Khi đi qua các lễ hội đồ ăn, chợ giời và sân chơi đá bóng kiểu dân dã ở Mỹ vào mùa hè, ta rất dễ nhận ra giai các điệu nhạc Latin Jazz từng bừng 🙂
Giai điệu Latin Jazz rạo rực và nóng bỏng như một lễ hội Châu Mỹ Latin, tức là Nam Mỹ. Giai điệu làm những hoạt động đang diễn ra đầy hào hứng và ngẫu hứng 🙂 Còn nhớ, bọn mình từng chơi đá bóng ở một công viên ở Vermont, và anh Jeffrey lần nào cũng mang chiếc đài chơi đĩa Latin Jazz ra. Như thế, trận cầu trôi qua rất nhanh trong hòa bình 🙂
Reggae là một loại nhạc chậm, đến từ vùng Jamaica. Có thể nói Raggea là một loại Latin Blues, Latin Jazz chậm. Có thể Raggea là từ chữ “rag” là rách rưới mà ra. Đây là nhạc chậm, có âm hưởng trộn lẫn giữa nhạc Blues của Jazz và âm hưởng Latin truyền thống của Jamaica. Raggae chậm, đều, chỏi nhịp, nghe có vẻ hơi lê thê rách rưới, sâu thẳm, đôi khi khóc than, phản kháng.
Hôm nay chúng ta cùng nghe một bài hát Reggae nổi tiếng nhé, bài hát “No woman, no cry” do Bob Marley sáng tác.
Bài hát là lời an ủi và trấn an đối với một cô gái. “No woman no cry” ở nguyên bản tiếng Jamaica là “No woman nuh cry” và có nghĩa là “No, woman, don’t cry”. Chàng trai đang sắp đi và nói là khu nhà ổ chuột sẽ không quá tệ đâu, và đừng khóc. Sân của chính phủ ở Trenchtown trong bài hát nói đến một dự án nhà công của chính phủ Jamaica vào những năm 1950s, nơi Bob Marley sống.
Bài hát này được viết bởi Bob Marley và ban The Wailers. Bài hát ra đời lần đầu năm 1974, với album Natty Dread, ghi âm trong phòng thu. Phiên bản nhạc sống được phát hành trong album 1975 Live! là phiên bản nổi tiếng nhất. Phiên bản này được đem vào tuyển tập các bài hát nổi tiếng Legend (the greatest hit compilation Legend) và được thu hình tại Lyceum Theatre ở London ngày 19/7/1975 như là một phần của tour trình diễn Natty Dread Tour của Bob Marley.
Phiên bản nhạc sống này của No woman, No cry được báo nhạc Rolling Stone xếp hạng 37 trong 500 Bản nhạc hay nhất trong mọi thời đại.
Sau đây là 3 video bài hát do Bob Marley, Joan Baez và Bonney M thể hiện.
Hôm nào các bạn tổ chức party, nhớ bật nhạc Reggae nhé. 🙂
Hiển.
Không, chị, đừng khóc
(Bob Marley)
Không, chị, đừng khóc (lặp lại 4 lần)
Nói nói
Nói rằng em nhớ, khi chúng ta từng ngồi
Trong sân chính quyền ở Trenchtown
Quan, quan sát bọn đạo đức giả
Khi bọn chúng trà trộn với những người tốt chúng ta gặp
Những bạn tốt chúng ta đã có, ồ những bạn tốt chúng ta đã mất trên đường đi
Trong tương lai tươi sáng chị không thế quên được quá khứ của chị
Vậy hãy lau khô nước mắt đi, em nói vậy
Thành phố lớn với hứa hẹn đổi đời với thu nhập cao hơn, sự vui vẻ náo nhiệt và phồn hoa của đô thành, còn là nơi chứa đựng bao nỗi bất hạnh: sự bất công về công việc, an ninh và tệ nạn xã hội.
Bài hát Living for the City do Steve Wonder sáng tác năm 1973 kể về cuộc đời của một cậu bé sinh ra ở “hard time Mississipi”. Cha mẹ cậu nghèo nhưng họ làm việc chăm chỉ và động viên cậu giữa vùng đất nặng nề kỳ thị chủng tộc, thiếu lương thực và tiền. Nhà cậu có tình yêu.
Cậu lớn lên thành một anh thanh niên tới New York City để bắt đầu cuộc sống mới. Cậu bị lừa đi vào đường dây vận tải ma túy và lãnh án 10 năm tù. Cuộc đời cậu coi như bị phá hủy.
Stevie chơi tất cả các nhạc cụ được ghi âm trong bài, với Malcolm Cecil và Robert Margouleff giúp kỹ thuật thu âm và program cho synthesizer. Đây là một trong những bản nhạc soul đầu tiên nói rõ ràng về kỳ thị người da đen và dùng những âm thanh thường ngày trên đường phố như xe cộ, còi hú, tiếng người… trong bài hát. Continue reading Living For The City – Sống cho thành phố→
California Dreamin’ là bài hát do John Phillips và vợ là Michelle Phillips viết, và đầu tiên do Barry McGuire hát và ghi âm. Nhưng phải đợi khi ban The Mamas and the Papas, là ban nhạc hát phụ họa cho Bary McGuire trong phiên bản ghi âm trước, ghi âm lại năm 1965 thì bài hát mới thành nổi tiếng.
Ban nhạc The Mamas and The Papas gồm các thành viên như: John Phillips (nhạc sĩ sáng tác bài này, qua đời năm 2005), Denny Doherty (qua đời năm 2007), Michelle Phililips (vợ của John), Cass Elliot, Scott McKenzie, Jill Gibson. Ban nhạc này nổi lên vào năm 1966 với thành công vang dội của California Dreamin’ khi nó lọt vào top 10. Ca khúc này được phát hành lần đầu tiên vào tháng 11, năm 1965 và được báo nhạc Rolling Stone xếp hạng thứ 89 trong 500 Bài hát hay nhất trong mọi thời đại.
Qua tiếng hát của The Mamas and The Papas của thập niên 60, ca khúc kinh điển California Dreamin’ đã trở thành nhạc phẩm thịnh hành được nhiều người yêu chuộng. Vào giữa thập niên 90, nhạc phẩm California Dreamin’ lần nữa được dùng làm ca khúc chính trong phim “Chungking Express”, một trong 100 cuốn phim được tuần báo Time của Mỹ chấm là hay nhất. Trong phim này, đạo diễn Wong Kar Wai đã mượn nhạc phẩm này để nói lên ước mơ về vùng trời xa xăm của cô bồi bàn trong một tiệm ăn nhỏ ở Hong Kong. Continue reading California Dreaming – California mộng mơ→
The Sound of Silence được Paul simon viết trong vài tháng năm 1963-1964 và ban song ca Paul Simon & Garfunkel ghi âm năm 1964. Nhưng bài hát không được ai quan tâm. Trong năm 1965 một số kên radio ở Boston và Florida bắt đầu chơi bàn này nhiều. Giám đốc sản xuất đĩa nhạc là Tom Wilson vì vậy quyết định chỉnh lại bài ghi âm bằng cách đắp lên đó một số dòng nhạc cụ điện tử và remix các tracks nhạc. Wilson làm mà không cho Simon và Garfunkel biết. Đĩa đơn cho bài hát được phát hành tháng 9/1965.
Bài hát lên ngày hạng 1 trên Billboard Hot 100. Simon và Garfunkel làm thêm một đĩa nhạc mới lấy tên Sounds of Silence để dùng sự thành công của bài hát. Bài hát lên đầu bảng tại nhiều nước khác sau đó, như Úc, Áo, Tây Đức, Nhật và Hà Lan. Vì thường được xem là rock dân ca kinh điển, bài hát được đưa vào National Recording Registry của Thư viện Quốc hội Mỹ vì “quan trọng về văn hóa, lịch sử, và nghệ thuật” năm 2013, cùng với album Sounds of Silence.
The Boxer là bài hát của bộ đôi simon & Garfundkel trong album thứ 5 của họ, Bridge over Troubled Water (1970). Bản The Boxer được phát hành trước album, tháng 3/1969, như là bài hát chính của albumn ra sau. Bài này có ảnh hưởng dân ca và rock nhẹ, thay đổi giữa lời than của nhân vật kể chuyện và vài nét phát họa về một nhân vật thứ ba – người võ sĩ, nói về nghèo khổ và cô đơn. Continue reading The Boxer – Người võ sĩ→
Bridge over Troubled Water là bài hát của Paul Simon và được bộ đôi Simon & Garfunkel ghi âm và phát hành năm 1970 trong album thứ 5 và là album cuối của bộ đôi có cùng tên Bridge over Troubled Water. Bài hát và album thắng 4 giải Grammy tại Grammy thứ 13 năm 1971 gồm: Đĩa của năm (Record of the Year), Hòa âm hay nhất (Best Arrangement), Bài hát đương thời hay nhất (Best Contemporary Song), Kỹ thuật ghi âm tốt nhất (Best Engineered Recording).
Bridge over Troubled Water trở thành bài hát chữ ký (signature song) của Simon & Garfunkel. Lên hạng nhất trên Billboard Hot 100 sáu tuần liền, và cũng lên đầu bảng ở Anh, Canada, Pháp, và New Zealand. Bài hát cũng lên top five trong 8 nước khác. Bài hát là một trong những bài được trình diễn nhiều nhất trong thế kỷ 20 với hơn 50 nghệ sĩ ghi âm, trong đó có Elvis Presley và Aretha Franklin.
Một bản nhạc rock thời 1960s đã trở thành kinh điển và ưa chuộng bởi hầu như mọi người ngày nay là Proud Mary, của nghệ sĩ guitar John Forgerty của ban Creedence Clearwwater Revival (“CCR”) năm 1969.
CWR phát hành bản này lần đầu tiên trong album Bayou Country tháng 1/1969, và ngay lập tức nó trở thành bản nhạc đầu tiên của CWR lên hàng đầu trong các danh sách nhạc Pop ở Mỹ.
Proud Mary nghe có hoà trộn của rock and roll, nhạc Gospel (thánh ca của người da đen), blues và soul. Và đương nhiên là có các đặc tính thường xuyên của Creedence Clearwater Revival là lời nhạc giản dị thực tế, và đường guitar của John Fogerty.
Mary kiêu hãnhBỏ việc tốt trong thành phố
Làm việc cho anh chàng ngày và đêm
Nhưng tôi không bao giờ mất một phút ngủ nào
Để lo lắng chuyện có thể đã ra thế nào
[Điệp khúc]
Vòng lớn tiếp tục xoay
Mary kiêu hãnh tiếp tục nóng cháy
Lăn, lăn, lăn trên dòng sông
Rửa rất nhiều bát đĩa ở Memphis
Bơm rất nhiều xăng ở New Orleans
Nhưng tôi chưa bao giờ thấy mặt tốt của một thành phố
Cho đến khi tôi đi một chuyến trên con thuyền Nữ Hoàng dọc sông
[lập lại Điệp khúc]
Nếu bạn xuống Sông
Tôi chắc bạn sẽ thấy người ta sống
Bạn không phải lo lắng vì không có tiền
Mọi người trên sông luôn vui vẻ cho bạn
(TĐH dịch) Proud Mary
Left a good job in the city
Workin’ for the Man every night and day
But I never lost a minute of sleepin’
Worryin’ ’bout the way things might have been Continue reading Proud Mary – Mary kiêu hãnh→
Có lẽ đa số chúng ta quen thuộc với bản hát tươi vui La Bamba của Ritchie Valens. Ritchie phổ biến bản này năm 1958 và biến nó thành một bản nhạc nổi tiếng quốc tế. Nhưng là Bamba là dân nhạc và dân vũ truyền thống của tiểu bang Veracruz, Mexico.
Ritchie Valens là một nhạc sĩ Mỹ gốc Mexico. Sinh ngày 3 tháng 5 năm 1941 tại Los Angeles, với tên thật là Richard Steven Valenzuela. Ngày 2 tháng 3 năm 1959, Ritchie Valens tử nạn máy bay cùng hai nhạc sĩ nhạc rock Mỹ là Buddy Holly và The Big Bopper, thọ 18 tuổi. Ngày này được xem là Ngày Âm Nhạc Chết (The day the music died) trong văn hóa âm nhạc Mỹ.
Năm 1987, đạo diễn Luis Valdez làm phim La Bamba, do Lou Diamond Phillips đóng vai Ritchie Valens, nhưng với giọng ca thật của Ritchie.
Báo nhạc Rolling Stone xếp La Bamba hạng 354 trong 500 Bài hát hay nhất mọi thời đại.
Sau đây mời các bạn xem
1. Video clip của phim La Bamba.
2. Video dân vũ La Bamba của tiểu bang Veracruz, Mexico, trong đó cô dâu và chú rể là người vũ chính, dùng chân thắt nút nơ, tượng trưng cho nghĩa vợ chồng, cùng với sự phụ họa của các phù dâu phù rể.
Chủ nhật tuần vừa rồi, ngày 6/9/2009 mình có dịp được đến thăm vùng Gettysburg ở tiểu bang Pennsylvania, Mỹ. Mình đến thăm nghĩa trang tưởng niệm cuộc nội chiến của Mỹ và lịch sử của thị trấn Gettysburg, nơi tổng thống Abraham Lincoln đọc bản diễn văn lịch sử Gettysburg Address. Đọt Chuối Non cũng đã đăng bản diễn văn Gettysburg. Mình post lại bài diễn văn đó cuối phần mình viết ở đây.
Hôm nay mình muốn giới thiệu với các bạn bài hát “The Night They Drove Old Dixie Down” (“Đêm Họ Cán Bẹp Dixie Xa Cũ”) – bài hát nói về những ngày cuối cùng của trận nội chiến Nam – Bắc, hậu quả và tình cảm sau cuộc chiến tranh. Dixie là tên cúng cơm của phần đất miền nam, các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, thất trận trong cuộc chiến. Bài hát được tạp chí Rolling Stone bình là “bài hát đem đến một cảm giác con người tràn ngập về lịch sử” vào tháng 10 năm 1969. Báo nhạc Rolling Stone xếp bài hát này hạng 249 trong 500 Bài hát hay nhất trong mọi thời đại.
Tổng thống Lincoln tại Gettysburg
Bài hát được sáng tác bởi nhạc sĩ người Canada Robbie Robertson và được thu âm bản đầu tiên bởi “The Band” năm 1969. Sau đó Joan Baez hát bài hát này và đó là bản thu âm thành công nhất tới nay, đạt tới thứ hạng 3 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Mỹ năm 1971.
Bài hát hát về một người lính quân phía Nam tên là Virgil Caine phục vụ trên chuyến tàu Danvill bảo vệ thủ phủ miền nam ở Richmond, Virginia và gặp sức tấn công của quân ở phía bắc lãnh đạo bởi tướng Robert E. Lee.
Miền Nam bị thua. Và người miền Nam nước Mỹ đau buồn và có những phản ứng lẫn lộn vì lý tưởng khác với miền Bắc. Ở miền Bắc, Lincoln không chấp nhận một quốc gia “nửa nô lệ, nửa tự do” và miền Nam chấp nhận điều đó.
Chiến tranh để lại bao hậu quả thật nặng nề. Ở Gettysburg hậu quả là nặng nề nhất vì trận chiến đấu ác liệt nhất đã diễn ra ở đó. Gettysburg được coi là bước ngoặt của cuộc chiến tranh, diễn ra từ mùng 1 tới mùng 3 tháng 7 năm 1963, nơi 160,000 lính Mỹ đánh nhau trên một thị trấn gồm 2,400 dân thường.
Luật sư 32 tuổi David Wills ở Gettysburg lúc đó đã chứng kiến tất cả những tang thương của cuộc chiến tranh. Một tấm biển trong ngôi nhà tưởng niệm David Wills có dòng chữ:
“Sau cuộc chiến, Gettysburg trở thành một bệnh viện và nhà xác khổng lồ: những người lính chết và bị thương vượt quá số dân thường 11 lần”.
Ngay sau cuộc chiến ở Gettysburg, David Wills đã đề nghị ý tưởng về khu đất làm Nghĩa trang tưởng niệm Tử sĩ chiến tranh cho thống đốc của bang Pennsylvania lúc đó là Andrew Gregg Curtin.
Nhà của luật sư David Wills
Ông Wills sau đó đã được ủy quyền để mua khu đất làm nghĩa trang bằng tiền của chính quyền liên bang.
David Wills đã thiết kế ra buổi lễ để tôn vinh những người chiến sĩ Mỹ trong cuộc nội chiến. Tổng thống Abraham Lincoln, theo lời mời, đã tới làm khách ở nhà ông Wills một buổi tối, nơi Lincoln hoàn thành phiên bản cuối cùng của bản diễn văn Gettysburg, hôm 18/11/1863, hôm trước của buổi lễ Gettysburg vào 19/11/1863.
David Wills dàn dựng buổi lễ với 2 tiếng diễn văn dành cho thượng nghị sĩ Edward Everett phát biểu và sau đó khoảng mấy phút để tổng thống Lincoln “nói vài lời” (“few appropriate remarks”).
Ai ngờ đâu, bài phát biển 10-câu 2-phút Gettysburg Address của Lincoln ngay lập tức đi sâu vào lịch sử và nói lên tất cả tinh thần của cuộc chiến và khát vọng của người dân Mỹ cũng như mọi dân tộc trên thế giới.
Sau đây là bài Diễn văn Gettysburg Address của tổng thống Lincoln.
Tiếp theo sau là lời bài ca “The Night They Drove Old Dixie Down”, song ngữ Anh trước Việt sau. Trong bản dịch có thêm vài lời giải thich [để trong ngoặc như thế này].
Và sau đó là 2 videos: Video đầu là Joan Baez trình bày bản nhạc, video thứ hai do ban nhạc The Band trình bày.
Diễn văn Gettysburg của Tổng thống Lincoln
Gettysburg, Pennsylvania
Tháng 11, ngày 19, năm 1863
Tám mươi bẩy năm về trước, cha ông chúng ta đem đến trên lục địa này, một quốc gia mới, thai nghén trong Tự Do, và dâng hiến cho nguyên ly’ rằng mọi người được sinh ra bình đẳng.
Bây giờ chúng ta đang ở trong một cuộc nội chiến lớn, thử nghiệm xem quốc gia đó, hay bất kỳ quốc gia nào khác, thai nghén như vậy và dâng hiến như vậy, có thể tồn tại lâu dài. Chúng ta gặp nhau trên một bãi chiến trường lớn của cuộc chiến tranh đó. Chúng ta đã đến để hiến dâng một phần của bãi chiến trường này làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người hy sinh đời mình ở đây để tổ quốc có thể sống. Thật là thích hợp và thỏa đáng để chúng ta làm thế.
Nhưng, ở một ý nghĩa rộng lớn hơn, chúng ta không thể dâng hiến – chúng ta không thể thánh hóa – chúng ta không thể linh thiêng hóa – bãi đất này. Những người anh dũng, đang sống cũng như đã chết, những người đã đấu tranh ở đây, đã thánh hóa mảnh đất này, cao xa hơn năng lực yếu kém của chúng ta có thể thêm hay bớt điều gì. Thế giới không để y’, và không nhớ được lâu điều chúng ta nói ở đây, nhưng thế giới không bao giờ quên được điều các anh hùng đã làm ở đây. Chúng ta, những người còn đang sống, nên được dâng hiến ở đây cho công việc còn dang dở mà những người liệt sĩ nơi đây đã oanh liệt tiến đẩy cho đến mức này. Chúng ta nên được dâng hiến ở đây cho nhiệm vụ to lớn còn lại trước chúng ta – từ tay những anh hùng liệt sĩ, chúng ta chấp nhận hiến thân nhiều hơn cho sự nghiệp họ đã hiến thân, đến mức thành tâm tối hậu– chúng ta quyết tâm không để những người chết ở đây chết đi vô ích – quốc gia này, trong Chúa, sẽ tái sinh trong tự do—và chính phú của dân, do dân và vì dân sẽ không biến mất trên trái đất này.
.
The Night They Drove Old Dixie Down
Lyrics: Robbie Robertson
Music: Robbie Robertson
Virgil Caine is the name and I served on the Danville train
‘Til Stoneman’s cavalry came and tore up the tracks again
In the winter of sixty-five
We were hungry just barely alive
By May tenth Richmond had fell
It was a time I remember oh so well
Chorus:
The night they drove old Dixie down
And the bells were ringing
The night they drove old Dixie down
And the people were singing, they went
La la la la la la, la la la la la la la la, la
Like my father before me I will work the land
And like my brother above me who took a rebel stand
He was just eighteen, proud and brave
When a Yankee laid him in his grave
I swear by the mud below my feet
You can’t raise a Cain back up when he’s in defeat
[chorus]
Back with my wife in Tennessee when one day she called to me
Virgil, quick come see, there goes Robert E Lee
Now I don’t mind choppin’ wood
And I don’t care if the money’s no good
You take what you need and you keep the rest
But they should never have taken the very best
[chorus]
.
Đêm họ cán bẹp Dixie xưa cũ
Virgil Caine là tên tôi và tôi phục vụ trong tuyến xe lửa Danville
Đến khi kỵ binh của đám Người Thời Đồ Đá đến và phá hủy đường sắt lần nữa.
Mùa đông 65 [1865]
Chúng tôi đói và sống rất mong manh
Đến 10 tháng 5 thì Richmond [thủ phủ của Nam quân]đã mất
Đó là thời gian tôi nhớ rất rõ
Điệp khúc:
Đêm họ cán bẹp Dixie [miền Nam] xưa cũ
Chuông kêu vang lừng
Đêm họ cán bẹp Dixie xưa cũ
Và mọi người ca hát, họ ca
La la la la la la, la la la la la la la la, la
Như ba tôi trước tôi, tôi sẽ cày bừa
Và như anh tôi trên tôi đã thành phiến loạn
Anh chỉ 18, hào hùng và can đảm
Khi Bắc quân bỏ anh vào mộ
Tôi thề trên vũng bùn dưới chân tôi
Bạn không thể làm người họ Caine đứng dậy khi đã thất trận
[Điệp khúc]
Trở về với vợ ở Tennessee, một ngày nọ nàng gọi tôi
Virgil, nhanh lên ra xem, [tướng] Robert E. Lee [của Bắc quân] đó
Tôi không ngại chặt củi
Và tôi không quan tâm nếu không có đủ tiền
Bạn lấy bao nhiêu bạn cần và để lại phần kia
Nhưng họ đã không nên lấy hết những gì tinh túy nhất
Cậu bé Elui Rodiguez, 9 tuổi, từ Mexico đã viết một tấm thiệp như thế này để tưởng nhớ tới công nương Diana của nước Anh mấy năm trước:
“Diana đẹp như một đóa hồng ngọt ngào. Bà tốt bụng và giúp đỡ người khác, đặc biệt là rất nhiều trẻ em trên thế giới. Bà ấy như một vị anh hùng đối với em. Dù em sinh ra sau khi bà ấy mất 21 ngày nhưng em biết nhiều về bà và học nhiều điều từ bà”.
Diana, Công chúa xứ Wales (Diana Frances; nhũ danh Spencer, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961 – mất ngày 31 tháng 8 năm 1997) là vợ thứ nhất của Charles, Hoàng tử xứ Wales. Hai con trai của bà là Hoàng tử William và Hoàng tử Harry, xếp thứ hai và thứ ba trong thứ tự kế vị ngôi vua của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và 15 địa hạt Khối Thịnh Vượng chung khác.
Từ khởi đầu không có tiếng tăm, Diana đã trở thành một người nổi tiếng sau khi bà kết hôn với Hoàng thân Charles. Cuộc sống của bà đã trở thành đề tài chú ý của công chúng do địa vị hoàng gia của bà. Sau nhiều năm dư luận bàn tán về các vấn đề trong cuộc sống hôn nhân của họ, Hoàng thân Charles và Diana đã ly hôn. Sự kiện này có thể đã khiến cho công chúng hết chú ý đến bà nhưng thay vào đó công chúng đã thông cảm với Diana, phần lớn là do bà tham gia vào các công việc từ thiện và công tác xã hội.
Cung điện Kensington là nơi công nương Diana sống sau khi kết hôn với thái tử Charles năm 1981 cho đến khi qua đời năm 36 tuổi vì tai nạn giao thông ở Pháp ngày 31 tháng 8 năm 1997. Theo cảnh sát Anh, Công nương Diana và bạn trai đã thiệt mạng cùng với tài xế Henri Paul khi chiếc Mercedes của họ gặp nạn trong đường hầm Pont d’Alma tại Paris vào ngày định mệnh ấy khi đang cố chạy thoát khỏi các paparazzi.
Diana khi qua đời đã để lại một vẻ đẹp thanh xuân nhưng trên hết vẫn là hình ảnh một người mẹ rất mực yêu thương con, một nhà hoạt động từ thiện không mệt mỏi.
Cái chết của công nương Diana ở độ tuổi còn rất trẻ trong vụ tai nạn xe hơi được tiếp nối bằng một giai đoạn thương tiếc và để tang của dân chúng Anh quốc, và của thế giới với không ít người hâm mộ và yêu quí công nương.
Rất nhiều người buồn thương chào vĩnh biệt công nương bằng cái tên “Đóa hồng Anh quốc, như lời ca khúc Candle In the Wind mà Elton John viết tặng Diana trong ngày tang lễ ngập tràn hoa cách đây 12 năm. ( Về Elton John, ca sỹ, người soạn nhạc và nghệ sỹ piano nhạc pop/rock người Anh 5 lần đọat giải Grammy và một lần đoạt giải Oscar, Nhạc Xanh sẽ giới thiệu trong các kỳ tới)
Hãy nghe Nicholas Davies, người viết tiểu sử hoàng gia, tác giả của nhiều cuốn sách về Diana, về các nữ hoàng và hoàng tộc đã lý giải như một lời an ủi cho biết bao người yêu mến công nương về sự ra đi khi còn rất trẻ của nàng:
“Như thế, công nương sẽ giữ mãi hình ảnh tuổi thanh xuân mà không người nào có thể thay thế. Có lẽ cô sẽ đẹp ở một vẻ khác vào cái tuổi 40 nếu còn sống, tiếp đó là 50, cái tuổi mà người phụ nữ thường nhìn lại dáng vẻ mình. Chắc chắn, cô sẽ không được yêu mến nhiều như trước. Với lòng tôn kính, phải thật sự nói rằng cái chết của cô đã để lại kỉ niệm tuyệt vời trong lòng người dân Anh.”
Tina Brown, một nhà báo có tiếng tại nước Mỹ và châu Âu, đã viết một quyển sách đươc đánh giá cao về công nương Diana: The Diana Chronicles.
Tác giả đã dựa vào không chỉ các nguồn thông tin đã được công bố và xuất bản, mà còn từ nhiều cuôc phỏng vấn với những người bạn, người giúp viêc và những người có quan hệ với công nương. Brown đã mở đầu bằng yếu tố tiền định trong cuộc đời công nương từ giây phút sinh ra bị quên lãng. Do cha mẹ Diana trông chờ một cậu con trai, người thừa kế, nên không mấy quan hoài đến cô. Khi cha mẹ li hôn năm Diana chỉ mới 5, 6 tuổi. Điều đó khiến cô càng khép kín và có một tuổi thơ không thực êm ả. Trong giai đoan tiếp theo, cô đã phát triển những tính cách phụ nữ mà sau này khiến cô rất nổi tiếng và được yêu thích. Chương hay nhất của quyển sách là về khoảng thời gian cuối và ngày định mệnh của công nương, với những thông tin chi tiết về các nghi vấn trong cái chết của Diana, phản ứng của hoàng gia và người dân nước Anh
Tin qua đời cùa Diana lập tức gây sốc cho Elton John vì ông và Công nương là bạn tốt. Trước đó ông cũng mất một người bạn thân thiết khác, nhà thiết kế thời trang Gianni Versace, chỉ vài tuần trước đó, và ông đã dự đám tang của người bạn này cùng với Công nương Diana.
Candle in The Wind (Ngọn nến trong gió) hay Goodbye England’s Rose (Tạm biệt đóa hồng Anh quốc ) là một bản nhạc do Elton John viết lại từ “Candle In The Wind”, được phát hành như một đĩa đơn để tặng cho Diana, Công nương xứ Wales quá cố.
Được phát hành năm 1997, bài hát đã vươn lên vị trí hàng đầu ở Anh và trở thành đĩa đơn thứ 4 chiếm vị trí số một của Elton John. Bài hát cũng vươn lên vị trí số 1 ở đa số các nước khác. Đến năm 2007, đây là đĩa đơn bán chạy nhất trong lịch sử được ghi nhận trong Sách kỷ lục Guinness năm 2007.
Báo nhạc Rolling Stone xếp Candle in the Wind hạng 356 trong 500 Bản nhạc hay nhất trong mọi thời đại.
Có thể chuyện cổ tích không có thật, nhưng nhân vật trong chuyện cổ tích mãi đi vào giấc mơ và luôn được yêu mến. Công nương xứ Wales – Diana Frances Spencer – mãi là đóa hồng không nhạt phai.
Sắp đến kỷ niệm lần thứ 12 công nương Diana về thế giới vĩnh hằng- thiên đường như niềm tin trong bài hát GOODBYE ENGLAND’S ROSE. Mời các bạn thưởng thức bài hát tưởng nhớ công nương Diana, sáng tác và trình bày bởi Elton John.
Mình post luôn lời dịch Tiếng Việt của mình cho bài hát ưa thích này.
Elton John – tại tang lễ Lady Diana – bắt đầu hát ở phút 1:06
CANDLE IN THE WIND/ GOODBYE ENGLAND ROSE
Goodbye England’s rose
May you ever grow in our hearts
You were the grace that placed itself
Where lives were torn apart
You called out to our country
And you whispered to those in pain
Now you belong to heaven
And the stars spell out your name
And it seems to me you lived your life
Like a candle in the wind
Never fading with the sunset
When the rain set in
And your footsteps will always fall you
Along England’s greenest hills
Your candle’s burned out long before
Your legend never will
Loveliness we’ve lost
These empty days without your smile
This torch we’ll always carry
For our nation’s golden child
And even though we try
The truth brings us to tears
All our words cannot express
The joy you brought us through the years
And it seems to me you lived your life
Like a candle in the wind
Never fading with the sunset
When the rain set in
And your footsteps will always fall you
Along England’s greenest hills
Your candle’s burned out long before
Your legend never will
Goodbye England’s rose
May you ever grow in our hearts
You were the grace that placed itself
Where lives were torn apart
Goodbye England’s rose
From a country lost without your soul
Who’ll miss the wings of your compassion
More than you’ll ever know
And it seems to me you lived your life
Like a candle in the wind
Never fading with the sunset
When the rain set in
And your footsteps will always fall you
Along England’s greenest hills
Your candle’s burned out long before
Your legend never will
Sau đây là bản dịch của mình nhân tưởng niệm ngày mất công nương lần thứ 12 sắp đến:
Ngọn Nến Trong Gió/ Tạm Biệt Đóa Hồng Anh Quốc
Tạm biệt Đóa Hồng Anh quốc
Nguyện cầu nàng luôn ngự trị trong tim ta
Nàng là hồng ân tạo sẵn
Nơi cuộc sống nát tan
Nàng kêu gọi cả đất nước này
Nàng thầm thì cùng những người đau khổ
Giờ đây nàng về cõi thiên đàng
Những vì sao đang dệt tên nàng
Với tôi nàng đã sống một đời
Như ngọn nến trong gió
Không bao giờ tắt với hoàng hôn
Khi gió mưa tuôn
Và những bước chân nàng sẽ luôn lưu dấu
Dọc những ngọn đồi xanh ngát của nước Anh
Dù ngọn nến của nàng rồi cháy hết
Huyền thoại về nàng sẽ chẳng bao giờ phôi pha
Chúng ta đã mất đi cái đẹp
Với những ngày trống vắng không còn nụ cười của nàng
Nhưng ngọn đưốc này chúng ta vẫn luôn mang
Vì người con yêu quý tuyệt vời của đất nước
Và dẫu lòng ta cố gắng
Sự thật khiến chúng ta đổ lệ
Ngôn từ không bày tỏ được
Niềm vui nàng trao tặng chúng ta
Với tôi nàng đã sống một đời
Như ngọn nến trong gió
Không bao giờ tắt với hoàng hôn
Khi gió mưa tuôn
Và những bước chân nàng sẽ luôn lưu dấu
Dọc những ngọn đồi xanh ngát của nước Anh
Dù ngọn nến của nàng rồi cháy hết
Huyền thoại về nàng – thì chẳng bao giờ
Tạm biệt Đóa Hồng Anh quốc
Nguyện cầu nàng luôn ngự trị trong tim ta
Nàng là hồng ân tạo sẵn
Nơi cuộc sống nát tan
Tạm biệt Đóa Hồng Anh quốc
Từ một đất nước lạc lõng vì thiếu vắng tâm hồn nàng
Ai sẽ nhớ đôi cánh nàng trắc ẩn
Hơn những gì nàng biết được
Với tôi nàng đã sống một đời
Như ngọn nến trong gió
Không bao giờ tắt với hoàng hôn
Khi gió mưa tuôn
Và những bước chân nàng sẽ luôn lưu dấu
Dọc những ngọn đồi xanh ngát của nước Anh
Dù ngọn nến của nàng rồi cháy hết
Huyền thoại về nàng sẽ chẳng bao giờ phôi pha
Thân ái chúc các bạn một ngày làm việc cuối tuần vui tươi và hiệu quả