Logos – the Word – Ngôi Lời

Chào các bạn,

Hôm nay chúng ta nói đến một từ rất thú vị đã mấy ngàn năm triết lý Tây Phương. Đó là từ logos.

Logos là một từ căn bản trong triết lý Hy Lạp. Khi dịch sang tiếng Anh thì gọi là the Word (chữ Word viết hoa), và dịch sang tiếng Việt là Ngôi Lời. Điều thú vị là từ word (lời, chữ) là một từ rất giản dị trong mọi ngôn ngữ, chúng ta dùng từ đó trong khi nói chuyện hàng ngày, có gì mà lớn lao? What is the big deal ? 🙂

Logos, tiếng Hy Lạp viết là λόγος, đến từ λέγω (lego) có nghĩ là “I say”, “tôi nói.” Hầu như trong mọi ngôn ngữ, nghĩa nguyên thủy của logos (word) là từ, chữ, lời nói, ý kiến, cầu khẩn, mệnh lệnh, lý lẽ…

Heraclitus (535–475 trước công nguyên)—triết gia Hy Lạp nổi tiếng với câu “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”–có lẽ là người đầu tiên dùng từ logos với một ý nghĩa triết lý đặc biệt có nghĩa là một nguyên lý của trí tuệ và trật tự của vũ trụ. Tại sao như thế? Có lẽ là vì Heraclitus thấy là trong lời nói của con người có lý lẽ, lý luận, trí tuệ.

Sau đó các triết gia sophists dùng từ logos để chỉ tranh luận. biện luận, thảo luận. Rồi các triết gia Stoics dùng logos để chỉ đến một nguyên lý thiêng liêng khắp trong vũ trụ và làm cho vũ trụ sinh động.

Sau khi Do thái giáo bị ảnh hưởng của triết lý Hy Lạp, từ logos du nhập vào triết lý Do Thái.

Và trong Thánh Kinh, Gioan/Giăng/John, một trong 12 đại đệ tử của Chúa Giêsu, và là người viết một trong 4 quyển Phúc Âm (Gospel – tức là 4 quyển sách kể lại đời chúa Giêsu), mở đầu quyển Phúc Âm của ông bằng câu nói có lẽ là nặng ký và quan trọng nhất trong lịch sử Kitô giáo: In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God – Ban đầu đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. (John 1:1)

Như vậy Gioan/Giăng/John dùng từ logos, theo triết lý Do Thái, logos là thánh linh của Thiên Chúa, đúng truyền thống Do Thái như câu mở đầu của Cựu Ước (tức là câu mở đầu của toàn bộ Thánh Kinh): In the beginning God created the heavens and the earth. Now the earth was formless and empty, darkness was over the surface of the deep, and the Spirit of God was hovering over the waters – Ban đầu, Đức Chúa Trời sáng tạo trời đất. Lúc ấy, đất không có hình thể và còn trống không. Bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thánh Linh của Thiên Chúa vận hành trên mặt nước.

Vậy, logos hay the word là Thánh Linh của Thiên Chúa. Nhưng người Kitô giáo thường viết hoa từ Logos (Word) và đưa từ này đi thêm một bước xa hơn triết lý Do thái. Logos là Thánh Linh của Thiên Chúa, đúng vậy, và Thánh Linh của Thiên Chúa đó chính là Chúa Giêsu, người mà tín đồ Kitô giáo cho là chính Thiên Chúa xuống thế làm người, và tín đồ Hồi giáo cho là một Tiên Tri lớn của Thiên Chúa.

Từ đó, Logos, the Word, được dịch là Ngôi Lời trong Thánh Kinh Việt.

Nhưng mấy chuyện triết lý và đạo học này, dù là thú vị, thì ăn nhập gì đến chúng ta đang ăn bánh mình thịt mỗi ngày?

Thưa, nó rất quan trọng để chúng ta hiểu thế giới giáo dục, chính trị, xã hội ngày nay đang vận hành thế nào.

Trở lại Thánh Kinh. Chúa Giêsu, trung tâm điểm của Kitô giáo, nền tảng của văn minh Tây phương, là Word, Lời. Điều này tự động đặt ngôn ngữ, lời nói, tiếng nói… vào hàng đầu của văn minh Tây phương.

Chỉ một lời là có thể sáng tạo nhiều điều.

Trong Thánh Kinh, lúc sáng tạo vũ trụ, Thiên Chúa chẳng làm gì cả mà chỉ phán một lời “Hãy có ánh sáng” thì liền có ánh sáng. Thiên Chúa phán “Hãy có các vì sáng trên bầu trời để phân biệt ngày và đêm…” thì liền có mặt trời, mặt trăng, và các vì sao.

Chúa Giêsu là the Word, Ngôi Lời… là Thiên Chúa đến để nói với chúng ta những điều ta cần biết, là Thánh Linh của Thiên Chúa tràn ngập vũ trụ, là Lời của Thiên Chúa tạo ra vũ trụ, là người chuyển giao lời của Thiên Chúa từ trời cao đến loài người…

Chính vì Lời quan trọng như thế cho nên trong truyền thống Kitô giáo không có ngồi Thiền, mà chỉ có cầu nguyện—tức là tâm sự tỉ tê với Chúa và các vị thánh. Trong Kitô giáo, quán tưởng không quan trọng bằng thuyết giảng và thảo luận thánh kinh.

Và trong khi Lời rất quan trọng trong tư duy Tây Phương, thì ở Đông Phương ta gạt bỏ lời càng nhiều càng tốt: Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh – Đạo mà có thể gọi là Đạo thì không là Đạo vĩnh cửu, tên mà có thể gọi là tên thì không là tên vĩnh cửu. (Đạo Đức Kinh). Trong các truyền thống Thiền thì “vô ngôn” (không lời) là một trong những cách giáo dục thiền sinh thịnh hành nhất.

Và trong đời sống của ngày nay ờ Tây phương, dân chủ là cách sống chính. Và dân chủ thường có một nghĩa là phải nói lên những gì trong lòng—có ý kiến đóng góp thì nói, có bực mình thì nói, vui thì nói, buồn thì nói, khen thì nói, phàn nàn thì nói…

Mô hình quản lý trong gia đình ra đến quốc gia ở Tây phương là nói, nói, nói và nói—con cái nói với bố mẹ, học trò nói với thầy cô, dân chúng nói với nhà nước… Trong cơ sở làm việc càng nói nhiều, càng thảo luận nhiều, thì tính sáng tạo càng tăng, để phát triển, tiến hóa, cạnh tranh…

Tự do ngôn luận, tự do thảo luận, tự do lập hội hè để cùng nói và cùng thảo luận, tự do biểu tình, tự do phê phán… không phải chỉ là do các quý cụ chính trị gia và luật sư đẻ ra, mà nó đã nằm trong máu huyết Tây phương cả mấy nghìn năm, từ khi người Tây phương chấp nhận Ngôi Lời đi vào lòng họ.

Nói lòng vòng dài thế để các bạn hiểu được tại sao ở Tây phương thì cái gì cũng là nói nói nói. Và ở Đông Phương chúng ta thì cái gì cũng là im im im.

Chúc các bạn một ngày nói nhiều? Hay vô ngôn? Hay là đâu đó ngay chính giữa?

Mến,

Hoành

© copyright 2012
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

10 thoughts on “Logos – the Word – Ngôi Lời”

  1. Hi Khanhnhi,

    “Hô khẩu hiệu nhưng lại không làm giống như những gì đã nói ra”. Nói kiểu này thì mình đã lên hàng thầy của cả chính trị gia rởm ở Âu Mỹ 🙂

    Like

  2. Cám ơn anh Hoành về bài viết (cháu xin phép chuyển từ gọi chú sang gọi anh cho tiện). Từ khi thực sự sống ở một nước Tây phương em cũng nhận ra sự khác nhau về cách xử sự của người Việt mình và người phương Tây. Chẳng hạn như cách cử xử trong gia đình người Việt mình thường ít thể hiện tình cảm với người thân trong nhà bằng lời nói. Mình muốn mọi người làm điều đó cho mình nhưng mình không nói ra mà thường để người thân mình tự hiểu rồi làm cho mình. Đôi khi, cách cư xử này gây tổn thương cho chính bản thân mình và những người thân của mình. Bài viết của anh càng làm cho em hiểu rõ hơn nguyên nhân sâu xa của sự khác biệt này.
    Tuy nhiên em thấy ở nước mình bây giờ mọi người rất thích hô khẩu hiệu nhưng lại không làm giống như những gì đã nói ra. Như vậy có phải là chỉ thích nói không?

    Like

  3. Hi Huanito và Phong Lan,

    Phong Lan nói rất đúng. Ở Tây phương mà mình ít nói, ít tranh luận, thì người ta thường cho là mình tự kỷ. Nhưng ở cấp rất cao, nhất là những người có đời sống tâm linh mạnh, thì họ cũng thâm trầm, ít nói.

    Giới chính trị gia Tây phương rất thích nói, có thể nói tràng giang đại hải không nghỉ.

    Nhưng ở Tây Phương rất nhiều stress. Và khoảng 20 năm nay, ở Âu Mỹ có truyền thống New Age, du nhập rất nhiều tư tưởng Đông Phương–Lão tử, PHật giáo, Yoga… để học tĩnh lặng phần nào.

    Ngược lại ở đông phương chúng ta, có lẽ chúng ta cần năng động hơn trong đời sống cộng đồng, xã hội.

    Anh nghĩ rằng cách hay nhất là thực hành cả hai: Luôn năng động đóng góp, phân tích, thảo luận các vấn đề xã hội, giáo dục, kinh tế… nhưng vẫn thực hành tâm tĩnh lặng thường xuyên, để mình có thể nói năng chính xác hơn, không nổi giận khi thảo luận, khiêm tốn thành thật và yêu người khi thảo luận.

    Like

  4. thanks anh Hoành.
    Người Việt có câu im lặng là vàng. Và có nhiều người cho rằng tĩnh lặng là im lặng. Vậy phải chăng nói và nói như người Tây Phương là không tốt?
    Anh Hoành đã đặt ra những câu hỏi để cho chúng ta trả lời. Nói hay ko nói ko quan trọng băng tâm thế của người nói. Chỉ cần chúng ta đứng ở vị trí của 1 người khiêm tốn, yêu người, chân thành và tĩnh lặng chúng ta sẽ biết nói hay là không
    Chúc anh chị 1 ngày sôi nổi trong tĩnh lặng

    Like

  5. Anh Hòanh ơi,
    Nếu sống ở phương Tây mà mình ít nói ,ít tranh luận,nhiều cảm xúc chất chứa trong lòng , chắc họ cho mình tự kỉ anh nhỉ ,còn phương Đông thì thấy người nói nhiều rất phiền phức ,hihi

    Like

  6. Anh Hòanh ơi,
    Em không được biết nhiều về truyền thống Thiền,vô ngôn là các thiền sinh lúc tu tập không nói gì ạ,anh kể cho em nghe thêm về điều này với ạ.Từ trước em vẫn nghĩ vô ngôn nghĩa là vẫn nói,vì ngôn ngữ là công cụ chính để giao tiếp ,nhưng nói từ vô ngã,vì người mà nói,không vì mình mà nói,em vẫn nghĩ thế anh ạ. Anh có thể chia sẻ những hiểu biết của anh về vô ngôn trong Thiền không ạ,em cảm ơn anh.

    Liked by 1 person

  7. Rất hay, em mới được nghe và hiểu một cách thấu đáo như vậy lần đầu tiên. Cám ơn anh nhiều.

    Like

  8. Cám ơn anh Hoành,
    Bài viết của anh giúp em hiểu thêm người để yêu người.
    Việc nói nhiều, nói ít hay vô ngôn là tùy theo hoàn cảnh, duyên nghiệp nhưng đều dựa trên nền tảng khiêm tốn, thành thật và yêu người.

    Like

  9. Cấu trúc bài này của anh thật … bất thường so với phong cách anh thường viết – logic, rõ ràng và có kết luận. Một bài khơi gợi mà không kết luận.

    Em cũng đứng giữa hai đường: vô ngôn hay nói ? Có lẽ “vô ngôn” để sự vật được bộc lộ một cách tự nhiên nhất và sự quan sát, cảm nhận của mình được trong lành và sâu sắc nhất. Nhưng cũng cần nói (và hỏi thăm) để kết nối mình với sự vật, và tạo cơ hội cho sự vật bộc lộ những khía cạnh khác nhau của nó, sự quan sát sẽ đa diện và đầy đủ hơn. Cần cả hai phải không ạ?

    Và hình ảnh lý tưởng nhất là không nói mà hiểu nhau, hiểu rằng người kia hiểu mình và mình hiểu người kia, một ánh nhìn, một khóe cười để nhận nhau là tri kỷ! 🙂

    Like

  10. Hi anh Hoành,
    Khi tâm ta tĩnh lặng thì sẽ biết lúc nào nên nói hay nên im, có phải không anh?
    Anh khỏe ạ!

    Like

Leave a comment