Category Archives: Thơ

TỘI ÁC HỒN NHIÊN

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Những đàn bồ câu hồn nhiên bay lượn và đậu yên bình cũng hồn nhiên như thế trước Hoàng cung dát vàng

Những con rắn thần Naga hồn nhiên rời bỏ chốn linh thiêng kiêng kỵ để hòa nhập với cộng đồng người nơi mỗi góc phố, công viên

Những anh xe lôi hồn nhiên nằm ngủ trong khoang xe đợi khách

Đọc tiếp trên CVD

Chúng ta người canh giữ

Hafiz of Shiraz (Hafi của thành Shiraz) (1230-1291) được xem là thi sĩ lớn nhất của nền văn minh Persian, dùng từ ngữ và hình ảnh hết sức tế nhị và cao sâu. Mời các bạn đọc bài thơ sau:

 
Chúng ta là người canh giữ Nét Đẹp của Ngài (1)

Chúng ta là người bảo vệ
Mặt trời (2)
Continue reading Chúng ta người canh giữ

Tình Yêu

Farid ud Din Attar, hay Attar của thành Nishapur (1145 – 1221), là một vị thánh ẩn tu Sufi, Hồi giáo, được xem là tác giả viết nhiều nhất trong nền văn chương Persian về các đề tài tâm linh. Mời các bạn đọc đoạn thơ sau đây.

 
Say vì Rượu Tình Yêu.
Từ mỗi người một im lặng kỳ bí, Tình yêu đòi hỏi.
Điều gì mọi người đều tìm kiếm rất thiết tha? Tình Yêu.
Điều gì họ thì thầm vào tai nhau? Tình Yêu.
Tình yêu trong tư tưởng sâu kín nhất của mọi người. Continue reading Tình Yêu

Loài chim của Con đường đến Thượng đế

Chào các bạn,

Farid ud Din Attar, tức Attar của thành Nishapur (1145 – 1221), một vị thánh và nhà tu ẩn dật Hồi giáo, là một trong những tác giả viết nhiều nhất trong văn chương Persian về tôn giáo. Bài sau đây, như phần nhiều thi ca Sufi, không có đầu đề. Mời các bạn thưởng thức và suy niệm.

Mến,

Hoành

Continue reading Loài chim của Con đường đến Thượng đế

“MUỐN SANG THÌ BẮC CẦU KIỀU…”

(Cảm nhận khi đọc bài thơ :
“Thày học cũ” của nhà thơ Nguyễn Thị Mai)

Thay_giao

THÀY HỌC CŨ

(Kính tặng những người thày đã dạy chúng ta)

Vòng tay làm thước com pa

Vung đường phấn trắng mở ra địa cầu

Lớp trò đi khắp năm châu

Riêng thày đứng lại bến dâu quê làng

Continue reading “MUỐN SANG THÌ BẮC CẦU KIỀU…”

Khóc bác Giáp

 

dai-tuong-VNG
 
Tôi đi qua những nơi cơn bão vừa càn quét miền trung
Tin ông tạ thế nhòa giữa những xóm làng xơ xác, những hàng cây đổ gục
Và chợt hiểu rằng: trái tim ông cũng gửi nhịp đập chốn này trong những giờ phút cuối đời
Thế là trong những giọt lệ của tôi khóc ông
Có thêm niềm an ủi
Sự xót đau dần dịu đi và thay thế bằng niềm tin:
Những đồng bào lam lũ của ông và của tôi dù có lúc hoang mang, đổ vỡ, tức giận
Nhưng chưa bao giờ thôi hy vọng và không mất đi khát vọng sống trong công bằng…

Continue reading Khóc bác Giáp

Có một tâm hồn thơ mãnh liệt trong cơ thể nhiễm chất độc da cam

() – Một điều ít người tin nhưng là sự thật giữa TP.Biên Hòa: Bằng nghị lực và tình yêu mãnh liệt vào sự sống, cô gái nhỏ Đinh Thị Hoàng Loan (35 tuổi, ngụ ở P.Quang Vinh) đã khiến cả làng thơ tỉnh Đồng Nai phải “ngả mũ”.

Có một tâm hồn thơ mãnh liệt trong cơ thể nhiễm chất độc da camNụ cười “nhà thơ da cam” Đinh Thị Hoàng Loan.

Bởi, chị là một nạn nhân chất độc da cam, cuộc sống vốn chỉ gắn bó với bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Nhi đồng 1, Nhi đồng 2 (TPHCM) và các y – bác sĩ, các loại thuốc tây, ta đủ loại từ khi mới lọt lòng… Continue reading Có một tâm hồn thơ mãnh liệt trong cơ thể nhiễm chất độc da cam

Cô gái bại liệt vẽ tranh, viết hơn 400 bài thơ…. bằng miệng

 
GiadinhNetVừa sinh ra đã bị liệt toàn thân nhưng với nghị lực của mình, chị đã khiến nhiều người phải nể phục khi có thể vẽ tranh và viết hơn 400 bài thơ bằng miệng. Chị là Nguyễn Thị Hồng, 33 tuổi, ở xóm Vỏ, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
 

Cô gái bại liệt vẽ tranh, viết hơn 400 bài thơ.... bằng miệng 1

Bài thơ và bức tranh chân dung của chị Hồng.

Vừa sinh ra đã bị liệt toàn thân nhưng với nghị lực của mình, chị đã khiến nhiều người phải nể phục khi có thể vẽ tranh và viết hơn 400 bài thơ bằng miệng. Chị là Nguyễn Thị Hồng, 33 tuổi, ở xóm Vỏ, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Continue reading Cô gái bại liệt vẽ tranh, viết hơn 400 bài thơ…. bằng miệng

Vườn hoa em trái bốn mùa thầm xanh

  

(Dương Hiền Nga cảm nhận về chùm thơ lục bát trong tập:
“Mắt sóng” của
Phạm Thị Phương Thảo)

Bia 1

“Mắt sóng” là tập thơ thứ năm của Phạm Thị Phương Thảo, NXB Văn học năm 2013. Sức sáng tạo dồi dào cùng sự tươi mới của cảm xúc, tìm tòi trong phong cách thể hiện làm cho thơ của chị luôn mới. Trong  tập “Mắt sóng” có 55 bài nhưng đã có tới 13 bài lục bát, một thể thơ dễ làm nhưng khó hay, khó làm “mới”  nhưng khi đọc người đọc không khỏi bất ngờ bởi cái mới, cái lạ, mỗi ý thơ, mỗi bài thơ của chị căng đầy một sự dồn nén, ấp ủ rồi đến một lúc chín muồi con chữ tự tuôn trào thành những vần thơ trong trẻo, tươi non như những “búp xuân” trên cánh đồng thơ mơn mởn.

Đây là những vần thơ miêu tả hay nỗi lòng của người thơ:

“Dịu dàng ơi búp thanh tân

Bốn mùa ăm ắp lá mầm tươi non

 …

Vui buồn đan kín ước mơ

 Vườn em hoa trái bốn mùa thầm xanh”

 (Ngón xuân)

Continue reading Vườn hoa em trái bốn mùa thầm xanh

Cuộc cách mạng bình đẳng thi ca

HoaDamBut

 
Nói đến bình đẳng là chúng ta thường nghĩ đến chính trị và luật pháp—bình đẳng trước luật pháp, mỗi người một lá phiếu, cạnh tranh bình đẳng, tự do kinh doanh, tự do bầu cử và ứng cử… Chẳng mấy ai nghĩ đến bình đẳng trong thi ca. Và thực sự là xưa nay chẳng hề có bình đẳng thi ca.

Trong xã hội luôn luôn có một guồng máy định giá thi ca vĩ đại, gồm các biên tập viên thi ca tại các tờ báo, các nhà phê bình thi ca cũng là những người có tiếng nói lớn và, đôi khi, quyền quyết định tại các tờ báo, các thi sĩ đã có thơ đăng thường xuyên ở các tờ báo và đã xuất bản một hai tập thơ, các hội lớn của văn sĩ và thi sĩ, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo và các thầy cô dạy văn ở trường… Guồng máy vĩ đại bao trùm cả nước này sẽ định giá bài thơ nào hay, bài nào nên được đăng ở đâu, bài nào nên được vào các tuyển tập thi ca, bài nào nên được học..

Continue reading Cuộc cách mạng bình đẳng thi ca

Ba khúc dâng mẹ

Sen
 

PHẬT HÁT

Yếm thắm không bỏ bùa sư
Mà sư cứ đòi xoa yếm thắm
Mẹ bảo này trọc đầu
Trong ngực tôi có Phật
Trọc đầu có sợ ố cà sa ?

Giữa chợ lực điền yếm thắm gặp cha
Cha thẳng đường cày cầu xin yếm thắm
Mẹ bảo trong ngực tôi có Phật
Nếu ngực Phật anh thuận lòng
Thì yếm thắm này thuyền xin theo sông

Tôi ấp môi son vú mẹ
Lè phè nằm nghe Phật hát
Phật hát lời cò trắng muốt
Trắng muốt vì cò không phải là công
Phật hát lời cua đi ngang
Dẫu đi ngang cua vẫn chẳng lạc đường…

Suốt tuổi thơ tôi bú lời Phật hát
Quay sa mẹ hát lụa tơ
Ra đồng mẹ hát nắng mưa thuận hòa
Lời trăng thủ thỉ vai cha
Cỏ hoa mẹ hái bao la dành riêng con
Mẹ nhấn véo von
Lòng buồn cũng chớ nhuộm buồn có hoa
Ngày tôi phải rời xa yếm thắm
Mẹ bảo từ nay trong ngực con có Phật
Con thưa trong ngực con có mẹ
Mẹ khóc nhòe và ngực tôi bỗng hát
Lời mẹ hát cò lời mẹ hát cua
Ngực con đầy tiếng mẹ ru…
 

MẸ KHÓC

Mỗi khi con thấy mẹ ngồi bệt xuống hè
Tay cầm cây quạt nan
Là con biết mẹ đang đè buồn nuốt giận
Khóc ở trong lòng
Khóc trong lòng nước mắt chảy đi đâu?
Cầu cho nước mắt chảy vào gan vào ruột
Để nước mắt trôi ra ngoài
Nhưng nước mắt không chảy vào gan ruột
Mà chảy vào tim rồi hòa vào máu
Chẳng bao giờ con có thể lau

Những lúc ấy con qùy trước mẹ
Hai tay dụi gọi Mẹ ơi! Trên trời tất nhiên có Giời
Nhưng sao Giời nỡ bất công
Để con càng lớn càng cao mẹ càng già càng thấp

Ôm con mặt mẹ úp ngang vai
Mẹ bảo mẹ khóc mừng khóc phúc
Mừng phúc mẹ khóc như mưa
Phùn xuân rào hạ
Mầu khóc hồng son

Con tắm trong khóc mẹ ngập hồn
Tinh chất khóc ngấm vào da vào thịt
Con không chùi không lau
Con không trả khóc về mắt mẹ…

Con biết ở cõi trời
Mẹ muốn khóc cũng không thể khóc
Vì thế ở cõi người
Ngày ngày con đem tiếng khóc mẹ ra phơi
Lạy trời đừng phạt mẹ tôi
Tội đón nước mắt con bay ngược về mắt mẹ
Để mẹ lại được khóc
Âm dương cũng đạo làm người
 

MÙA TỨ QUÍ

Mười tám ngày tháng Ba (*)
Mẹ cãi dân văn không chịu trông vào (*)
Mẹ gọi rét Bân về cho cha mặc áo
Áo Bân dệt với mưa phùn
Cha mặc vừa in bảo ấm

Mười tám ngày tháng Sáu
Mẹ tần đồng xa mẹ tảo đồng gần
Tép cà gia bản
Cơm ngô khoai độn với sum vầy
No cười như mưa bóng mây

Mười tám ngày tháng Chín
Mẹ theo hịch dân văn trông ra
Váy phùng đòn gánh yếm tơ
Cùng dân làng mẹ đi đón mùa thu
Hớn hở mùa thu chào mẹ

Mười tám ngày tháng Chạp
Mẹ đồ xôi đóng oản
Mẹ nấu chè kho
Mẹ bảo khổ thế nào cũng phải vui ba ngày tết
Rước tổ tông về
Vì thế, và thế Càn Khôn đón mẹ tôi về mùa tứ quí

Mùa tứ quí có suốt quanh năm
Chả thế tôi làm sao thành một lực điền
Cầy cuốc quanh năm không mỏi mệt
Chả thế làm sao tôi yêu em
Yêu lâu thế mà sông tình vẫn đẹp
Chả thế tôi làm sao nuôi dậy các con
Nếp tẻ đều thành người tử tế

Lạy Càn Khôn, tôi nguyện sống tu thân theo mẹ
Sau trăm tuổi xin cho tôi về làm mùa phú quí
Để tôi hầu hạ mẹ tôi…

 
(*)Tính mùa theo ngũ hành
(**) Dân gian nói: Đói tháng Tám trông ra, đói tháng Ba trông vào.

Nguyễn Nguyên Bảy
Sài Gòn 1990-2010

 

Tiếng đàn của mẹ

 

Untitled-1

Nguyễn Anh Tuấn

Kính tặng mẹ

 

    Cứ mỗi sớm, nắng rọi một góc nhà

    tiếng đàn của mẹ lại ngân lên

    con ngắt dây điện thoại bàn và tắt máy cầm tay

    bất giác thở nhè nhẹ…

     

    Giờ đây, mẹ có quyền mơ mộng bên khúc Réveri1

    sau nhiều năm tháng, người mơ mộng là mẹ phải cố bơi trong dòng lũ đục ngầu

    dòng lũ từng bị ô nhiễm bởi lửa đạn khói bom, bởi máu tươi, bởi giọt nước mắt mồ hôi nhọc nhằn tem phiếu

    và giờ lại đang bị ô nhiễm bởi đủ thứ quái gở đời thường…

    Mặc kệ hết, mẹ thổn thức trong giai điệu của người anh nhạc sĩ quá cố: Tình yêu đôi ta lỡ làng

    để chiêm nghiệm cái “Bẽ bàng” 2 bằng hạnh phúc đơn sơ, nghèo nàn

    đẹp như bức tranh lụa tả người thiếu nữ mơ mộng

    của người chồng hoạ sĩ vẽ trong thời thất nghiệp…

    Bên cái thực tại hổ lốn, thực tại nhờ nhờ

    tiếng đàn của mẹ thanh tao, yếu đuối và tự tin biết chừng nào!

     

    Bản Sérenade của người nhạc sĩ thiên tài cái gì cũng dở dang

    tia nắng xẻ đôi,

    cơn mưa vội vàng chỉ kịp ướt lòng người

    nụ cười chưa kịp trao người yêu dấu, giọt lệ nuốt thầm một nửa

    Ai hôm nay không tìm thấy mình trong bản Giao hưởng dang dở 3?

    Con thay mặt cuộc đời cảm ơn mẹ.

     

    Cháu gái lên ba ngồi chễm chệ bên bà

    mắt nhìn hau háu vào những phím đàn ngọc ngà và đôi bàn tay nhỏ xanh xao như của bà Tiên

    miệng trẻ bi bô hát theo: lúc ở nhà mẹ là cô giáo

    Mắt bà vui rầng rậng nước.

     

    Mẹ cuốn con trở về nơi có lũ ống, lũ tràn , lũ quét, lũ muộn

    nơi rừng hoang bị đốn, thú hoang trốn chạy

    có những em bé ra vào lán cỏ như đàn thú nhỏ

    có nắm xôi trong ếp khẩu chấm chéo4 ngọt bùi đến độ làm con cay mắt

    có bước xoè chuếnh choáng ôm vào lòng tình thương không nghi kỵ

    con như nhìn thấy trong lòng bàn tay

    những nẻo đường đi của miếng ăn cái mặc, của lời nói bài ca dân dã

    chúng thật và xót xa đến nao lòng khiến con không sao giả dối nổi- cả những khi cần đến lời nói dối…

     

    Những nỗi ngao ngán chợt lặng đi. Nhưng chúng không tắt ngấm

    Và con ngơ ngác đi tìm cái mà chúng chuyển hoá thành. Chưa tìm thấy

    nhưng con chợt nhận ra:

    những dòng người đang nhớn nhác, những toan tính nhỏ mọn, những mời mọc trơ tráo

    Chưa tìm thấy

    nhưng có một sức mạnh vô hình đưa con trở về những năm tháng nẻo rừng

    thời mà cái đói thường ám ảnh con

    Nhưng chỉ cần ngả nghiêng bước trên con đường mòn

    sững sờ trước vệt ban rừng hoang dại

    là con thấy đời con không vô nghĩa

    và chỉ còn thấy khổ tâm khi không diễn tả nổi sự ngây ngất của mình

    cũng như, lúc này đây con day dứt hoang mang

    bởi không tìm được cách nắm bắt con thú hoang xúc cảm

    đang rải nốt mưa nốt nắng, nốt buồn nốt vui

    đang hiển hiện ra như cái đích của đời con…

                                                                                                                                                            2007      

                                                                            

____________

1. Bản nhạc “ Mộng mơ” của nhạc sĩ  Shuman

2. Tên một bài hát của nhạc sĩ Lê Yên

3. Bản giao hưởng của nhạc sĩ  Shubert

4. Làn đựng cơm nếp đan bằng mây, tre của đồng bào Thái- Thức chấm đồ ăn được làm từ nhiều loại gia vị trên rừng.