền và thời gian đổi mới. Không có nó, họ không có thể hoàn thành được điều họ làm. Tại sao chúng ta lại khác đi được?

4. Nhóm đầu não

Tôi gặp gỡ hầu như mọi tuần với Nhóm Thành Công của tôi. Hai trong số họ sống ở bờ Tây và người còn lại ở phần giữa nước Mỹ. Chúng tôi gặp qua cuộc gọi hội đàm và nói về những mục đích và dự án, cái gì đang chạy, cái gì không chạy và chúng tôi có thể tiến thêm tốt hơn ra sao. Tôi không muốn thiếu đi sự hỗ trợ giá trị này.

Chúng tôi gặp trong một giờ và chia thời gian giữa các thành viên trong cuộc gọi. Thêm nữa, chúng tôi trao đổi email khi cần.
successful1
5. Phục vụ đầu tiên – Lợi nhuận thứ hai

Điều này không phải dễ làm, nhưng rất cần thiết đặt trọng tâm vào cho khách hàng điều họ muốn. Nếu tôi nghĩ về những gì tôi có thể làm cho khách hàng hay vì tôi có thể lợi lộc gì, mọi thứ chạy tốt. Cộng việc chạy và chứng minh rằng bạn có thể có bất kỳ thứ gì bạn muốn nếu bạn giúp đủ những người khác có cái họ muốn.

Bằng cách tập trung vào nơi đáng tập trung – tạo ra giá trị – thay vì tôi muốn được gì cho tôi, tôi tạo ra tiến bộ – và tiến bộ là cái tồn tại lâu dài.

6. Tôn thờ khoảng thời gian hiệu năng cao

Chúng ta đều có những thời gian nhất định trong ngày mà chúng ta làm việc tốt nhất, với tôi, đó là buổi sáng. Với bạn, có thể đó là buổi chiều hay nửa đêm. Tôi đặt kế hoạch hầu hết những dự án quan trọng nhất vào buổi sáng, Cho khoảng thời gian hiệu năng thấp hơn, tôi làm những việc cần ít sáng tạo, ít lực của não, hay ít động lực hơn.

7. Ghi nhật ký

Tôi giữ một quyển nhật ký trên máy tính và cũng trong một cuốn sổ kẹp 3 vòng, để tôi có thể đục lỗ và thêm giấy vào khi cần thiết. Đó là cuốn sổ nháp cũng như chỗ để tôi ghi lại ý tưởng và suy tư.

Thật sâu sắc và hứng thú đối với tôi khi tôi xem lại những nhật ký từ những năm trước. Thật kỳ diệu nhìn thấy sự khác đi về quan điểm của những năm đã qua cũng như quan sát sự tiến bộ đạt được.

8. Thể dục

Tất cả chúng ta cần thể dục. Cơ thể ta cần tích cực để đầu óc hoạt động tốt. Khi tôi bỏ tập, công việc của tôi dở đi. Khi tôi làm điều tốt cho tôi, những thứ tốt xảy đến với tôi. Tôi giờ đây nhìn vào khoảng thời gian tập thể dục như là một đầu tư vào hiệu năng của tôi, hơn là lấy mất đi thời gian hiệu năng.

9. Đọc những sách tốt và nghe những băng tốt

Đầu óc, sự sáng tạo và động lực của tôi được kích thích bằng những câu chuyện hứng khởi, nghe những ý tưởng hay và học tại sao những người vĩ đại đã sống và chiến thắng.

Tôi đọc với một cái máy thu âm hay một cái sổ ghi, bởi vì tôi muốn ghi lại theo thời gian những ý tưởng tôi kháp phá ra và những điều tôi nghĩ như kết quả của những điều tôi đọc.

10. Đặt những câu hỏi

Tôi tin rằng những câu hỏi là những câu trả lời. Khi tôi đặt câu hỏi cho người khác, tôi học được. Khi tôi đặt câu hỏi cho chính tôi, tôi phải suy nghĩ và nghiên cứu, tôi còn học được nhiều hơn. Tất nhiên, ta chẳng thể học được ít đi.

Chất lượng cuộc sống của ta liên hệ mật thiết với chất lượng câu hỏi của ta.

Ghi chú: Tất nhiên, không có gì có thể thay thể được việc có những mục tiêu bạn cảm thấy đam mê. Với những lý do mạnh mẽ, tin tưởng mãnh liệt, và một niềm tin sâu sắc, một người có thể đạt được những điều tưởng như không thể.

.

Ten Things That Work For Me In Managing Projects And Priorities

I’m often asked what keeps me focused and on track toward my objectives.

People want to know what works. They want to know my “secret weapons” for juggling many projects and priorities. The truth is there’s no one way that works for everyone. We each have our own style and our own strengths and weaknesses. What works for one may not work for another.

Nonetheless, here are ten things that work for me. When I find myself being less productive than I’d like, I look at which of these things I might not be doing as well or as consistently as I might.
successkey
1. Clear, Written Goals

I write my goals down and I keep them in front of me. I pay particular attention to my top three—the three most important things I’m in the process of accomplishing. Clarity leads to power and having clear, written goals keeps me better focused.

2. A Projects Book

I keep a three-ring binder with a numbered tab for each project. Within each section, I have task lists, notes about resources and ideas on completing these projects.

Then, I break my projects down into action plans. Most people have to-do lists, and so do I, but I divide my list into critical,
imperative and important. I use A, B and C and do my best to put my attention on them in this order. A’s must be done and are time-sensitive. B’s should be done or must be done, but are not so time-critical. C’s are nice to do, I’d like to do them, but they just aren’t critical or essential.

As best I can, I schedule the time to work on the A’s. I set them up as an appointment and that way there’s less chance that they will slip and not get done on time.

3. Time Away

I don’t yet practice this as well as I would like, but I know it works when I do, and I’m getting better at it. We need breaks. Extended ones (at least a week or ten days), intermediate ones (long weekends) and short ones (breaks in the day). Remember, it’s the space between the notes that makes the music. Be sure to create some spaces in your
day, your month, your year and your life.

Most, if not all, of the great leaders and achievers spent time away—quiet time, contemplative time, meditation time and renewal time. Without it they would not have been able to accomplish what they did. Why should we be any different?

4. Master Mind

I meet almost every week with my Success Team. Two of them live on the west coast and the other in the Midwest. We meet by conference call and talk about our goals and projects, what’s working, what’s not working and how we can make better progress. I wouldn’t be without this valuable support.

We meet for an hour and divvy up the time between the members on the call. In addition, we correspond via email as the need arises.
successwind
5. Service First—Profits Second

It’s not always easy to do, but it’s imperative to put the focus on giving the customer or client what they want. If I’m thinking about what I can do for our members instead of what I can gain, things work.

It just goes to prove that you can get anything you want if you help enough other people get what they want. By keeping the focus on where it belongs—creating value—instead of on what I want to get out of it, I make progress—and it’s progress that lasts.

6. Keep Peak Times Sacred

We all have times of the day when we are at our best, for me, it’s the morning. For you it might be the afternoon or late night. I schedule my most important projects for the AM. For my less-productive times, I schedule tasks that don’t require as much creativity, brainpower or motivation.

7. Journaling

I keep my journal on my computer and also in a 3-ring binder so Ican punch and add pages as needed. It’s a scrapbook as well as a place to record my thoughts and ideas.

It’s insightful and inspiring for me to review my journals from previous years. It’s amazing to see the difference in perspective from years past as well as observe the progress that’s been made.

8. Exercise

We all need exercise. Our bodies need to be active in order for our minds to work properly. When I skip my workouts my work suffers. When I do what’s good for me good things happen to me. I now look at the time taken in working out as an investment in my productivity rather than taking time away from my productivity.

9. Reading Good Books and Listening to Good Tapes

My mind, my creativity and my motivation are stimulated by reading inspiring stories, listening to good ideas and learning about why and how great men and women have lived and triumphed. I read with a tape recorder or a note pad because I want to chronicle the ideas I discover and what I think about as a result of what I read.

10. Asking Questions

I believe that questions are the answers. When I ask others questions, I learn. When I ask myself questions, I have to think and research, I learn even more. Of course, we can’t learn less.

The quality of our lives is closely related to the quality of our questions.

Author’s Note: Of course, nothing can take the place of having objectives about which you feel passionate. With strong reasons, compelling beliefs and deep-seated faith, one can accomplish seemingly impossible things.

Michael Angier

Viết giản dị và sâu sắc

Chào các bạn,

Bài này là để trả lời câu hỏi, Làm thế nào để viết giản dị và sâu sắc?

Giản dị và sâu sắc liên hệ rất mật thiết với nhau. Những gì sâu sắc thường rất giản dị. Ví dụ: Chàng nói với nàng, “Anh yêu em”—tất cả những bó hồng nhung của thế giới, tất cả thi ca của thế giới, tất cả âm nhạc của thế giới vẫn không làm đầy được ba chữ “Anh yêu em.”

Nhưng, sâu sắc và giản dị là hai kỹ năng khác nhau. Sâu sắc là suy tư. Giản dị là giải bày, hoặc bằng lời nói hoặc bằng lời viết. Trong phần sau đây, chúng ta sẽ nói đến sâu sắc trước, rồi sẽ nói đến viết giản dị sau.

I. Làm thế nào để suy tư sâu sắc?

Thực ra từ “sâu sắc” rất tương đối—sâu sắc với người này, vẫn có thể là nông cạn với người kia. Nhưng tại đây ta không cần quan tâm đến chuyện đó; chỉ cần biết là hôm nay ta sâu sắc hơn ta hôm qua là đủ rổi.

Muốn suy tư sâu sắc ta chỉ cần nắm vững 3 điều thôi:

Suy tư
Suy tư

1. Càng suy nghĩ và kinh nghiệm về một việc gì, ta càng sâu sắc về việc ấy. Sâu sắc đến từ suy tư và kinh nghiệm. Nhưng, kinh nghiệm không phải là một cái gì nằm ngoài tiến trình suy tư, kinh nghiệm là 50% của suy tư, vận dụng não bộ để suy tư là 50% còn lại. Có những điều mình đọc năm 18 tuổi, đến 40 tuổi mới “ngộ” được nó, không phải là vì IQ của mình cao hơn ở 40, nhưng vì kinh nghiệm sống cao hơn.

Nhưng nói đến kinh nghiệm thì các bạn trẻ cảm thấy hơi thiệt thòi rồi. 😦 Nhưng không sao. Người lớn tuổi hơn thì đã phải “trả nợ đời” (pay their dues) nhiều lắm rồi, biết hơn một tí cũng là công bình thôi. Hơn nữa, mình trẻ hơn thì mình lại có sức mạnh khai phá của người tiền phong cầm rìu rựa phá rừng thành rẫy. Nếu mình làm việc với người lớn tuổi hơn, lấy kiến thức của họ về con đường cũ làm kiến thức tạm của mình, và mình dấn thân vào khai phá con đường mới, thì mình có thể nắm được cả quá khứ đến tương lai.

Dù sao đi nữa thì suy tư là suy tư và sống. Cho nên đọc sách, nghiên cứu, thảo luận là một chuyện; nhưng cũng cần phải “đi ra ngoài và làm gì đó” (Go out and do something!).
flighttofreedom
2. Phải vượt thoát các “công thức suy tư”

Chúng ta không tự nhiên mà biết suy tư. Từ bé ta đã được học hàng nghìn công thức suy tư cho hàng nghìn vấn đề. Ví dụ: Đi thưa về trình—không làm như thế là vô lễ. Con gái thì phải thùy mị, không chơi trò bắn súng đánh nhau. Chửi thề là quyền ưu tiên cho đám con trai. 😦 Đó là tiến trình “văn minh hóa” của một con người. Nếu không học được những công thức suy tư như thế thì chúng ta có lẽ là không khác gì chú khỉ trên rừng.

Nhưng những công thức suy tư cần thiết cho sự phát triển nhân cách, cũng có tiềm năng biến chúng ta thành những người máy robot khi lớn lên nếu chúng ta không biết cách “vượt lên tầng cao hơn” để suy tư thực sự tự do. “Vượt lên tầng cao hơn” không có nghĩa là phá bỏ mọi công thức, mà là biết khi nào dùng công thức, khi nào không, khi nào chính mình tạo ta công thức mới cho mình. Đó là mức sáng tạo của tất cả mọi loại nghệ thuật.

Ví dụ: Hoc vẽ thì lúc đầu là phải theo công thức màu gì trộn với màu gì ra màu gì, màu gì dùng để diễn tả tình cảm gì, cách nhìn và đo lường phối cảnh, luật quân bằng… Học viết thì văn phạm, chấm câu, bố cục… Học đàn thì ngồi thế nào, tay bấm thế nào, lúc nào mạnh yếu nhanh chậm ra sao… Học võ thì bước nào trước bước nào sau, một hai ba bốn thế nào… Một lúc nào đó người học trò đã thành thuộc các công thức và đã bắt đầu lên hàng thầy, thì hầu như là quên mất công thức, vì công thức đã vào máu mình rồi. Và bậc thầy thực sự là nguời có thể bỏ công thức và sáng tạo công thức mới khi thấy cần. Đây là mức sâu sắc của nghệ thuật.

Suy tư cũng thế thôi. Một lúc nào đó, ta cần có cái nhìn của một trẻ thơ để hỏi “tại sao?” trước những công thức suy tư đã giúp ta trưởng thành, để ta không bị ngục tù tư tuởng và có thể biến hóa sáng tạo. Ví dụ: Đi thưa về trình. Lúc còn nhỏ đó là công thức văn hóa. Nhưng bây giờ lớn một tí rồi thì “tại sao?” Lớn rồi có còn cần nó như hồi còn con nit hay không? À, có lẽ nó không còn mấy cần thiết như là một vấn đề lễ nghĩa, nhưng vẫn có thể cần đối với người trong nhà như là vấn đề an ninh. Thời đại này, đủ thứ bất an xảy ra ngoài đường, đi đâu nên nói cho ai đó trong nhà biết mình đang đi đâu và khi nào sẽ về, lỡ có chuyện gì người nhà còn biết đường mà mò. Về trễ thì gọi điện về báo tin để người nhà khỏi lo. Đó là suy tư sáng tạo. Hỏi “tại sao?” để thay đổi cái cũ thành cái mới, hoặc đôi khi xóa cái cũ nếu thấy nó thực sự chẳng cần thiết. (Các cô thư ký của mình luôn luôn biết mình ở đâu và khi nào về, kể cả khi mình đi restroom. Để nếu có thân chủ gọi đến, cô không phải trả lời: “Ông ấy ở đâu tôi cũng không biết và chẳng biết khi nào ông ấy về.” Thân chủ sẽ có cảm tưởng là văn phòng này chỉ lo du hí và chẳng ai biết “what is going on” hết).

Đừng bị đóng khung vào các công thức suy tư và ứng xử. Như vậy mới thực sự tự do sáng tạo. “Muốn vào nước thiên đàng thì hãy như trẻ thơ.” Muốn đến đỉnh cao thì hãy vượt khỏi khung công thức người lớn. Nhưng… nhưng… nhưng… một bậc thầy đã nhuần nhuyễn công thức nói là phải vuợt thoát công thức thì khác với một người học trò nhập môn chưa rành công thức nào. Chúng ta chỉ có thể vượt thoát công thức để sáng tạo khi đã nhuần nhuyễn công thức. Không học công thức nào và không rành công thức nào, mà đòi gạt bỏ công thức, thì chưa làm học trò được, đừng nói là sẽ thành thầy sáng tạo.

cherry-heart
3. Chú tâm vào quả tim con người

Tất cả mọi vấn đề lớn nhỏ trên đời, ngoại trừ toán học và khoa học thiên nhiên, đều qui vào qủa tim con người và liên hệ giữa các con người—xã hội học, chính trị học, kinh tế học, thương mãi, nhân chủng học, khảo cổ học, đạo đức học, luận l‎ý học, tôn giáo học, triết học v.v… Tất cả những sinh hoạt gì liên hệ đến con người đều có gốc rễ trong quả tim con người. Ví dụ: Chính trị cho người Việt. Nếu cứ lấy các thống kê và các công thức chính trị của Mỹ rồi giải thích chính trị Việt nam thì hỏng bét. Các thống kê đó phải được hiểu với hiểu biết tâm lý người Việt. Tượng tự như thế, các công thức mô hình chính trị các nước có thể là chẳng mấy liên hệ với khung cảnh và tâm lý người Việt. Kinh tế cũng thế, có thể có một tin chiến tranh ở đâu đó và giá vàng ở vài nơi trên thế giới xuống, nhưng giá vàng ở Việt Nam có thể lại lên, vì dân Việt có máu thích trữ vàng làm an ninh—cứ rục rịch là mua vàng.

Chú tâm vào quả tim con người là chú ‎ý quan sát quả tim của chính mình thường xuyên. Nếu biết quả tim mình thì mình biết được 90% quả tim của mọi người trên thế giới, vì sự khác biệt thực sự giữa mọi người rất ít. Mà quan sát thì cần một tí tĩnh lặng và nhìn.

Ví dụ: Nhìn trời mưa và đang muốn làm thơ, tự động là một công thức suy tư nhảy ra: “Mưa rơi mang mang buồn.” Nếu viết công thức này xuống, thì bài thơ có thể nghe chán phèo vì mấy triệu người đã víết công thức này cả trăm năm rồi. Thay vì thế, quan sát tâm mình một tí, có thể là mình đang nhớ đến ngày mưa năm đó hẹn nàng ở quán Hoài, nhìn mưa đợi nàng, như thường lệ, trễ hẹn 😦 Vậy thì bắt đầu bằng, “Nước bay trước mặt quán Hoài, hàng xe lầm lũi bên ngoài phố mưa…” Hay hay dở thì chưa biết, nhưng chắc chắn là sáng tạo hơn công thức đã bị lạm dụng “Mưa rơi mang mang buồn.” Mà sáng tạo thì có tiềm năng sâu sắc. Ít ra là sâu sắc hơn công thức có sẵn.

Tất cả các vấn đề triết l‎y’ xã hội chính trị kinh tế cũng thế thôi. Dùng cái tâm mình làm thước đo trước, sau đó mang ra cho mọi người, không chính xác 100% vì người và ta khác nhau, nhưng ít ra cũng được 90%.

Tóm lại, muốn suy tư sâu sắc, ta nên chú trọng vào 3 điều: 1. Suy tư và sống. 2. Vượt thoát các công thức. và 3. Quán sát tâm mình.

II. Làm thế nào để viết giản dị

Trong các dịp huấn luyện các luật sư mới ra trường viết lách, mình luôn luôn nhắc đến 3 qui luật viết: 1. Giản dị. 2. Giản dị. Và 3. Giản dị.

Giản dị, vì viết là để chia sẻ với người khác, nếu không giản dị người đọc sẽ không hiểu mình viết gì, và như thế là mình đã thất bại trong việc chia sẻ. (Nếu viết chỉ để cho mình đọc, như là làm thơ chẳng hạn, thì không cần ai hiểu. Nhưng nếu đã đăng ra ngoài mà còn nói là tôi viết để chỉ cho tôi đọc, thì đó là không thành thật. Chỉ cho tôi đọc sao lại đăng ra ngoài?)

Nguyên tắc viết giản dị đòi hỏi ta chú tâm đến các điểm sau:
khán giả
1. Biết người đọc mình nhắm đến là ai: Giản dị với các vị cử nhân thì khác với giản dị với các vị mới chỉ học xong lớp năm. Cho nên, nghĩ đến đọc giả mình nhắm đến, trong khi viết.

Nếu đọc giả có thể có đủ mọi trình độ, ví dụ từ lớp 10 đến tiến sĩ (như ĐCN chẳng hạn), thì ta phải viết đủ giản dị để người học lớp 10 cảm thấy mình hiểu hết bài viết, và người tiến sĩ cũng hiểu hết bài viết nhưng sâu hơn vài tầng. Điều này cũng không khó mấy, chỉ cần thêm vào bài cho người lớp 10 vài từ có vẻ vô thưởng vô phạt cho lớp 10, nhưng mang l‎y’ lẽ sâu xa cho người cấp tiến sĩ. Ví dụ: “Yêu người thì thường được người yêu lại.” Câu này thì lớp 10 hiểu được ngay, nhưng người mức tiến sĩ thì thấy sự quan trọng của chữ “thường”—À chị này nói thế có y’ là lâu lâu cũng có ngoại lệ, yêu người thì được nguời đâm sau lưng. 😦

Ngay cả khi viết cho người có trình độ cao, ta vẫn phải tưởng tượng là họ chẳng biết gì mấy, viết như viết cho người có trình độ thấp hơn một tí vì: (a) Người bận việc đọc rất nhanh và không muốn đọc lại. Viết càng giản dị càng giúp họ trong việc đọc. (b) Trong các việc ta đã suy nghĩ và nghiên cứu nhiều, người đọc không rành việc ấy bằng ta, cứ xem như là ta đang giải thích cho học trò là chắc ăn nhất. Ví dụ: Viết một về vụ án gửi lên thẩm phán, bạn đã tốn mấy tháng liền, mỗi ngày 12 tiếng, nghiên cứu vụ này. Trong vụ này bạn là thầy ông thẩm phán, ông ta chẳng biết ất giáp gì hết, vậy thì khi viết cho thẩm phán cứ viết thật giản dị như viết cho học trò của bạn.

simplicity
2. “Nếu tôi viết, bạn đọc mà không hiểu, thì đó là do tôi viết tồi, chứ không phải vì bạn đọc tồi.” Luật này là luật viết quan trọng số 1.

3. Chỉ viết về một điểm chính cho một bài. Hai điểm chính, như bài này–suy tư sâu sắc và viết giản dị–là đã hơi quá nhiều. Ba điểm là giới hạn tối đa. Bốn điểm là no-no.

4. Dùng từ giản dị. Đừng dùng từ phức tạp, trừu tượng và chuyên môn.

Từ giản dị là từ dùng thường ngày. Ví dụ: “Đừng xả rác ngoài đường” thì dễ hiểu và mạnh mẽ hơn là “Phải đề cao ‎y’ thức y tế cộng đồng.” (Nói gì vậy??). “Anh yêu em” thì rõ ràng hơn là “Anh xúc cảm tràn dâng trong tâm tưởng với ảnh hình dấu ái tuyệt vời của em.” (What is that?? Muốn gì thì nói thẳng ra đi cha nội :-))

Từ cụ thể thì dễ hiểu và mạnh mẽ hơn từ trừu tượng. Ví dụ: “Hãy vun trồng nước non sông núi này; hãy tưới nước cho hoa nở trên mọi cánh đồng” thì mạnh mẽ và dễ hiểu hơn là “hãy nâng cao lòng ái quốc và tình yêu xứ sở.”

Từ chuyên môn chỉ nên dùng với người cùng ngành chuyên môn. Ví dụ, thay vì “Độc quyền kinh tế làm tăng giá, giảm cầu và giảm hiệu năng kinh tế quốc gia” thì nên viết “nhà độc quyền có quyền bán ít hàng để có thể tăng giá đến mức cắt cổ, làm người tiêu thụ rất bị thiệt thòi.”

5. Viết câu ngắn. Ví dụ:

    “Ai cũng bảo xòe bàn tay ra, trong ấy có cả quá khứ vị lai. Tôi thì không tin rằng chỉ cần ngồi lẩm nhẩm với mình mà đọc được cái gì chưa đến. Còn quá khứ thì đâu chỉ nằm trong lòng bàn tay. Tôi vay ngân hàng ba mươi triệu, quá khứ của tôi nằm ở ngân hàng. Tôi vay của người hàng xóm đôi lời chì chiết. Quá khứ giờ đang nằm ở nhà hàng xóm. Tôi vay em một thời yêu thương. Chuyện này thì cầu mong quá khứ còn náu mình đâu đó nơi em.” Kể Chuyện Tôi, Tấn Ái.

6. Dùng các dấu chấm câu để giảm vận tốc đọc của người đọc. Ví dụ:

    “Nếu bạn hỏi tôi thích làm gì nhất, câu trả lời chắc chắn sẽ là: ‘Tôi thích chăn bò!’. Có thể bạn không tin, nhưng thật tình, tôi thích chăn bò lắm! Tôi rất thích nhìn vào đôi mắt to trong veo của con bò nhà tôi, đen láy và ướt át, chúng luôn khẽ khàng nấp dưới hàng mi dài cụp xuống. Trong đời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một đôi mắt nào buồn đến thế. Nó toát lên vẻ ẩn nhẫn, cam chịu, và hiền lành khiến cho tâm hồn trẻ thơ ngập tràn thương cảm. Một tình bạn thầm lặng bắt đầu từ đó!” Hãy đến tìm tôi giữa một cánh đồng, Đông Vy.

link

7. Dùng các từ nối kết—nhưng, và, vì thế, do đó, vậy thì, thế thì…– để nối kết những chuỗi lý luận với nhau. Ví dụ:

“Tư duy là bên trong và hành động là bên ngoài. Tư duy chi phối hành động. NHƯNG cuộc đời đưa ta đến bao tình huống khác nhau mỗi ngày, đòi hỏi những hành động khác nhau cho từng tình huống. Hành động thì khi nhanh khi chậm, khi như sâu lắng suy tư, khi như ánh chớp như thể không kịp suy tư, khi thì dịu dàng, khi thì dũng mãnh… VẬY THÌ tâm tư ta thế nào trong những tình huống như vậy? Tâm tư ta cũng biến chuyển vô thường như hành động theo từng tình huống hay sao?” Liên hệ giữa tư duy và hành động.

8. Đặt mỗi “đơn vị ý tưởng” (thought unit) trong một đoạn (paragraph) riêng. Nhưng nếu đoạn này quá dài thì cắt ra thành hai ba đoạn cho đỡ rậm mắt và nhức đầu người đọc.

Hoặc, nếu một câu nào đó mà ta muốn nhấn mạnh, thì tách câu đó ra thành một đoạn. Ví dụ:

    “Tâm tính của mỗi người là một bộ máy tâm sinh lý đặc biệt, cứ như thế mà vui buồn yêu ghét. Không phải muốn đổi tâm tính là có thể làm xong trong một ngày, một tuần. Nếu cơ thể cần được tập luyện mỗi ngày, khá lên mỗi ngày một tí, vài ba năm mới được như vận động viên, thì tâm tính cũng thế, cũng phải được rèn luyện mỗi ngày, không, mỗi phút giây ta sống. Và phải kiên nhẫn một thời gian thì mới có được kết quả ‘trông thấy’.

    Nhưng tại sao ta phải suy tư tích cực? Trời sinh sao để vậy không được sao?

    Trước hết, tâm tính của ta không phải do trời sinh. Các yếu tố di truyền có dự phần một tí, như là sinh ra thì có hai tay hai chân, nhưng có đai đen Judo hay một cơ thể èo ọt bệnh hoạn là do ta. Trí lực và tâm lực cũng thế, trời sinh ra có tâm trí, tích cực hay tiêu cực là do ta.” Tư duy tích cực là gì?

9. Nếu được thì nên đánh số 1,2,3, a,b,c như dàn bài cho các đơn vị ý tưởng (như bài này đây).

10. Bất kỳ bài nào, dù là viết kiểu gì, đều có 3 phần: Mờ đầu, thân bài và kết luận. Có khác nhau là chỉ về hình thức một tí thôi. Mở đầu là để giới thiệu mình muốn nói về việc gì. Thân bài là phân tích, l‎ý luận, giải bày. Kết luận là để mình muốn đọc giả nghĩ gì, cảm xúc gì, làm gì, chia sẻ gì. Ví dụ:

    Mở đầu: “Nếu bạn hỏi tôi thích làm gì nhất, câu trả lời chắc chắn sẽ là: “Tôi thích chăn bò!”. Có thể bạn không tin, nhưng thật tình, tôi thích chăn bò lắm! …”

    Kết luận: “Để bây giờ, rất nhiều khi thấy chán chường những con đường chen chúc người xe và khói bụi, mệt mỏi với cuộc sống vội vã đua tranh, tôi lại thèm quá những ngày huy hoàng cũ, khi tôi còn là một cô bé chăn bò. Bởi thế, nếu một ngày nào đó không tìm thấy tôi trong chốn đô thị bon chen, bạn hãy đến tìm tôi giữa một cánh đồng …” Hãy đến tìm tôi giữa một cánh đồng, Đông Vy.

proofreading

11. Duyệt lại. Nếu bạn là chuyên gia về kinh tế viết một bài về kinh tế cho đọc giả không phải là dân kinh tế, thì sau khi viết xong, đưa bài cho một người bạn chưa biết đánh vần chữ “tiền” đọc lại. Nếu bạn này nói chỗ nào không hiểu thì viết lại chỗ đó, cho đến khi bạn đó nói là thực sự hiểu toàn bài.

Viết là một nghệ thuật. Càng viết nhiều thì nghệ thuật càng nâng cao và càng có nhiều kỹ năng để nghiên cứu thêm. Nhưng hy vọng các qui luật căn bản trên đây cũng có thể giúp các bạn đi được một đoạn khá dài.

Điều cuối cùng mình muốn nhấn mạnh trong liên hệ giữa suy tư sâu sắc và viết giản dị là: Chỉ khi bạn hiểu được một vấn đề rất sâu sắc bạn mới đủ khả năng để trình bày vấn đề đó rẩt giản dị. Nếu bị lúng túng quá trong việc giản dị hóa một vấn đề, có thể là bạn phải nghiên cứu và suy nghĩ thêm về vấn đề đó, cho đến lúc nắm vững đủ để trình bày đựợc cho cả các em bé tiểu học, nếu cần.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến.

Hoành

© copyright TDH, 2009
www.dotchuoinnon.com
Permission for non-commercial use

Sáu sai lầm thường gặp trong lãnh đạo nhóm

Chào các bạn,

Bài viết này đã đăng vài năm trước trong báo Nhà Quản Lý. Hôm nay đăng lại đây để chia sẻ với các bạn. Hình như bản này là bản đã được Nhà Quản Lý biên tập, vì đọc nghe khô khan, không thân thiện theo kiểu của mình 😦

Mến,

Hoành
_________

Lãnh đạo ở mọi cấp quản trị thường mắc một số sai lầm chung làm suy yếu tập thể của họ. Thực tiễn hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia cũng như những doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy, các trưởng nhóm, các nhà quản lý thường mắc 6 lỗi phổ biến sau đây làm giảm hiệu quả hoạt động của nhóm và công ty
Quality_not_quantity
1. Chú tâm vào số lượng

Phần lớn các nhà quản lý thường mắc ảo tưởng rằng càng có nhiều nhân sự trong nhóm thì nhóm càng trở nên mạnh. Ảo tưởng này có mối liên hệ với cái tôi của nhà quản lý – dưới quyền tôi có nhiều người, chứng tỏ tôi quản lý tốt. Đây là một trong những sai lầm đầu tiên trong việc xây dựng và tổ chức hoạt động nhóm.

Chất lượng nên là yếu tố quan tâm hàng đầu. Trong công việc hàng ngày, tôi hay sử dụng “Nguyên tắc quản lý của The Beatles”. Có rất nhiều dàn nhạc giao hưởng với số lượng đông hàng trăm nghệ sĩ và đủ các loại dụng cụ âm nhạc. The Beatles chỉ có 4 thành viên. Tuy nhiên, mức ảnh hưởng của họ trong thế giới âm nhạc lớn hơn bất kỳ dàn nhạc khổng lồ nào khác, thậm chí còn hơn tất cả các dàn nhạc này cộng lại. Điều này chứng tỏ là một nhóm nhỏ với các thành viên hạng nhất vẫn hiệu quả hơn so với một nhóm đông những người trung bình. Do vậy, chất lượng chứ không phải số lượng là điều quan trọng.

onebadapple
2. Đếm đầu người

Một vài nhà quản trị có xu hướng định giá khả năng của nhóm thông qua việc đếm đầu người một cách đơn giản. Họ thường nói: “Nhóm tôi có 12 nhân viên, 8 nguời trong số này tốt, 2 trung bình, và 2 tồi. Nhóm của tôi nhìn chung là tốt vì số lượng người tốt chiếm đa số”.

Tuy nhiên, chúng ta hãy xem xét đội hình của một đội bóng. Cần bao nhiêu cầu thủ tồi để có thể hủy hoại thành quả của cả đội? Một là quá đủ. Nếu một cầu thủ không chơi theo lối chơi của đội, không phối hợp tốt với các cầu thủ khác, chơi ẩu, ích kỷ, không chịu chuyền bóng cho đồng đội lúc cần thiết… cả đội sẽ thua. Thực chất, để có một đội hình mạnh, tất cả các thành viên đều phải chơi tốt và giữ vững kỷ luật. Đó là mô hình của Real, Juve, AC, hay Chelsea, là các câu lạc bộ hàng đầu hiện nay. Một điều đơn giản, một quả táo thối có thể làm hỏng cả giỏ táo, vì vậy quả táo thối phải bị loại bỏ ngay.

cub-scouts
3. Sử dụng “dân chủ” không phù hợp

Nhiều người nghĩ rằng để nhóm mạnh thì phải có dân chủ, tức là mọi người đều có tiếng nói và sức mạnh ngang nhau và việc ra quyết định sẽ theo phương thức biểu quyết. Điều này là sai lầm.

Hiệu quả hoạt động của nhóm chủ yếu phụ thuộc vào người đứng đầu. Trưởng nhóm là người ra quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp lãnh đạo cao hơn về hiệu quả hoạt động của nhóm. Trưởng nhóm có thể dẫn dắt nhóm thảo luận một cách dân chủ, song anh ta phải là người ra quyết định cuối cùng. Trưởng nhóm có thể sử dụng biếu quyết để quyết định một vấn đề thay vì tự mình ra quyết định, nhưng anh ta vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng về quyết định đó. Một người lãnh đạo không ra được quyết định hoặc tránh trách nhiệm ra quyết định là lãnh đạo tồi và tập thể do anh ta lãnh đạo sẽ không thể mạnh được.
mother-scolding-bad-boy
4. Không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng và ngọt ngào

Như là huấn luyện viên một đội bóng, trưởng nhóm luôn hỗ trợ các thành viên, song tùy từng thời điểm, đôi khi phải cứng rắn, đặc biệt với một số loại thành viên. Nhà quản lý không phải lúc nào cũng ngọt ngào và dịu êm.

Làm trưởng nhóm đòi hỏi năng lực và sức mạnh để có thể chỉ ra được các điểm yếu, điểm mạnh, các sai lầm mà các thành viên mắc phải. Đây là công việc khó và cần cứng rắn trong hành động. Ra quyết định là nhiệm vụ của nhà quản lý và quyết định cần khắc nghiệt trong những giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, cứng rắn thế nào để mọi người vẫn yêu quý mình, đó là một nghệ thuật.

yoyoma
5. Ngần ngại trong đòi hỏi chất lượng

Nhiều nhà lãnh đạo thường e dè khi nói với nhân viên về hiệu quả hoạt động kém của họ. Việc này thường được giải thích với nhiều lý do: “Tôi không muốn làm mếch lòng nhân viên, hoặc “Chúng ta trả lương họ chưa xứng đáng, vì vậy chúng ta không thể đòi hỏi chất lượng cao hơn” v.v…

Bào chữa như vậy là không có cơ sở. Khi một nhà quản lý ngần ngại đòi hỏi chất lượng cao, nhóm của anh ta sẽ trở nên xoàng xĩnh, chí khí của nhóm sẽ suy giảm, và cuối cùng nhiều thành viên sẽ ra đi. Ngược lại, khi nhà quản lý yêu cầu chất lượng cao, các nhân viên sẽ cảm thấy công việc của họ là có giá trị. Họ thấy hãnh diện về nghề nghiệp của mình, tôn trọng người quản lý và trở nên trung thành hơn với tổ chức.

champions_league

6. Lo sợ đặt mục tiêu cao

Nhiều nhà quản lý cũng lo sợ khi đặt mục tiêu cao cho nhóm. Họ e dè khi nói những câu: “chúng ta là những người tốt nhất” hay “chúng ta sẽ trở nên tốt nhất”. Có người nói đây là sự nghiêm tốn và nhún nhường cần thiết. Tôi thì cho rằng đây là biểu hiện của sự thiếu tự tin.

Một nhà lãnh đạo tự tin sẽ nói với nhân viên để tiến lên vị trí số 1. Cách đặt mục tiêu này sẽ khuyến khích nhân viên luôn tự hoàn thiện mình, cảm thấy thử thách, vui vẻ, hãnh diện, và cảm thấy rằng họ là lực lượng để chiến thắng.

Trên đây là một số những sai lầm thường gặp ở những người lãnh đạo, với mục đích để phân biệt những nhà lãnh đạo xoàng xĩnh với những nhà lãnh đạo giỏi, những nhóm thành đạt với những nhóm thất bại… Hy vọng những kinh nghiệm này sẽ giúp ích phần nào cho các nhà quản lý của chúng ta trong công tác điều hành hiện nay.

LS Trần Đình Hoành, Tiến Sĩ Luật

Hiểu và phát triển văn hóa dân tộc

Chào các bạn,

Hôm nay chúng ta bàn đến điểm đầu tiên trong 9 điểm đã nói đến trong bài Du nhập văn hóa nước ngoài. Đó là: “Phải nắm vững văn hóa và định chế của nước mình trước. Trước khi biết cái hay cái dở của người, phải biết cái hay cái dở của mình đã.” Chúng ta sẽ khai triển câu nói này trên ba bình diện: Tư duy tích cực cá nhân, văn hóa quốc gia trong kinh tế toàn cầu hóa, và chính sách giáo dục phát triển văn hóa.
waterpuppet
Tư duy tích cực cá nhân

Trên bình điện tư duy tích cực, trước đây chúng ta đã nói đến khái niệm “thuộc về” (sense of belonging) . Ta càng cảm thấy ta “thuộc về” thế giới mình đang sống, ta càng tư duy tích cực. Nguời không cảm thấy mình thuộc về thế giới mình sống thường bị bệnh trầm uất.

Mà cảm tưởng “thuộc về” tùy thuộc vào yêu thích của ta với mọi người, mọi vật quanh mình. Nghĩa là, nếu ta là người Việt, ta càng dễ tư duy tích cực nếu ta càng yêu mến non sông đất nước, văn hóa nghệ thuật Việt. Người Việt sống trên đất Việt mà không thích những cái gì Việt thì nhất định là không thể tư duy tích cực được, vì sống như thế sẽ có cảm tưởng như đang ở tù.

Mà muốn yêu điều gì thì ta phải làm quen và hiểu rõ nó một tí. Ta không thể nào thích baseball nếu ta chẳng hiểu gì về baseball cả. Không cần phải biết chơi, nhưng ít ra phải hiểu luật chơi thì mới có thể thưởng thức trận bóng.

Văn hóa cũng thế. Phải biết thì mới yêu được. Chỉ có điều là chúng ta cứ lầm tưởng là nếu mình là người Việt thì đương nhiên mình đã biết văn hóa Việt rồi. Có thì cũng có đó, nhưng đôi khi xét lại thì chỉ mới được lớp da mỏng dính bên ngoài.
tranhdongho
Đây là một số căn bản mình nghĩ là chúng ta cần biết:

* Một số nghĩa lýsâu sắc trong huyền sử Việt: Lạc Long Quân-Âu Cơ, Trọng Thủy Mỵ Châu, Phù Đổng Thiên Vương, bánh dầy bánh chưng, An Tiêm và quả hưa hấu v.v… Khi nhỏ ta học như chuyện thần tiên, ngày nay ta cần đọc lại đề hiểu sâu sắc một vài tư tưởng triết l‎ý.

* Vài căn bản về tam giáo (Khổng, Phật, Lão). Các điều này đang có trong máu của ta và trong cách ta sống hàng ngày, cũng như trong bàng bạc tư duy của xã hội. Tốt hơn là ta nên biết chúng rõ hơn một tí để “biết mình.”

* Âm nhạc dân gian mọi miền

* Nghệ thuật dân gian mọi miền.

* Phong tục tập quán cổ truyền.

* Ca dao tục ngữ

* Văn hóa 53 dân tộc thiểu số anh em.

Đây chỉ là danh sách cách việc “cổ” và “thiểu” dễ bị bỏ rơi. Về các vấn đề ‘”tân” và “đại” có lẽ ai cũng biết hàng ngày, không cần nhắc đến.

Không cần phải giỏi, nhưng ít ra là cũng biết đủ để giải thích cho người khác, như là giải thích cho một người nước ngoài đủ rõ để người ta thích văn hóa mình. Biết mà chưa giải thích được, là chưa biết. Đây tạm là chuẩn mực để ta tự xét đoán mình đã tạm đủ chưa.
Nghe-thuat
Văn hóa quốc gia trong kinh tế toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa kinh tế càng cao thì ta càng phải sử dụng văn hóa riêng của ta rất nhiều trong phát triển và cạnh tranh kinh tế. Người các nước chắc không tốn tiền đến Việt Nam du lịch để nghe nhạc Mỹ hay nhạc Pháp, hoặc mua áo quần DKNY, Calvin Klein, hay Nike.

Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam không thể xuất cảng tốt nếu xem cứ như hàng Trung Quốc. Âm nhạc Việt Nam không xuất cảng được nếu nghe như nhạc Jazz.

Điều đầu tiên, nếu không là duy nhất, để sản phẩm của ta nỗi bật trên sản phẩm các nước là nó phải KHÁC. Mà cái khác tự nhiên nhất là từ văn hóa nghệ thuật quốc gia mà sinh ra. Nếu một cái ly có vài hình vẽ không giống Tàu không giống Tây, nói chung là “không giống ai,” thì đó là cái ly người ta mua về để chưng trong tủ kiếng. Bằng không thì nó chỉ là cái ly thường rẻ mạt như nghìn cái ly khác.

Thi ca nếu có hương vị Việt Nam, lại mang chiều sâu con tim vượt biên giới, đó mới là loại thi ca có thể xuất cảng.

Nhà hàng của bạn nếu trang trí dân gian Việt Nam một tí, nhưng sản phẩm và dịch vụ cao, lại có màn nhạc cổ truyền sống, thì có lẽ là thu hút du khách nước ngoài hơn là nhà hàng trang trí theo Tây và chơi nhạc Mỹ.

Thế giới đánh nhau ì đùng, viết sách về tư tưởng hòa bình của nhà Phật thì xuất cảng được hơn là viết triết lý tây phương (Chúng ta là thầy triết đông, nhưng là học trò triết tây).

Nếu chơi Nhạc Jazz thì âm hưởng của nó phải được người ta gọi là Vietnamese Jazz, như là Latin Jazz cho Nam Mỹ, thì mới có thương hiệu để cạnh tranh xuất cảng.

Tóm lại, thế giới càng thu nhỏ vì toàn cầu hóa, ta lại càng cần vững mạnh văn hóa nghệ thuật quốc gia để cạnh tranh kinh tế.
vovinam
Chính sách giáo dục phát triển văn hóa

Hiện nay, việc phát triển văn hóa hầu như nằm ngoài quyền hạn và tầm nhìn của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. Và giáo dục trở nên rất nghèo nàn về văn hóa nghệ thuật dân tộc. Chương trình giáo dục nên bỏ bớt những giờ học không cần thiết và thay vào đó giờ văn hóa nghệ thuật dân tộc.

Các Đại Học nên có nhiều môn về triết lý, văn hóa, nghệ thuật dân tộc, như là môn nhiệm ý (elective course) cho sinh viên, dù bất kỳ khoa nào, cũng có thể lựa chọn.

Chúng ta cần phải có cái nhìn tổng thể về văn hóa. Văn hóa không chỉ để trình diễn trên TV hay nhà hàng cho du khách. Văn hóa là con người. Con người biết dùng cái mình có sẵn để phát huy nó thành sức mạnh, trong đời sống riêng của mình cũng như trên chính trường và thương trường thế giới.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright TDH, 2009
www.dotchuoinnon.com
Permission for non-commercial use

Hãy tự tạo cơ hội

Chào các bạn,

“Cơ hội” là hai chữ quan trọng nhất trong kiến trúc xã hội. Tất cả mọi người trên thế giới đều muốn có một xã hội bình đẳng, dù là ta nói đến triết l‎y’ nào hay ly’ thuyết chính trị nào. Nhưng nếu xem kỹ thì nguời 75 kg phải mạnh hơn người 40 kg, người giỏi toán phải khác người dốt toán, người siêng năng thì phải khác người lười biếng. silhouettesREV Làm thế nào ta có thể có một xã hội bình đẳng với nhiều khác biệt cá nhân như thế? Thưa, ta dùng khái niệm “cơ hội”. Một xã hội bình đẳng là một xã hội cho mọi người một cơ hội đồng đều để thăng tiến. Còn việc sử dụng cơ hội đó hay không là quyền của người đó.

“Bình đẳng cơ hội” (equal opportunity) là khái niệm nền tảng nhất, trên đó chúng ta có thể một xây một xã hội tốt đẹp của chúng ta. Nhưng bây giờ, ta hãy tạm rời xa các khái niệm lớn lao về xã hội chính trị học, để đưa “bình đẳng cơ hội” về với chính mình, với con người cá nhân của mình. Làm sao mỗi người chúng ta có thể tận dụng tối đa khái niệm bình đẳng cơ hội này để giúp ích chính mình?

Chúng ta hay dùng từ “tìm kiếm cơ hội” để diễn tả cách ta có được cơ hội. Điều này đúng trên mức “thấy được” (visible). Nhưng ở mức độ “không thấy được” (invisible) thì cơ hội tự tìm đến với ta nhiều hơn là ta đi tìm, nếu không đến tận tay thì cũng đứng thường xuyên mấp mé ngoài cổng. Nhưng, điều đó chỉ có thể xảy ra nếu ta biết cách thu hút cơ hội, để cơ hội chạy theo ta. Đó cũng là điều mà ta gọi là “Tự tạo cơ hội.”

Cơ hội thường đi theo mình nếu mình có 3 điều: (1) tài, (2) bạn và (3) danh tiếng. Ấy chết, các bạn đừng có vội: “Tưởng gì chứ điều đó thì em biết rồi. Chỉ có một nỗi là em không có tài, ít có bạn, và chẳng có tiếng.” Không sao, ta sẽ tìm cách tạo ra 3 điều đó.

1. Tài: Chữ tài này mình dùng vắn tắt thôi, chứ nghĩa nó sâu và rộng hơn. Tài ở đây có nghĩa là (a) mình biết làm một việc gì đó, (2) mình làm nó rất hay, và (3) mình đáng tin cậy trong việc đó.

Ví dụ: Bạn biết đổ bánh xèo rất ngon, ai ăn cũng phải mê đến nỗi ăn xong là ôm bụng rên vì ăn quá tải. 🙂 Và thỉnh thoảng có người có lễ tiệc đặt bạn làm bánh xèo tại nhà họ, làm và ăn ngay trong buổi tiệc, thì bạn luôn luôn sẵn sàng cho một buổi tiệc tốt—không có chuyện đến giờ chót chạy đến xin lỗi: “Chị ơi em quên mất là ngày hôm đó em phải dự đám cưới của con nhỏ cháu.” Hmm… nếu đã hứa làm thì làm. Bỏ đi đám cưới và thực hiện lời hứa. (Nếu đã lỡ hứa với cả hai, thì… bạn có vấn đề lớn 🙂 ).

Trong chữ tài, chữ “đáng tin cậy” chiếm hết 100%. Nó vừa có nghĩa là làm giỏi và làm đúng lời hứa.
banner-tfd-web1
• Nhưng nếu mình chẳng có tài gì hết thì sao? Thì đi theo những người biết nghề để học nghề. Cách xin học dễ nhất là xung phong giúp người ta một tay mà không cần tiền công, chỉ để học nghề. Cách này thì bảo đảm là cách học nhanh nhất, vì người được mình giúp cũng rất cố để “trả nợ” cho mình.

Lúc mình đang học trong trường luật ở Mỹ, một ngày nọ đứng đợi xe bus bên cạnh một ông già, nói chuyện vẩn vơ với ông. Mình hỏi ông làm việc ở đâu. Ông ấy nói, “Tôi là chánh án tòa án ở đây.” Mình nói, “Ồ hay quá, tôi đang học luật. Ông có việc làm cho tôi không ?” Ông nói, “Việc thì luôn luôn có, nhưng tôi không có tiền. Chính phủ không cho tôi ngân sách để thuê sinh viên luật.” Mình nói, “Tôi không cần tiền. Tôi chỉ cần làm việc cho ông để học nghề.” Thế là mình có được loại kinh nghiệm ít sinh viên luật có—học cách làm quyết định và quyết định các vụ kiện cho ông chánh án—và được thêm vài hàng rất hấp dẫn trong resume của một sinh viên mới ra trường.

* Trong thế giới chính trị và thương mãi có một tài rất hiếm và rất có giá trị mà chẳng cần tài năng gì nhiều cả, đó là tài làm phụ tá. Người nào có được khả năng nghe đến đâu hiểu đến đó, chưa chắc hiểu thì hỏi lại cả hai ba chục lần cho đến khi hiểu, và mình làm bất cứ điều gì sếp của mình cũng biết, thì người đó là phụ tá vô giá, bởi vì sếp có thể giao việc cho mình và đi ngủ mà không có ác mộng. Đó là người mà sếp có thể gọi là my alter-ego (con người kia của tôi).

2. Bạn: Càng có nhiều bạn thì càng có nhiều người quảng cáo không công dùm mình. Quảng cáo trên TV chẳng ăn thua gì so với quảng cáo miệng không công. Nhà sản xuất tốn bao nhiêu tiền quảng cáo thì chẳng mấy người tin và để y’, nhưng nếu bạn mình nói cho mình biết mới khám phá ra tiệm này bán áo quần rất đẹp và rẽ, thì chắc là cuối tuần này mình sẽ ghé vào ngay.

Nhưng dĩ nhiên là bạn mình chỉ quảng cáo cho mình nếu bạn mình tin vào tài của mình—tức là tin rằng mình làm tốt và đáng tin cậy. Nếu bao nhiêu năm quen biết nhau mà lời nói của mình không đáng tin cậy, nói điều gì ra các bạn cũng nghĩ: “Bà này mà nói 10 thì may ra được 3 là thật và đúng” thì hỏng bét. Cho nên cách sống hàng ngày làm cho bạn bè chung quanh phục–tức là cho rằng mình đáng tin cậy–là cách hay nhất để có một mạng lưới thân quen quảng cáo không công trường kỳ.
cơhội
3. Danh tiếng: Danh tiếng phần lớn là do bạn bè kháo nhau. Một phần nữa là do trưng bày sản phẩm. Dĩ nhiên cách dễ nhất để trưng bày là trưng bày mà không tính công trưng bày. Ví dụ: Nếu trong trường có liên hoan, xung phong đổ bánh xèo cho trường không công (trường chỉ tốn tiền mua thực phẩm gia vị), đó là cách trưng bày sản phẩm cho cả mấy trăm hay mấy nghìn người.

Víết bài gửi cho báo, nhất là các vấn đề báo không thể có được. Ví dụ: Viết về di tích lịch sử nhỏ nào đó nơi mình đang ở, thì tổng biên tập báo chắc là cũng mê, vì chính anh ta cũng chưa hề nghe đến. Những điều nhỏ ở địa phương của mình chính là lợi thế của mình.

Ngày xưa thì ít có cơ hội, ngày nay ta có đủ loại báo và websites. Có nhiều websites rất có uy tín, nếu bài của mình được post lên đó là mình sẽ có thêm uy tín và một vài hàng trong resume. (Bài của mình trên ĐCN đã được nhiều báo trong nước đăng lại. Các bạn chỉ cần Google tên mình thì sẽ thấy. Không thể coi thường các nơi post không công được. Bạn có post bài vào website của Ngân Hàng Thế Giới cho cả thế giới đọc thì đó cũng là một site không công. Các website thiện nguyện xã hội luôn luôn là site không công).

Giả sử là bạn sắp mở tiệm làm bánh xèo, mời vài cây bút của ĐCN đến nhà ăn bánh xèo, biết đâu lại chẳng có người mê bánh xèo của bạn đến mức là tiệm bạn chưa mở đã viết bài xúi mọi người đi ăn? (Chúng ta đã biết là anh Trần Bá Thiện sẽ xung phong đi ăn đầu tiên).

• Nếu chúng ta chủ động xây dựng tài năng, bè bạn, và danh tiếng như thế, thì cơ hội luôn luôn lấp ló ngoài cửa nhà. Nhiều khi chưa kịp xin việc đã có người mời đi làm.

Thế giới ngày nay có hai điều lợi cho cơ hội: Thứ nhất, tự do kinh doanh. Thứ hai, Internet. Nếu bạn biết tận dụng hai điều này để gia tăng cơ hội cho mình, thì bạn có thể làm được rất nhiều việc, ở bất cứ lãnh vực nào—xuất bản một quyển sách hay mở tiêm bán bánh xèo.

Chúc các bạn thành công.

Mến,

Hoành

© copyright TDH, 2009
www.dotchuoinnon.com
Permission for non-commercial use

Chiến lược thành công

strategy
Chào các bạn,

Nhiều người chúng ta có vấn đề này. Khi nào cũng thấy mình có đủ mọi nhược điểm, thiếu thốn, bất toàn, khi nào cũng phải cố gắng hết sức để cải tiến, và càng cố gắng thì càng thấy mình dở mình dốt, và càng tuyệt vọng.

Và nếu nói đây là mẫu người tiêu cực thì có gì đó bất ổn. Làm sao những người chiến đấu tận lực cả đời cho mình khá lên, cho xã hội khá lên, lại là tiêu cực được? Không có l‎ý.

Mẫu người này, tiếng Anh có một từ là “too demanding”, đòi hỏi quá đáng trên chính mình, và trên những người chung quanh mình. Đây là những người có tiềm năng lãnh đạo rất cao, nếu có “chiến lược phát triển” có lý hơn một tí. (Mình cố tình dùng từ “chiến lược” vì chúng ta sắp vào phương cách nhìn một cách tổng thể về chính mình để phát triển mình theo một “chiến lược” hiệu quả nhất).

• Đầu tiên chúng ta phải xác định một tiền đề căn bản là: Cải tiến mình, làm cho mình khá hơn, luôn luôn là điều tốt, hay, và tích cực.

Nhưng “cải tiến mình” là cải tiến gì?

• Trước hết, có một mức tối thiểu để làm người, chúng ta không thể xuống thấp hơn—không giết người, không trộm cắp, không dối trá, không tà dâm, không say sưa. Ta nhận thấy, đây là các điều bắt đầu với chữ “không”, vì tự chúng là tiêu cực, là xấu, ta phải “nói không” với chúng. Đối với năm quy luật căn bản này thì mình phải tuân theo, vì xuống dưới mức đó là không chấp nhận được.

strategy1
• Cao hơn mức này, thì có hàng triệu thứ chúng ta có thể tăng tiến hàng ngày—giỏi yêu người, giỏi ngăn nắp, giỏi toán, giỏi luận l‎ý, giỏi văn, giỏi truyền thông, giỏi tổ chức, giỏi quản l‎ý, giỏi…..

Vâng, có “hàng triệu” thứ để chúng ta “có thể” tăng tiến hàng ngày. Nhưng hai từ mấu chốt ở đây là “hàng triệu” và “có thể”.

“Hàng triệu” tức là rất nhiều. Ta không thể ôm đồm hết cả triệu được. Đừng ôm đồm quá đáng.

“Có thể” là được phép, có khả năng, nhưng không bắt buộc. Mình muốn làm thì làm, không muốn thì thôi, chẳng thiên địa quỷ thần người vật nào ép mình cả.

Vấn đề của những nguời “đòi hỏi quá đáng” (too demanding) là ôm đồm hàng triệu điều, và cứ bắt mình “phải” giỏi, “phải” hoàn toàn, tất cả. Như vậy thì ta sẽ sống một cuộc đời rất nhiều đòi hỏi, nhiều stress, và nhiều tuyệt vọng về sự bất toàn của mình.

Và đây là “chiến lược” thua cuộc, vì ai trong chúng ta cũng thấy là muốn mình hoàn hảo trong cả triệu chuyện là việc không thể làm và, quan trọng hơn nữa, là không cần làm. Để làm chi, ngoài việc cho mình thêm stress?

• Mình tạm thời lấy một ví dụ về cạnh tranh thương mãi để minh họa thì các bạn sẽ thấy rõ hơn. Bây giờ bạn dự tính mở một tiệm phở. Có “hàng triệu” thứ bạn “có thể” cạnh tranh với các tiệm khác—tầm cỡ lớn nhỏ, trang trí, địa điểm, máy móc, âm nhạc, đầu bếp, các món phở khác nhau, mùi vị ngon, tiếp viên, giá cả, các loại nước uống, “văn hóa” tiệm, v.v…

Đây là những điều bạn bắt buộc phải quan tâm khi mở tiệm. Nhưng chắc chắn là bạn không thể đứng đầu trong mọi thứ được—đã có những tiệm lớn, đã có những tiệm trang trí rất hay và rất tốn tiền, mấy địa điểm cực tốt bạn không đủ tiền để vào, v.v… Nói chung là nhìn vào điểm nào bạn cũng thấy có người hơn mình rồi. Cho nên nếu chiến lược gia của tiệm mà ngó vào các điểm yếu của tiệm thì đương nhiên là sẽ cố vấn: “Không được anh ơi. Cái gì mình cũng thua người ta. Làm không được đâu.” Như vậy là chưa đánh đã thua.

competition
• Chiến lược đúng là không chú trọng vào cái yếu của mình (có quan tâm, nhưng không chú trọng, không tập trung tư tưởng và năng lực vào đó), nhưng tập trung năng lực vào một hay hai điểm mạnh nhất của mình mà thôi. Ví dụ: Giá rẻ nhất–em không chồng con, em không chi phí nhiều, em có thể hy sinh xuống giá rất rẻ, lấy số đông làm lời.

Hay, ví dụ khác, “văn hóa” đặc biệt—tiệm này có “văn hóa sinh viên”, tiếp viên chỉ toàn SV, đầu bếp cũng đang là SV, nhạc và trang trí kiểu SV, có cờ tướng và cây ghita cũ rích cho SV, có wifi để SV dùng laptop, không hút thụốc để nữ SV thoải mái, không đuổi khách để SV có thể la cà, SV có thể ăn ký sổ, v.v…

Thế thì cơ hội thành công rất cao, mặc dù xét ra thì trong rất nhiều điểm chi tiết tiệm vẫn thua các tiệm khác.

Chiến lược thành công là chiến lược tập trung năng lực vào việc khai thác một hai điểm mạnh của mình, chứ không tiêu tán năng lực vào việc cố vực một triệu điểm yếu của mình.

• Cuộc đời mình cũng vậy, mình có vài sức mạnh, cứ tập trung vào phát triển nó. Các điểm yếu, không sao. Đừng điểm nào quá yếu đến nỗi thành tàn tật là được rồi. Mình ghét toán, càng học càng tù mù, thì việc gì phải bổ đầu mình ra để học giải phương trình bậc hai? Có ai ở đời cần nó ngoài một số rất ít các ngành nghề chuyên môn. Thay vì cứ tự chửi mắng mình là mình dốt toán, thì hãy vui mừng cám ơn Thượng đế đã cho mình dốt toán để cho mình tài nấu ăn siêu hơn mức trung bình. Tập trung vào nấu ăn để thành cao thủ quốc gia về nấu ăn hay chủ một nhà hàng khét tiếng một ngày nào đó. Sống như vậy vừa thoải mái, vừa vui, vừa nắm chắc thành công trong đời.

“Tập trung năng lực vào một hay hai điểm mạnh nhất” đó là chiến lược sống thành công, và thương mãi thành công.

Cứ vui vẻ với hàng triệu cái yếu và chỉ một hai cái mạnh của mình. Tập trung năng lực vào một vài cái mạnh, đừng tiêu tán năng lực vào hàng triệu cái yếu.

Sống với chính mình cũng thế. Giúp học trò con cái phát triển cũng thế. Làm thương mãi cũng thế. Làm chính sách quốc gia để thành công trên thương trường và chính trường quốc tế cũng thế.

Chỉ có một loại chiến lược thành công: Chiến lược tập trung năng lực vào một hai điểm mạnh của mình.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Chú thích: Bài này phát sinh từ đối thoại giữa mình, Lizzy và Đức Minh trong bài Tư Duy tích cực làm được gì cho ta ?. Mình biên tập lại một tí để nó thành một bài mới, chia sẻ với các bạn không thấy nó trong sidebar.

© copyright TDH, 2009
Permission for non-commercial use

Ngôn ngữ thân thể–Mới gặp nhau

Phụ nữ học bắt tay
Phụ nữ học bắt tay

Chào các bạn,

Bắt đầu từ hôm nay chúng ta sẽ đi sâu vào thân ngữ, thỉnh thoảng một bài. Bài đầu tiên chúng ta đã nhắc đến thân ngữ là Ngôn ngữ của cơ thể , sau đó là một ít trong bài Phỏng vấn tuyển việc. Chúng ta sẽ bắt đầu dùng từ “thân ngữ” song song với “ngôn ngữ thân thể”, vì “ngôn ngữ thân thể” là một cụm từ quen thuộc, nhưng quá rườm rà. Hy vọng mọi người sẽ dần dần quen với từ “thân ngữ” ngắn gọn hơn. Trong bài này, chúng ta nói đến thân ngữ sữ dụng trong buổi gặp mặt đầu tiên.

Hôm nay, bạn đóng vai chị Xuân, giám đốc tiếp thị của công ty quảng cáo Rền Vang đến gặp ông Cường, giám đốc điều hành công ty đồ trang trí nội thất Nhà Đẹp , tại văn phòng của ông. Cuộc họp đã được lên lịch cho 9 giờ sáng ngày hôm nay. Nhiệm vụ của bạn là tìm hiểu nhu cầu quảng cáo của Nhà Đẹp và trình bày một số đề nghị quảng cáo. Bạn và ông Cường chưa gặp nhau bao giờ.

• Nếu văn phòng thường mở cửa 8 giờ sáng, thì 9 giờ sáng là giờ làm việc mạnh nhất. Lúc này bụng còn no nhờ ăn sáng, và cũng đã có được 1 tiếng đồng hồ để “nóng máy” rồi, nên làm việc rất tốt. Giờ sau khi ăn trưa cũng tốt, nhưng giờ hẹn trước giờ nghỉ trưa, hoặc trễ vào buổi chiều khi mọi người đã mệt, thì không nên.

• Bạn nên đến trước 5 phút, và nói với cô thư ký của ông Cường là bạn có hẹn 9 giờ, bạn chỉ đến sớm một tí để tránh kẹt xe mà thôi. Mục đích là để cô thư ký và ông Cường không cảm thấy bị bạn hối thúc, trong khi thầm cảm ơn bạn đã rất quan tâm vào cuộc họp. Nhớ là nên lễ độ với cô thư ký. Trong việc nhận xét người, các giám đốc luôn luôn coi trọng ý kiến của thư ký vì “Hmm… bà ấy xem ra rất lễ độ với mình, nhưng thực ra xem thường những người không quyền hành.”

Nếu cô thư ký mời trà, thì nên cám ơn là không khát, để cô ấy khỏi phải pha trà cho bạn (Thư ký không mấy say mê làm việc vặt cho người lạ). Trong khi ngồi chờ, đừng cắm cúi đọc sách, nhưng quan sát khung cảnh trong phòng, bởi vì các quan sát này có thể cho bạn ánh sáng sáng tạo, hơn nữa nó cũng làm cho bạn sống động và thân thiện hơn. Gặp bất cứ người nào đi ngang qua cũng gật đầu khẻ và mỉm cười, vì bạn không biết ai sẽ dự phần trong quyết định ký hợp đồng. Hơn nữa, biết đâu một trong những người đi qua là ông Cường.

• Khi ông Cường ra, theo lễ nghĩa đông phương, thì bạn nên nhường người chủ nhà (và nhất là người lớn tuổi hơn) chìa tay ra trước, rồi bạn mới chìa tay ra để bắt. Tuy nhiên nếu người ấy có vẻ như không bắt tay, thì bạn nên chủ động đưa tay ra bắt, vì bạn phải chứng tỏ là bạn có bản lĩnh làm quân sư, và vì bắt tay thường có hiệu lực kéo người ta lại gần nhau hơn. Nếu là ông Cường là người tây phương (Mr. Smith), thì bạn nên chủ động đưa tay ra trước.

Bắt tay

Chỉ bắt một tay lúc này, nhất là giữa hai người Việt, và nhất là khi bạn là phụ nữ. Tí nữa ta sẽ nói khi nào có thể bắt hai tay, nhưng lúc này là lúc phải một tay. Tay bắt chặt, miệng mỉm cười, mắt nhìn vào mặt hay tốt nhất là vào mắt ông Cường, hơi gật đầu và khom lưng (chỉ một chút xíu) thì tốt. Khi gật đầu và khom lưng (một tí) thì mắt liếc xuống theo đầu, vì gật đầu khom lưng nhưng mắt cứ nhìn vào mắt đối phương là mắt của con nhà võ, không tin đối thủ, không rời mắt đối thủ một giây. Đợi ông Cường buông lỏng tay trước khi bạn buông, để tỏ lòng thân thiện. Đừng buông tay trước.

• Vào phòng, ta là khách thì cái gì cũng để chủ nhân đi trước; điều này đúng ở mọi nơi trên thế giới. Đừng ngồi sớm. Đợi khi người chủ bước đến ghế ngồi của ông ta, và vì là chủ, ông ta sẽ mời bạn ngồi trước, lúc đó mới nên ngồi. Và nếu ông ta mời trà, lúc đó nên, “Cám ơn anh. Cho em xin.” Mời trà mà từ chối là rất thất lễ, dù là người ta hoàn toàn không nghĩ thế thì trong tiềm thức người ta cũng có thể cảm thấy bị “chối bỏ.” Hầu như trong tất cả các nền văn hóa trên thế giới, khi người chủ mời các nghi lễ thân thiện, như trà nước, người khách không nên từ chối. Trong một số nền văn hóa, từ chối là một xúc phạm rất lớn. Lúc này, ông Cường có thể sẽ gọi cô thư ký của ông pha trà cho bạn, nhưng thực ra cô ấy pha trà cho ông chủ cô ấy, chứ không phải cho bạn, cho nên cô ấy sẽ rất vui vẻ pha trà.

• Tất cả các lối xưng hô ta không dùng hàng ngày mà chỉ dùng trên các công văn đọc rất chán, như tôi, ông, giám đốc, thưa ông, v.v… là ngôn ngữ không thể dùng trong giao tiếp hàng ngày. Văn hóa Việt Nam là văn hóa xưng hô gia đình — anh, chị, em, cô, chú, dì, cháu, mình, v.v… Tùy tình thế mà lựa chữ. Tuy nhiên, nếu gặp người lớn tuổi hơn nhưng không chắc là phải gọi là gì, thì cứ mạo hiểm “chị” hoặc “anh” là chắc ăn nhất, vì thà là lầm từ chú cô xuống anh chị, hơn là lầm anh chị thành cô chú. Gọi bằng chức vị, như là “Chào ông giám đốc”, theo ý mình, là người rất kém ngoại giao, không nên cho làm tiếp thị.

Ngay cả khi gặp người ngoại quốc mới lần đầu, mình cũng chỉ nên chào bằng tên họ, như là “Good morning, Mr. Smith. How do you do?” chứ không nên dùng chức vị. Nếu bạn nói tiếng Anh, thì nên có “How do you do?” trong câu chào như trên. Đây là cách chào trịnh trọng và quí phái, không phải là câu hỏi, nên không có câu trả lời. Ví dụ: Ông Smith và cô Brown gặp nhau. Ông Smith chào, “Good morning, Miss Brown. How do you do?” Cô Brown chào lại, “Good morning, Mr. Smith. How do you do?” Ngay cả khi người ta không nói “How do you do?” mình cũng có thể nói được.

Và khi một người ngoại quốc chào mình bằng tên họ, “Good morning, Ms. Trần,” mình nên cho phép họ gọi mình bằng first name cho thân mật, “Good morning, Mr. Smith. My first name is Xuân. Please call me Xuân, just plain Xuân.” Ngay khi người ta gọi mình bằng first name, nhưng lại có Mr. hay Miss trước, thì mình cũng có thể dùng câu trên để cho phép họ gọi mình chỉ là “Xuân” thân mật. Nhưng đừng tự động gọi họ bằng first name, cho đến khi họ cho phép mình rõ ràng. Và cũng đừng nên hỏi “May I call you by your first name?”

• Trong các cuộc họp đông người với quan chức Việt Nam có một lễ nghi đặc biệt, là mới gặp nhau bắt tay xong, hoặc ngồi xuống xong, là mọi người trao đổi danh thiếp. Điều này có lẽ sinh ra từ tiện nghi—phải làm thế thì mọi người mới biết ai là ai. Tuy nhiên, trong những cuộc họp ít người không nên làm thế. Dùng thời gian quý hóa “ban đầu” để nói chuyện “hâm nóng” một tí như là “Cám ơn anh. Em biết anh rất bận. Anh dành thời giờ cho em như thế này thật là quí hóa.”

Bắt tay

• Ngồi thì nên ngồi thoải mái, vắt chân thường rất tốt, nhưng không bao giờ nên tựa ra sau như là “tôi muốn tránh xa ông”, mà nên chồm người về phía trước theo kiểu “tôi muốn gần ông, tôi muốn chăm chú nghe ông nói.”

• Dù là loại họp nào thì mình cũng phải quan tâm đến điều người ta cần–nhu cầu gì, khó khăn gì, giới hạn gì–rồi sau đó mới tìm cách giải quyết được. Điều thân chủ cần trước tiên luôn luôn là một quân sư biết lắng nghe và hỏi. Chưa nghe kỹ và hỏi kỹ, mà đã cho câu trả lời và giới thiệu sản phẩm, thì đó là bán hàng rong, chứ không phải là việc của quân sư. Tất cả mọi thân chủ chỉ thích một loại quân sư—loại nghe kỹ và hỏi kỹ.

• Nếu thân chủ nói một câu có vẻ thử thách, “Sao em thấy trẻ quá vậy? Em ra trường lâu chưa?” thì trước hết là phải để ý rằng người bị thử thách hay rung đùi, hoặc nhịp bàn tay, hoặc vân vê các ngón tay, hoặc mỉm cười lạnh lùng, hoặc liếc mắt xuống đất. Phải tránh các điều này. Tập nghe các câu thử thách một cách tích cực, với ý nghĩa, “Anh muốn biết thêm một tí về em. Em nói đi.” Và mỉm cười trả lời rất vui, “Cám ơn anh. Em đi đâu cũng được khen trẻ. Em rất thích. Thực ra em ra trường cũng … năm rồi, và em đã làm một số dự án lớn cho FPT, Canon, Sony. Mấy dự án nầy đều có trong website của công ty em. Và em cũng không làm một mình anh ạ. Lại có cả một đội làm việc với em trong mọi dự án.”

• Khi nói chuyện thì để ý đến thân ngữ của thân chủ. Nếu ông ta không chú ý nhìn mình, mà lại liếc ngang liếc dọc, nhất là nhìn đồng hồ, thì hãy ngưng mọi chuyện và hỏi, “Hình như anh đang đợi gì đó ạ? Em có làm phiền anh không?” Câu này có rất nhiều ý. Thứ nhất, em xin lỗi nếu em đã phiền anh. Thứ hai, em rất ý tứ. Thứ ba, khi em nói thì anh phải lắng nghe, nếu không thì em không nói nữa. Thứ tư, nếu lúc này anh không nghe em được, thì em muốn biết để em xin cái hẹn khác, hoặc nói chuyện với với phụ tá của anh vậy. Dù là ý nào đi nữa, thì đó là một xi-nhan rất đứng đắn và chuyên nghiệp.

• Trước khi đứng dậy ra về, nhớ trao đổi danh thiếp. Nếu thân chủ đứng dậy bước ra, hãy chờ ông ta đến bước cửa trước, mình theo sau. Và đến cửa, thì người chủ thường đứng đó, mời mình bước ra cửa trước, lúc đó hãy bước ra. Các cử chỉ này chứng tỏ là, “Tôi thích ở lại đây càng lâu càng vui.”

• Cái bắt tay cuối cùng có thể như là cái bắt tay ban đầu. Nhưng bây giờ đã thân mật hơn được một tí, ta có thể dùng cách bắt hai tay rất hay của người Việt Nam—bắt một tay như bình thường, chắc chắn, và dùng bàn tay kia đặt lên trên chổ hai bàn tay đang bắt, rất ấm áp. Cách này nếu dùng với người tây phương thì cực hay. Dùng với người Việt cũng rất tốt, và dùng được cho cả người lớn hơn và nhỏ hơn.

Không nên, tay này bắt và tay kia nắm cổ tay người nọ. Cách bắt tay đó chỉ có thể dùng với bạn thân, hoặc là người dưới mình. Nếu thân chủ bắt tay kiểu đó, có nghĩa là ông ta xem mình như người dưới ông ta. Đó chưa hẳn là điều xấu, vì nó có thể là “em sẽ làm việc cho tôi” hay “tôi xem em như em của tôi.” Cứ theo hướng đó mà suy nghĩ.

• Nếu gặp người Thái Lan, thay vì bắt tay, nên chắp tay cúi đầu theo lối nhà Phật thì tốt hơn.

Nếu gặp phụ nữ Trung Đông, mà mình là đàn ông, thì nên hỏi trước: “May I shake your hand?” bởi vì Hồi giáo cấm phụ nữ bắt tay đàn ông. Và khi chào người Trung Đông, kể cả người không phải Hồi giáo, ta nên nói, “Assalamu Alaikum” (phát âm như tiếng Việt) (Bình an ở cùng anh), và người kia sẽ trả lời, “Wa alaikum assalam” (Và ở cùng anh).

• Dù là làm gì đi nữa, thì cũng nên nhớ câu “thần chú” đã nói trong bài Ngôn ngữ của thân thể: “Tất cả mọi điều ta làm ở bên ngoài đều phải được điều khiển từ trong tâm, thì mới có sức mạnh.” Trước khi vào gặp thân chủ, ta phải tập trung tư tưởng để nghĩ rằng, “Đây là người muốn mình cố vấn giúp đở, nhiệm vụ của mình là xem ông ta như là chủ của mình, phải hiểu được tất cả những khó khăn của ông ấy để giúp ông ấy.” Tức là, xem như mình là phụ tá tay phải của thân chủ; đừng nghĩ mình là người bán hàng. Chính tư tưởng này sẽ điều khiển mọi lời nói và cử chỉ của mình, kể cả ngôn ngữ thân thể.

Chúc các bạn một ngày vui vẻ,

Mến,

Hoành

Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use

Lý luận phân tích: Tổng hợp

Nhà lego
Nhà lego
Chào các bạn,

Ta đã lược qua phân tích, hôm nay ta nói đến gian đoạn cuối của tiến tình phân tích, tức là tổng hợp. Tổng hợp có thể tạm gọi là “kết luận.” Đó là câu nói mà người ta hay nói trong cuối mỗi buổi hội thảo: “Tóm lại…”

Nhiều người thường tưởng lầm rằng tổng hợp là một loại suy luận khác với phân tích, nhưng thực ra nó là một phần của tiến trình phân tích vì, cũng như sau khi rã máy thì người kỹ sư phải ráp máy lại, người làm công việc suy tưởng phải tổng hợp tư tưởng sau khi đã phân tích. Nếu phân tích mà không tổng hợp, thì nó thường là nói nhăng nói cuội, mà ta hay thấy trong nhiều cuộc tranh luận.

• Tư tưởng hoạt động giống như các khối Lego mà trẻ em hay dùng để chơi trò chơi xây dựng—ráp các khối lego lớn nhỏ đủ màu thành nhà, xe, máy bay, tàu ngầm, và tất cả hình thù gì các em có thể tưởng tượng ra. Tổng hợp chính là mang những tư tưởng rời rạc mà ta có trong giai đoạn phân tích và ráp nó thành một sản phẩm. Sản phẩm đó có thể là một một kết luận về một sự thực, như ai có lỗi trong vụ này và lỗi nhiều hay ít ra sao, hay các nguyên do gây ra một cơn bệnh. Sản phẩm đó có thể có thêm đề nghị về các phương thức giải quyết vấn đề. Sản phẩm đó cũng cũng có thể là một mô hình hoàn toàn mới cho một dự án hoàn toàn mới.

Vấn đề rất nhiều người gặp phải là trong tiến trình phân tích họ đã đi qua hằng chục cây số đường quanh co, thu nhặt hằng ngàn mảnh vụn tư tưởng lớn nhỏ, và giờ đây trong đầu họ chỉ là một đống tư tưởng hỗn độn vĩ đại, không biết phải làm gì với những mảnh vụn đó. Và đây cũng là vấn đề ta thường gặp trên Internet, khi vài vị tranh luận từ Bangkok qua Paris, Moscow, Dubai, vô đến các rừng rậm Amazon, rồi ngưng ngang, sau khu đã đủ mệt và đã làm cho rất nhiều người khó chịu, và chẳng ai, kể cả người viết, có được kết luận gì hết, hay hiểu được gì hết.

• Nói thế để chúng ta thấy, tổng hợp, giai đoạn cuối cùng của phân tích, mới thực sự là sáng tạo. Các phân tích trước đó chỉ là khám phá và lượm nhặt. Tổng hợp là dùng những gì mình nhặt được để làm ra một sản phẩm mới. Vậy thì, điều quan trọng nhất của tổng hợp là ta muốn có sản phẩm gì. Ta muốn dùng các khối lego để xây cái gì—nhà, xe, hay máy bay? Ý muốn về một sản phẩm là chính là yếu tố quyết định tổng hợp. Nếu ta không biết ta muốn cái gì—theo kiểu lâu lâu thẩy một câu hỏi ra để có chuyện cãi nhau với thiên hạ–thì mọi phân tích đều chỉ tốn thời giờ vô ích.

Lâu đài Excalibur bằng lego
Lâu đài Excalibur bằng lego
Ví dụ về tệ nan mãi dâm, ta muốn gì trong tiến tình phân tích? Ta muốn viết một tờ trình lên thủ tướng về các nguyên nhân mãi dâm? Môt tờ tình vừa kể nguyên nhân vừa đề nghị giải pháp? Hay ta muốn viết một bài tấn công các quí vị đàn ông mua hoa? Hay một bài phê bình thái độ không công bình của xã hội về việc khắt khe với nữ giới và rộng rãi với nam giới về các vấn đề tình dục? Hay một bài kể tội công an? Hay kể tội chính quyền địa phương? Hay viết bài ủng hộ việc hợp pháp hóa kỹ nghệ mãi dâm? Hay đề nghị dự án hướng nghiệp cho chị em ta? Hay sửa đổi hình luật để chú trọng vào khách mua hoa hơn? Nói chung, ta có thể có cả hằng trăm mục đích khác nhau. Và dù là mục đích nào đi nữa, thì ta cũng chỉ dùng một nguồn nguyên liệu, đó là đống tư tưởng ta đã thu lượm được trong tiến trình phân tích.

• Vậy thì, các mảnh vụn tư tưởng mà ta tìm được trong tiến trình phân tích tự chúng không có ý nghĩa gì cả. Chúng chỉ có ý nghĩa khi được sắp xếp để phục vụ mục đích của tổng hợp. Ví dụ: Cùng một dữ kiện “mãi dâm càng ngày càng gia tăng”, người thì dùng nó để cổ vũ việc gia tăng ngăn chận mãi dâm, người lại dùng nó để cổ vũ việc hợp pháp hóa mãi dâm. Cả hai người này có mục đích gần chỏi nhau 100%, nhưng lại dùng cùng một dữ kiện để lý luận. Một khối lego tự nó chẳng có ý nghĩa gì cả–nếu dùng xây nhà thì nó là lego xây nhà, nếu dùng để xây cầu thì nó thành lego xây cầu.

• Bởi vì vậy, ta phải có mục đích trước, sau đó ta mới thực sự hiểu được nghĩa lý của tư tưởng. Ví dụ: Kho lưu trữ thống kê của nhà nước chẳng có nghĩa lý gì hết. Nếu ta dự định đọc tài liệu thống kê để tìm ra biện pháp gia tăng phát triển kinh tế, thì các thống kê sẽ sống dậy như một đoàn quân giúp ta phát triển. Ngược lại, nếu ta có chủ đích tìm thống khê để phê phán nhà nước bất tài, thì thống kê cũng sẽ đứng dậy giúp ta làm việc này.

• Hơn thế nữa, không phải là đợi đến khi phân tích xong, mà trong nhiều trường hợp, ta phải có mục đích của tổng hợp ngay cả trước khi phân tích. Ví dụ: Ta mở một cuộc họp cho một số viên chức các bộ để tìm phương thức ngăn chặn mãi dâm. Trong cuộc họp này, mọi người phân tích vấn đề với chủ đích ngăn chận mãi dâm, cho nên các phân tích về hướng khuyến khích mãi dâm, hay xa đề quá như vai trò mãi dâm trong các tôn giáo thời cổ sử, sẽ xem như nằm ngoài chương trình thảo luận (để khỏi tốn thời gian). Một cuộc họp như vậy sẽ không bị tốn thời gian nói lòng vòng quá nhiều, ngược lại nó cũng có thể giới hạn óc sáng tạo phần nào, vì nó giới hạn tự do “lang thang” của phân tích. Đây là quyết định quản lý, muốn dành thời giờ bao lâu cho phân tích “lang thang.”

Cá mập lego
Cá mập lego

• Dĩ nhiên ngưởi ta có thể để tư tưởng đi lang thang trong một tiến trình phân tích vô chủ đề và vô giới hạn về thời gian, và chẳng quan tâm đến tổng hợp hay không—khi nào nó đến thì đến. Cách suy tư này thường gặp trong các triết gia và thi sĩ (là các quí vị không biết quí thời gian :-)). Nhưng trong các vấn đề xã hội hằng ngày, ta cần một muc đích để tập trung tư tưởng và để quản lý thời gian. Vì vậy, mục đích của toàn tiến trình tư tưởng phân tích và tổng hợp thường được đặt ra ngay từ đầu.

• Thông thường trong thế giới thương mại, phân tích và tổng hợp thường được sử dụng như sau: (1) Trưởng nhóm gọi một cuộc họp để mọi người động não (brainstorm) về, chẳng hạn, sáng tạo một đồ chơi mới cho trẻ em 6 tuổi cho mùa giáng sinh tới. Trong cuộc động não này, chỉ có phân tích và không có tổng hợp. Thành viên tha hồ nói ra bất kỳ ý tưởng nào đến trong đầu, không cần biết đúng sai, tốt xấu. Hoàn toàn không có vấn đề định giá. Cứ nghĩ đến điều gì là nói ra, và ai nói ra điều gì mọi người khác ghi lại điều đó. Động não như thế có thể kéo dài nhiều buổi họp. (2) Bắt đầu làm tổng hợp đầu tiên, lấy ra giữa hàng chục đề nghị vài ba đề nghị có vẻ hay nhất, rồi tiếp tục động não (phân tích), tập trung vào các đề nghị đó. (3) Tổng hợp một lần nữa bằng cách định giá vài đề nghị còn lại để lựa ra đề nghị xem là tốt nhất. Rồi tiếp tục động não (phân tích) về đề nghị cuối cùng này. (4) Tổng hợp để viết lên một chương trình làm việc cụ thể để tạo ra sản phẩm mẫu đầu tiên.

• Nói chung là phân tích và tổng hợp nối tiếp nhau trong một tiến trình suy tư sáng tạo. Và tiến trình này thường được hướng dẫn bằng một mục tiêu đầu tiên. Tiến trình phân tích tổng hợp càng tiến xa thì mục tiêu đầu tiên càng được cụ thể hóa. Cho đến cuối tiến trình thì mục tiêu—là ngôi sao hướng dẫn tiến trình—lại được tiến trình làm cho cụ thể hơn và sáng sủa hơn. Có nghĩa là mục tiêu hướng dẫn tiến trình, nhưng tiến trình cũng hướng dẫn mục tiêu. Cả hai đều rất uyển chuyển trong suốt tiến trình sáng tạo.

Chúc anh chị một ngày vui vẻ.

Mến,

Hoành

Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use

Lý luận phân tích: Tại sao?

Why?
Why?

Chào các bạn,

Hôm qua chúng ta nói đến 6 câu hỏi căn bản của tiến trình phân tích lý luận: 5W1H—what, where, when, who, why và how. Hôm nay chúng ta sẽ bàn đến câu hỏi quan trọng nhất trong 6 câu này—Why? Tại sao?

Nhiều năm về trước, ngày nào cũng có một cô bé láng giềng bốn tuổi, tên là Jenny, vào nhà mình chơi. Cô bé này chỉ nói có một chữ “why”, cho nên mỗi lần nói chuyện với cô bé là một thử thách trí tuệ cực kỳ lớn. Chào Jenny. Why? À tôi muốn hỏi em hôm nay thế nào. Why? Vì tôi quan tâm đến em. Why? Vì em dễ thương. Why? Vì trời làm em dễ thương. Why? Vì trời thích làm như thế. Why? Hmm… hmm… cũng chẳng biết tại sao trời thích thế. Why? Hmm… vì chẳng nghe ông ấy nói gì. Why? Hmm… vì có gặp ông ấy đâu. Why? Chẳng biết cách gặp. Why? Chưa tìm ra cách gặp. Why? ….

Đại khái là các cuộc đàm thoại thường xảy ra như thế. Mình hay nói đùa lúc đó: “Cô bé này là Socrates tái sinh, hằng ngày vào nhà thử thách mình đây.” Ai đó đã định nghĩa triết gia là người nhìn cuộc đời với đôi mắt bỡ ngỡ của một bé thơ. Thật là chính xác! Bao nhiêu nghìn năm tư tưởng triết lý và khoa học của con người chung quy cũng bắt đầu bằng một câu hỏi—Tại sao? Tại sao tôi ở đây? Tại sao có trời? Tại sao có đất? Tại sao bệnh? Tại sao gầy? Tại sao béo? Tại sao em học giỏi? Tại sao em học dốt? Tại sao nước ấy giàu? Tại sao nước ta nghèo? Tại sao thế giới nhiều chinh chiến?

“Tại sao” là câu hỏi cốt lõi nhất của tư duy con người, vì nó là mặt trái của một đồng tiền cắc, mà mặt kia là định luật căn bản chi phối tất cả các hiện tượng khoa học, kinh tế, xã hôi, triết lý, tâm lý… của con người—liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả (the causal relationship, the relationship between cause and effect): Bất kỳ điều gì trên đời cũng có nguyên nhân của nó. Muốn sửa chữa hay thay đổỉ một tình trạng hay một vấn đề nào đó, ta phải biết rõ nguyên nhân đã sinh ra nó. Nếu không thì cũng như người bị mặt mụn vì gan yếu nhưng cứ mua calcium uống hằng ngày (cho khỏe xương).

Why!
Why?!!

Biết được cái gì là nguyên nhân của cái gì, không phải là một việc dễ. Hỏi các thầy thuốc thì biết ngay. Vì thế mà có thầy thuốc hay và thầy thuốc dở. Có 2 loại khó khăn trong việc tìm liên hệ nhân quả. (1) Thứ nhất là không thấy được nhuyên nhân. Rất nhiều khi ta nghe các bác sĩ nói, “Bệnh này thì chúng tôi đành bó tay vì không biết cái gì sinh ra nó.” (2) Thứ hai là lẫn lộn giữa nguyên nhân và hậu quả. Con gà có trước cái trứng, hay cái trứng có trước con gà? Giáo chức làm hỏng chính sách giáo dục, hay chính sách giáo dục làm hỏng giáo chức? Vấn đề lại càng phức tạp hơn khi nguyên nhân và hậu quả có thể ảnh hưởng hỗ tương trong một vòng tròn, như thường xảy ra trong các hiện tượng xã hội: Chính sánh có chỗ hơi yếu vì thế làm yếu giáo chức, giáo chức yếu làm chính sách càng tồi thêm, chính sách tồi tệ lại làm cho giáo chức càng thêm xuống dốc, giáo chức càng xuống dốc lại càng phá hoại chính sách. Cái vòng lẩn quẫn cay nghiệt này cứ xoay quanh người ta như một vòng tù và người ta không thể nào thoát ra được.

Rất thường khi ta lại bị choáng ngợp vì thấy có quá nhiều nguyên nhân cho một vấn đề, cho đến nỗi không biết giải quyết cách nào. Ví dụ, tệ nạn mãi dâm sinh ra vì các cô ít học vô nghề, các cô bị dẫn dụ, các cô bị bắt cóc bán, dễ làm ra tiền, khách mua dâm nhiều, khách mua dâm không bị trừng phạt, văn hóa kết án người bán nhưng không kết án người mua, đạo đức sinh lý của các ông thấp, công an bị các mạng mãi dâm mua, không có nơi thuê các cô làm việc lương thiện với mức lương sống được, v.v… Tìm ra được tất cả nguyên nhân, biết được nguyên nhân nào mạnh nhất, nguyên nhân nào yếu nhất, nguyên nhân nào xa, nguyên nhân nào gần, nguyên nhân nào cần gì để giải quyết… không phải là một việc dễ.

Tất cả mọi hiện tượng của con người—chính trị, xã hội, kinh tế, giáo dục, tâm lý, triết lý, văn hóa, nghệ thuật—đều có thể sửa đổi được theo hướng ta muốn nếu ta tìm ra đúng nguyên nhân, hay nói đúng hơn là tìm ra đúng liên hệ nhân quả. Và thực ra, mọi bất đồng của con người, thường thì cũng chỉ là những bất đồng về giải pháp—người này đảng này thì cho là giải pháp này đúng, người kia đảng kia thì cho là giải pháp kia đúng. Và các bất đồng về giải pháp thực ra cũng chỉ là bất đồng về phân tích liên hệ nhân quả–cái gì mới thực là nguyên nhân, và cái gì mới là nguyên nhân mạnh nhất.

Why huh?
Why huh?

Tất cả mọi điều này đến chỉ từ một chữ “tại sao?” Và tất cả các câu hỏi khác (chuyện gi? ở đâu? lúc nào? ai? thế nào?) thực ra là cũng chỉ hỗ trợ cho “tại sao?”. Ví dụ: Anh nói với tôi lúc 5 giờ chiều (when) anh đang chơi bi da ở Bình Minh (where) với một ngưởi bạn tên Bằng (who), TẠI SAO bà Bình Minh (who) không có trong sổ sách là anh chơi ở đó, anh cũng không biết tên Bằng giờ ở đâu, và cô chủ tạp hóa Hồng (who) cách nơi bị trộm 5 căn nhà (where) [cách bida Bình Minh 5 km] nói là anh có vào mua gói 555 lúc 5 giờ 5 phút (when)? Ta thấy, trong câu hỏi này “tại sao” là móc nối giữ hai hiện tượng khác nhau để cho ta thấy chúng có thể ăn khớp nhau (nhân quả) một cách hợp lý, hay là phản nhau một cách phi lý. Và nhờ đó ta biết được thật giả, đúng sai.

Vì vậy tât cả lý luận phân tích có thể dồn vào một câu hỏi “tại sao ?” “Tại sao” là con đường khám phá sự thật, là giềng mối của sáng tạo. Chỉ một chữ “tại sao” có thể cho ta khám phá biết bao vấn đề và biết bao giải pháp. Tại sao sinh viên học sinh thiếu sáng tạo? Tại sao giáo chức thiếu năng động? Tại sao quan chức hay lạm quyền? Tại sao báo chí thiếu sức mạnh? Tại sao trong chiến tranh ta đánh đâu cũng thắng? Tại sao ta không sợ chết? Nhưng ta hay sợ bị cười?

“Tại sao” là cánh cửa mở vào chân lý và sáng tạo. Cho nên ta cần khuyến khích sinh viên, học sinh, nhân viên, thuộc cấp, con cái dùng nó hằng ngày. Không hỏi tại sao, không thấy được chân lý, không thấy được vấn đề, không thấy được giải pháp, không có cả được ánh lửa sáng tạo của chỉ một que diêm.

Tuy nhiên, như câu chuyện về bé Jenny từ đầu, “tại sao” có sức mạnh đẩy người ta đến tận cùng của lý luận, phải đối diện với giới hạn của chính mình. Cho nên những người có quyền nhưng thiếu tự tin thường không muốn nghe câu này. Trong truyền thống “không khuyến khích hỏi” của nước ta, “tại sao” hầu như là từ cấm kỵ. Bố mẹ, thầy cô, quan chức, quản lý, không muốn nghe chữ “tại sao” từ miệng người cấp dưới. Ta thường nói đến “tự do ngôn luận”. Nếu cần giản dị hóa, ta chỉ cần tự do hỏi “tại sao?” Đó là ngưỡng của của trí tuệ, của tiến hóa, của thịnh vượng, của phát triển. Công ty nào mà nhân viên hay hỏi tại sao, công ty đó sẽ chiến thắng. Quốc gia nào mà người dân hay hỏi tại sao, quốc gia đó sẽ cường thịnh.

Chúc các bạn một ngày vui vẻ.

Mến,

Hoành

Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use

Phỏng vấn tuyển việc

Chào các bạn,

Phỏng vấn tuyển việc, job interview trong tiếng Anh, là cuộc gặp giữa đại diện công ty và người đang tìm việc. (Nhiều người dịch là phỏng vấn tuyển nhân viên, nhưng cách dịch đó quá một chiều). Đến bước này là thư tìm việc của bạn đã qua khỏi vòng loại đầu tiên, nói theo kiểu Mỹ, là một danh sách dài gồm nhiều đơn tìm việc gởi vào công ty đã được shortlisted (thu ngắn lại) và bạn đang nằm trong shortlist (danh sách ngắn). Thông thường phỏng vấn là giai đoạn cuối cùng. Tuy nhiên cho những chức vị quan trọng, có thể có đến 2 hay 3 vòng phỏng vấn, mỗi vòng là một cuộc thu ngắn (shortlisting). Trong bài này chúng ta sẽ nói đến các phương cách chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn.

1. Đến lúc này thì có lẽ bạn đã khảo sát một tí về công ty trong giai đoạn gởi thư tìm việc. Việc đầu tiên cho việc phỏng vấn là nghiên cứu một thêm một tí về công ty. Chỉ cần Google một tí trên Internet là có khối thông tin. Nhớ một ít chi tiết, để khi phỏng vấn không lớ ngớ như Bác Ngố lên thành.

2. Khảo sát thêm về người sẽ phỏng vấn mình. Thông thường là cả hai người–giám đốc nhân viên và giám đốc của phòng mình sẽ làm việc (ví dụ, giám đốc IT). Nhưng đôi khi chỉ có một trong hai người này. Tuy vậy, cứ chuẩn bị cho cả 2 người cho chắc ăn. Việc “chuẩn bị” này nên lồng vào việc “tạo dây liên hệ” với công ty theo tiến trình sau đây:

• Gọi vào công ty, nói chuyện với người đã báo tin cho bạn về cuộc phỏng vấn (thường là giám đốc nhân viên, hay trợ lý của bà ta). Đại khái nói ý này: “Em tên là XYZ. Em mới nhận được thơ báo tin phỏng vấn của cô. Em rất vui. Em gọi vào để cám ơn. Và để xác nhận với cô là em sẽ có mặt đúng 2 giờ chiều ngày … như thơ cô báo.”

Cú điện thoại này của bạn thực ra là một cuộc phỏng vấn rồi đó; nhưng cuộc này bạn nắm phần chủ động 100%. (Các bạn nên ghi nhớ các “tư tưởng chiến lược” trong ví dụ này nhé. Vì đây là phương cách giao tiếp thương mãi chung, không phải chỉ cho phỏng vấn tìm việc).

Xin chú ý, trong thí dụ này mình dùng cách xưng hô cô và em, cách xưng hô thân mật và lễ độ của người Việt. Nếu bạn xưng hô “bà” và “tôi”, nhất định là không có việc. Nếu xưng hô bà và em, cơ hội tăng một tí, xưng hô cô và em lại tăng thêm một tí nữa.

Nhưng giả sử nói chuyện với cô thư ký của bà ta thì sao? Nếu cô ấy nhỏ hơn mình vài tuổi thôi, chớ có kêu cô ấy bằng em, nếu cô này hay tự ái vặt, tìm cách rỉ tai bà chủ, thì hỏng cả việc của mình. Cứ kêu là chị, cách xưng hô trong đại học và giới trí thức. Xưng là mình hay là gì đó. “Tôi” là từ lạnh lùng nhất trong ngôn ngữ Việt. Lễ độ và dễ thương với mấy cô thư ký. Các cô ấy phải là đồng minh của mình thì việc mới thành.

Hỏi cô: “Cô có thể cho em biết cô hay là ai sẽ phỏng vấn em để em chuẩn bị tinh thần.” Câu hỏi này nhằm nhiều mục đích. Thứ nhất, để mình biết cách chuẩn bị. Thứ hai, để cô biết là mình rất quan tâm đến cuộc phỏng vấn, như vậy là mình rất quan tâm đến công việc. Thứ ba, để nói một cách rất tế nhị là “Cô ơi, em hơi run. Cô giúp em.” Nói như vậy, nhưng thực ra không nói vậy, cho nên không tỏ ra vẻ yếu ớt. Ngược lại, nó tỏ ra vẻ mình rất quan tâm đến công việc. Lưu ý, trong câu hỏi này mình nói “cô hay là ai”; đừng bỏ cô ra ngoài câu nói.

Hỏi thêm: “Cô ơi. Trong cuộc phỏng vấn em nên xưng hô với cô và với ông giám đốc IT như thế nào ?” Câu này vừa để cho mình biết cách xưng hô hay nhất, vừa để cô thành đồng minh giúp mình.

Nếu nói chuyện với cô thư ký, thì cũng hỏi như vậy, và nhớ là phải rất dịu dàng lễ độ với các cô thư ký, vì các cô ấy thường nhiều tự ái hơn là bà chủ.

Đừng nên nói quá lâu và quá nhiều trong cuộc điện đàm này.

Phỏng vấn
Phỏng vấn

• Sau đó, gởi vào một lá thơ để “cám ơn cô đã báo tin phỏng vấn”, và cám ơn việc “cô đã nói chuyện với em trong điện thoại hôm nay,” và “như em đã nói, em sẽ có mặt hôm ấy.”

Gởi thêm một email với nội dung tương tự. Trong email nhớ nhắc là mình cũng có gởi một lá thơ thường. Mục đích của email là vận tốc. Mục đích của thơ thường là để nó có dịp nằm chình ình trên bàn cô. Mục đích của cả hai là “tạo liên hệ” với công ty.

Tức là đến lúc này mình đã có bốn liên hệ với công ty: Thơ xin việc, cú điện thoại, email, và thơ thường. Ba liên hệ sau cùng là giữa mình và người sẽ phỏng vấn mình.

Đừng text vào điện thoại di động (nếu bạn biết số). Texting là dành riêng cho việc riêng thôi.

• Google để tìm thêm thông tin về những người sẽ phỏng vấn mình.

3. Đến ngày phỏng vấn:

• Ăn uống cái gì đó cho tỉnh táo trước khi đi. Cách ăn mặc thì có lẽ các bạn đã rành hết rồi.

• Đến trước khoảng 10 hay 15 phút để làm quen với không khí, và may ra thì có dịp nói chuyện một tí với cô thư ký.

• Mang theo một tập tài liệu, gồm vài resume của bạn (phòng khi cô làm lạc trong đống hồ sơ của cô rồi, và vài tài liệu về công ty). Điều quan trọng là trên tay có cầm cái gì thì cũng làm cho mình thoải mái hơn là thấy hai cái tay quá thừa thải.

• Chuẩn bị tinh thần: Đừng nghĩ rằng đây là một cuộc khảo thí. Cứ xem đây là một cuộc nói chuyện với vài người bạn mới. Nếu không được việc làm, ít ra mình cũng biết thêm được hai người quan trọng. Biết đâu mai mốt lại gặp nhau trong một trường hợp khác. Dù không được việc, ít ra cũng có hai người có cảm tình với mình rất nhiều.

Cũng cần nhớ rằng, đây vừa là cơ hội để công ty biết thêm về mình, vừa là cơ hội để mình biết thêm về công ty. Chuẩn bị một số câu hỏi để hỏi về công ty. Đây là đường hai chiều, công ty chọn mình và mình chọn công ty, chứ không nhất thiết là đường một chiều của người “xin” việc. Và người phỏng vấn mình cũng cố làm cho mình thích họ, chứ không phải chỉ có mình cố gắng một chiều.

Một đối diện ba
Một đối diện ba

4. Lúc vào phỏng vấn:

• Nếu cô đưa tay ra bắt, thì bắt tay một cách chắc chắn, tự tin.

• Đợi mời ngồi rồi hãy ngồi. Tốt hơn là không nên ngồi trước.

• Nếu cô mời trà hay cà phê, thì cứ xin một ly. Đây là nghĩa là “Vâng, em cám ơn ly trà của cô.” Từ chối lời mời thường là việc không tốt. Nhưng nếu cô quên mời, thì đừng nên tự hỏi.

• Chủ động nói trước bằng một vài nhận xét tốt, như “Cửa sổ này của cô nhìn ra ngoài đẹp quá, em rất thích”, hay “Em thích bức tranh này quá”, hay “Cô thích nhạc cổ điển sao?” (nếu cô đang mở nhạc cổ điển), hay “Đấy là ảnh của con gái cô sao?”

• Lực chọn cách ngồi thoải mái nhất cho mình. Ngồi thẳng lưng, tréo chân, hay tay để trên đùi (gần đầu gối) là cách ngồi trung tính và thoải mái nhất. Ngồi hay chân sát vào nhau cũng được. Tuy nhiên thế ngồi này, nếu không thẳng lưng thì nhìn rất khúm núm. Hơn nữa, nếu ghế hơi cao thì rất phiền. Khi ngồi, hoặc thẳng lưng hoặc hơi hướng đến phía trước. Đừng dựa hẳn vào lưng ghế.

• Lúc cô nói, thì thỉnh thoảng gật đầu. Đến lúc quan trọng thì chồm người đến phía trước một tí, nhìn thẳng mặt cô, để lắng nghe.

• Lúc trả lời câu hỏi thì tuyệt đối không nói câu nào tiêu cực như là không thích việc đang làm, không thích công ty đang làm, v.v… Đổi thành, “Công ty này của cô lớn hơn và có nhiều cơ hội cho em tiến hơn” hay “Em đang làm hãng xe hơi, nhưng em từ lâu lại rất thích IT. Em nghĩ là tương lai thế giới nằm trong IT, nên em muốn vào công ty IT của cô.” (Chúng ta sẽ bàn thêm về các câu nói trong phỏng vấn trong một dịp khác).

• Nếu có dịp thì hỏi thêm về công ty, và dùng các dịp này để cho cô biết mình rành về công ty. Ví dụ: “Em đọc báo thấy công ty quý vừa rồi lời 2 triệu đô la, như vậy đợt tuyển này có phải là công ty bành trướng thêm không ạ?” hay “Thưa cô, nếu em được vào làm ở đây, và nếu em làm khá, thì trong 5 năm em có thể có những đường tiến nào trong công ty ?” Đây là câu để cô biết là ta tính chuyện đường dài với công ty.

• Tuyệt đối không nên hỏi chuyện tiền. Nếu cô hỏi: “Em muốn lương bao nhiêu?” Câu trả lời hay nhất là: “Em nghĩ là nếu cô tuyển em vào đương nhiên là cô biết em xứng đáng được bao nhiêu, em sẽ tin vào ý cô.” Vài quyển sách ở Mỹ nói chuyện trả giá ở đây, nhưng theo ý mình, đó là rất tồi và không hiệu quả.

• Nhưng nên hỏi về các quyền lợi khác như bảo hiểm.

• Không nên hỏi về vacation.

• Nếu cô hỏi đúng điều gì mình không biết thì cứ trả lời không biết một cách thành thật và tự tin. Ví dụ: “Thưa cô em chưa có dịp phải sử dụng C language, nhưng nếu cần học em có thể học rất nhanh. Em không lo về việc ấy. Em có rất nhiều kinh nghiệm về các ngôn ngữ lập trình khác rồi.” Chú ý: Câu này chấm dứt bằng một đoạn rất tích cực. Đừng có trả lời “Dạ em không biết” rồi ngưng tại đó luôn, nói thêm một cái gì rất tích cực.

5. Phỏng vấn về viết ngay một email và một thơ thường, cám ơn. Sau đó, cứ vài ba bữa là gọi vào cô hỏi tin tức. Cho đến khi biết kết quả. Nếu không được việc, cũng nên gởi một cái thơ cám ơn, và nhắn “Hôm nào cô cần thêm người thì nhớ đến em.” Biết đâu 3 hôm nữa cô lại cần thêm ngưởi. Tất cả các lá thơ và các cú điện thoài này đều nhằm xây thêm liên hệ giữa mình và công ty (cô).

Trên đây là tóm tắt vài ý chính giúp các bạn khi vào phỏng vấn. Các vấn đề này nếu viết kỹ và dài dòng thì thành một quyển sách. Chúng ta sẽ cứ nói từ từ ở đây, trên blog này. Bốn điều quan trọng cần ghi nhớ trong bài này là: Thứ nhất, tích cực trong tư duy và cách nói chuyện. Thứ hai, chuẩn bị. Thứ ba, luôn luôn chủ động. Thứ tư, xây dựng quan hệ—nếu không được công việc, cũng được quan hệ. Thực ra, nếu bạn suy nghĩ kỹ thì công việc là chuyện tức thì, quan hệ là chuyện lâu dài. Nếu được cả hai thì càng tốt, nhưng nếu không được cái tức thì, ít ra mình cũng xây dựng được cái lâu dài.

Chúc các bạn nhiều may mắn.

Mến,

Hoành

Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use