Thủng thẳng với thơ… (phần 6)

 

    Vấn đề được tôi quan tâm nhất trong khi làm thơ là cái đạo mà thuyền thơ chở. Thuyền thơ của mỗi thế hệ nhà thơ phải chở cái đạo của thời đại mình. Cái đạo nào? Cái đạo mà thời đại quan tâm nhất. Trong phạm vi một xứ xở thì đấy là cái đạo mà đồng bào xứ xở quan tâm. Cái đạo khái quát được xã hội mà lại rất riêng – riêng cho từng số phận con người. Nguyễn Du đã đau khổ với mình về thân phận con người. Chẳng lẽ chúng ta ngày nay lại không đau khổ về thân phận con người của thời đại chúng ta?  Xã hội thời Kiều có vấn đề của thời Kiều, xã hội thời ta có vấn đề của thời ta . Thời Kiều ở trong truyện Kiều, lẽ nào thời ta không hiện diện trong thơ ta?

Bạn đường thân yêu

Không người làm thơ nào lại không có những bạn đường thân yêu của mình. Người có  Puskin, người có Erenbua, người có Aragông, người có Lý Bạch, Đỗ Phủ. Tôi có nhiều người bạn, nhưng người bạn đường thân yêu nhất của tôi là Truyện Kiều.

Vì sao lại có sự lựa chọn lạ lùng ấy?

Trước hết, vì Truyện Kiều, bản Việt ngữ hay nhất mọi thời đại của thi tài Nguyễn Du. Nhưng thế giới có nhiều kiệt tác văn học thần thánh, cớ sao tôi  lựa chọn Truyện Kiều? Đáp: đó là sự thích của tôi. Truyện Kiều đã chở một nội dung mà cho đến nay vẫn nóng hổi với người đọc và người đọc vẫn còn tranh cãi nhiều về nó, đương nhiên nôi dung ấy được chuyển tải bằng một hình thức rất Việt Thi. Hai trăm năm có thể lâu hơn nữa / Thúy Kiếu ơi nàng sống tháng năm dài ( thơ Lý Phương Liên).Còn tôi thì đã viết:/Thời gian đọng lại buồn tênh/ Mỗi trang Kiều một mông mênh cõi người…Tôi lại viết:/ Thương thay cho kiếp đoạn trường/ Cởi ra chưa hết lại luồn thêm giây…

Trong suốt cả quá trình yêu thơ, tôi đã thực sự chọn Kiều là bạn đường thân  thiết và Kiều quả đã trở thành bạn đường chí cốt của tôi.

Vấn đề được tôi quan tâm nhất trong khi làm thơ là cái đạo mà thuyền thơ chở. Thuyền thơ của mỗi thế hệ nhà thơ phải chở cái đạo của thời đại mình. Cái đạo nào? Cái đạo mà thời đại quan tâm nhất. Trong phạm vi một xứ xở thì đấy là cái đạo mà đồng bào xứ xở quan tâm. Cái đạo khái quát được xã hội mà lại rất riêng – riêng cho từng số phận con người. Nguyễn Du đã đau khổ với mình về thân phận con người. Chẳng lẽ chúng ta ngày nay lại không đau khổ về thân phận con người của thời đại chúng ta?  Xã hội thời Kiều có vấn đề của thời Kiều, xả hội thời ta có vấn đề của thời ta . Thời Kiều ở trong truyện Kiều, lẽ nào thời ta không hiện diện trong thơ ta?

Sự thể như thế này, mỗi một khi nhàn rỗi, mỗi một khi sắp nổi hứng thơ, là tôi lại đọc truyện Kiều, và lại tìm thấy trong đó rất nhiều gợi ý cho những mênh mang của mình. 3254 câu thơ chở theo biết bao nhiêu ý tưởng, bao nhiêu dày vò, bao nhiêu hình ảnh của cuộc đời. Thực chưa có một tập sách nào thâu tóm được cái tuyệt đỉnh rộng lớn ấy. Vẫn có người cho rằng Kiều hay cái nỗi gì, đọc câu nào cũng phải xem chú thích, bình giải. Nó hay ở chỗ đó đó, thưa người. Thơ hay ở chỗ không thể đọc trôi tuột đi, mà phải ngẫm nghĩ ngân nga.

Không phải là ai cũng đã một lần đọc hết truyện Kiều, và tất nhiên không phải ai cũng hiểu truyện Kiều, hiểu được tâm sự của tác giả gốc (?) và tác giả Việt ngữ Nguyễn Du. Chẳng có gì phải xấu hổ khi thừa nhận Nguyễn Du là người đã Việt ngữ tài tình Truyện Kiều, xuất xứ từ một nền văn hóa khác, thành Truyện Kiều Việt Nam. Cần hiểu đúng và công bằng giá trị thật của truyện Kiều và giá trị thật của Văn bản Gốc và của Nguyễn Du thì mới cảm biết hết cái hay của Khúc Đoạn Trường mà Cụ Nguyễn khi làm xong nó, vỗ bụng mà hát lời Mua vui cũng được một vài trống canh

Tôi đã không dành đôi ba trống canh mua vui Truyện Kiều, mà đã yêu và lựa chọn Truyện Kiều là người bạn đường chung thủy đời thơ.

Tôi đọc truyện Kiều hầu như là hàng ngày, và hàng ngày lại thấy những điều mới, những gợi ý thú vị,bổ ích. Cái lạ là, dù tôi dự định viết thơ chủ đề gì, khi đọc lên, cũng đều thấy truyện Kiều đã nói thay mình rồi – vì thế, tôi gọi Kiều là cuốn bách khoa toàn thi, là chân dung hoàn chỉnh nhất giữa ỳ tưởng nội dung và hình thức nghệ thuật.

Truyện Kiều là trọn vẹn cuộc đời tài hoa hăng trầm của Nguyễn Du. Thăng trầm ấy, nghĩ cho cùng cũng như: /Tiếc thay một đóa tra mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về…/ Và trà mi đã giận dữ thưa lời: Cớ sao thơ tiếc cho hoa/ Mơn mởn đôi gò yếm thắm/ Nhụy nõn thơm da/ Cỏ tình sương ngậm/ Tấm yêu đẹp mấy khắc giờ / Cửa trinh rồi úa/ Không tình phí một đời hoa/ Sao thơ không là ong nhỉ/ Vần suông buông tiếng ngân nga?…/

Truyện Kiều là đỉnh của nhửng áng văn chương mà ngày nay chúng ta có thể kiêu hãnh kế thừa. Cũng vì có truyện Kiều ( và một số thi phẩm khác, không dẫn ở đây) nên chúng ta đã tự coi nghệ thuật thơ ca Việt Nam có cái gốc, và từ cái gốc đó đâm cành, nẩy lộc, ra hoa kết trái những tinh hoa đời sau.

Nhân đây cũng cần phải nói rằng: Văn học dân gian và dòng văn học bác học ở ta luôn luôn tồn tại và đồng hành, nhiều lúc nhập chung vào một dòng, không còn phân biệt được công trình cá nhân hay nhiều đời cộng chung. Sự hòa đồng này đã bất chấp sự băng hoại của thời gian, mặc dù chỉ được nhân bản miệng, nhưng sự tồn tại vẫn là vĩnh viễn. Ngày nay cũng vậy, thơ ca của chúng ta (tuy viết bởi từng tác giả) nhưng không thể không hòa vào quần chúng – Đây là nói sự hòa đồng bằng ý tưởng – chúng ta không thể viết ngược lại những điều nhân dân nghĩ. Ít lâu nay, người ta có đề cập nhiều đến sự kế thừa, đến việc học tập của dân gian, nhưng nghiêng về phía kế thừa, học tập lối biểu hiện, niêm luật, hình thức, mà sự kế thừa, học tập về nội dung không được chú trọng một cách thích đáng.

Chữ nhân trong văn học dân gian là cái gốc, trên cái gốc đó là chữ trung, chữ hiếu, chữ tiết, chữ nghĩa. Tất nhiên ngày nay ước lệ về những phạm trù đó có thay đổi, nhưng thay đổi là thay đổi về định nghĩa của phạm trù, chứ nội dung biểu đạt của văn học nhất định vẫn chỉ là gốc nhân trên đó là những cành đạo đức. Ngoài cái đó, văn học không còn là nhân học nữa.

Cũng có người cho rằng thời đại ngày nay khoa học và kỹ thuật đã phát triển, quan niệm về văn học phải rộng hơn. Đúng, rộng hơn là rộng về đề tài, về hình thức biểu hiện, làm phong phú thêm thế giới mà con người sống, nhưng đối tượng văn học vẫn phải  là nhân văn với hai chữ Con Người viết hoa.

Khi đã thống nhất về đối tượng miêu tả của văn học thì vấn đề đáng tranh cãi không còn là vấn đề nội dung, mà vấn đề là tranh cãi thường xoay quanh các hình thức biểu hiện.Còn có gì đáng tự hào hơn là có một cuốn sách đã đạt đến thành công trên cả hai phương diện nội dung và hình thức – đó là truyện Kiều Việt ngữ của dân ta.

Ngẫm cho kỹ Truyện Kiều hẳn sẽ tìm thấy được nhiều câu trả lời cho những suy nghĩ thường trực, như: Đề tài nào là đề tài vĩnh cửu? Hình thức nào là hình thức vĩnh cửu? Người cầm bút cần sống và viết như thế nào? Trả lời được những câu hỏi ấy chúng ta sẽ thấy trút được hầu hết các gánh nặng và yên tâm hơn trên con đường sáng tạo của mình.

Có thể nói một cách tóm tắt: Đề tài vĩnh cửu là đề tài miêu tả cuộc sống sâu sắc, nhiều mầu sắc của con người. Nếu Truyện Kiều chỉ là câu chuyện tình chìm nổi thi vị thì chắc gì nó đã có sức sống dài đến thế! Nói đến hình thức, quyết không thể nói đến cũ và mới, chỉ thời trang mới có mốt cũ và mốt mới. Mốt vốn là thị hiếu trong từng thời kỳ, chứ mốt không phải là nghệ thuật. Thời trang khi thịnh hành chiếc cravát to bản, khi thịnh hành chiếc cravát nhỏ và ngắn, có loại nào đẹp hơn loại nào đâu. Do vậy, khi đã là bài thơ hay, thì hình như hình thức không phải là điều đáng bàn nữa. Có ai chê bài “Đèo Ngang” (thể bát cú) là thể thơ cũ đâu. Các bài Thu của Nguyễn Khuyến cũng bát cú đấy chứ! Không phải chỉ có tự do mới là thể thơ mới, còn các thể 6/8, tứ tuyệt, song thất lục bát…đều cổ rồi và không nên sử dụng nữa. Phàm đã là hình thức thơ, thì không có hình thức nào xếp vào viện bảo tàng cả. Điều quản ngại nhất là bài thơ cần có sự hòa đồng giữa nội dung và hình thức. Đã là bài thơ hay thì hai mặt đó đều thành công. Truyện Kiều đã sử dụng thể 6/8, thử hỏi 3254 câu, có bao nhiêu câu cổ cũ? Sự thật là truyện Kiều  đọc luôn thấy mới, hiện đại, thời nào cũng hiện đại.

Người cầm bút hãy sống một cách đời nhất và viết những trang mình thuộc nhất trong cuộc sống của mình. Đã là những trang đời sống thì trang nào không con người! Nói như vậy có phải quá đề cao truyện Kiều ? Câu trả lời tùy thuộc vào bạn đọc.

Mỗi người cầm bút tự chọn cho mình một người bạn đường thân yêu không phải để làm giống như người bạn đường ấy, mà để có nơi tâm sự, có nơi tỏ mối tình suốt đời say đắm với tình thơ.

Tôi đọc được không nhiều những tác phẩm của các nhà thơ thế giới, do vậy, tầm mắt tôi, thú thực, nhiều hạn hẹp, song cũng may tôi không hoảng loạn trước những tân kỳ, mà tôi biết chắc là nhiều bạn tôi đã mắc phải căn bệnh đó. Mình là người làm thơ Việt Nam, thì thơ mình phải là thơ Việt Nam, pha tây một chút Tagor, một chút Êsênhin, một chút Bôđờle, một chút Elua… ắt thành thập cẩm thơ. Thịt gà luộc, thịt lợn luộc, thịt bò luộc…cái luộc rất Việt Nam, rất mộc ấy hỏi thua kém gì những món nướng, sốt, tần của các  cộng đồng dân tộc khác.

Trên con đường tìm bạn, cũng ví như tìm vợ, phải tùy thuộc vào cái tạng của mình, chứ không thể bắt chước và đua đòi theo người khác. Cô ấy phải xinh đẹp, thông minh, giỏi dang…nhưng cô ấy có phải là đối tượng của mình không và câu hỏi luôn hai chiều mình yêu người ta nhưng người ta liệu có yêu mình? Cũng như trách người sở khanh sao mà quên xem mình chính chuyên hay đĩ thõa. Mời đọc Quà Tặng Của Nguyễn Du

/ Biết rằng sợi tình/ Nhân gian không dứt được/ Lại biết rằng sợi tình/ Người là tiếng hát/ Người là khăn tang/ Người chếnh choáng men say mờ mắt/ Người gặp bão giông/ Người khao khát vào bờ…

/ Nên Nguyễn Du không cho Sở Khanh chết/ Dù thịt nát xương tan ở pháp trường Kiều/ Người tạc hình Sở Khanh vào bia miệng/ Quà tặng cho nhân gian

/ Sở Khanh chải chuốt văn nhân / Tiên tích việt lời lời có cánh/ Ngựa truy phong bên thềm…/

Tôi đánh giá rất cao việc tìm người bạn đường nên viết chương này. Xin bạn thể tất, nếu vấn đề này đối với bạn chỉ là điều vô nghĩa.

4 thoughts on “Thủng thẳng với thơ… (phần 6)”

  1. Xin cám ơn Bạn Đỗ Thu Hằng đã giới thiệu các thi phẩm của người thơ Nguyễn Nguyên Bảy.

    Vừa được đọc bài của anh lại vừa được đọc thơ của anh, thật không còn gì thú vị bằng anh Bảy ạ!

    Cám ơn anh. Phượng thăm anh chị sức khỏe & an lạc. 🙂

    Liked by 1 person

  2. Không hẳn những điều Thầy NNB viết Thủng Thẳng với thơ đã là hay, nhưng tôi tin là hoàn toàn đúng, bởi thầy đã trải qua những sáng tạo thơ ca lạ lùng và đã viết nên nên những tuyệt phẩm thơ.
    .
    Để chứng minh nhận định của mình, tôi xin copy lại nguyên trang mạng dưới đây của nhạc sĩ trẻ Thiên ca và Tiến sĩ báo chi Đổ Thu Hằng đã đăng 7 tuyệt phẩm thơ của Nguyễn Nguyên Bảy dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long Hà Nội
    .
    Nguyễn Nguyên Bảy và Bảy tuyệt phẩm thơ dâng tặng Kinh Thành Cổ Tích

    Tác giả Entry này: Thiên Ca (Hằng Đỗ cop sang mời cả nhà cùng thưởng thức nhân dịp 1000 năm Thăng Long- Hà Nội)

    Nhân dịp Thăng Long Hà Nội 1000 năm tuổi, Người thơ Nguyễn Nguyên Bảy – Đại sư phong thủy BNN viết 7 tuyệt phẩm thơ dâng tặng Kinh Thành Cổ Tích. Hà Nội – nơi ông sinh ra, lớn lên và chắp cánh phiêu du. Hà Nội trong ông muôn đời vẫn vậy, 40 năm tha hương đi khắp 5 châu bốn biển, nhưng ở bất cứ phương trời nào tình yêu dành cho Hà Nội vẫn thủy chung, tận tụy.

    Hôm nay một lần nữa Thầy lại dạy con một bài học về Tình yêu. Hôm nay con được thầy tiếp thêm sức mạnh, niềm tin và sự lạc quan của Thầy.

    7 bài thơ này của thầy con xin được chép ra đây chia sẻ cho bạn bè, cho những người yêu Hà Nội và cả những người chưa một lần hít hà hương Thu Hà Nội, say cái tình của thành phố Rồng bay này. Hà Nội thay đổi diện mạo từng ngày, có thể bụi bặm hơn, chật chội hơn nhưng nhà vẫn là nhà, Tình yêu vẫn trọn vẹn là tình yêu, Gió vẫn là gió thời đó, thổi men yêu thương ấm lòng những đứa con xa nhà. Dù là thời chiến “Nơi ấy Đào Nhật Tân vào chấn cửa Đông / Áo trấn thủ phủ rêu cửa Bắc / Kèn tàu hừng hực cửa Nam / Quốc Ca hát đỏ sông Hồng / Nơi ấy là Kinh Thành Cổ Tích / Nơi ấy là đời tôi” hay thời bình “Em đứng bên hồ / Phong phanh liễu / Mưa phùn chuốt liễu mưa xanh / Từng nhành tóc xõa…”.

    Hôm nay thầy tặng con 6 chữ. Hôm nay con bắt đầu nhìn thấy con đường mình sẽ đi. Con đường ánh sáng và yêu thương.

    Yêu Thầy.

    Nguồn : Gặp thơ mời thơ (2)
    360plus.yahoo.com/dothuhang
    360plus yahoo.com/thienca

    Bài 1
    CA TRÙ MÙA THU

    Phút giây ấy với tôi là duyên số
    Hai tình cờ gặp nhau
    Em trao chỉ một gật đầu
    Đôi mắt cười mệt mỏi
    Chỉ thế thôi vồi vội
    Chim bay về tổ chiều thu

    Tôi đi theo hương thu
    Hồn tình sét đánh
    Xóm Hạ Hồi thoang hương sữa lạnh
    Hoa từ vú lụa thơm ra
    Tôi rảo quanh lặng lẽ Nguyễn Du
    Cửa sổ nhà ai bóng thúy
    Tôi vòng ra phố Huế
    Chật khoang tầu điện gió thu
    Những mái phố ca trù
    Cửa chợ Hôm trễ yếm
    Tiếng rao tầm quất nhạc xèng
    Em ở đâu giữa Hànội dọc ngang
    Ba sáu phố phường khép mở
    Một nửa của tôi ơi
    Hàng Đào,Hàng Lược,Hàng Vôi
    Nợ tình nỡ nao Cấm Chỉ
    Xin nghe tôi một lời chém đá
    Đêm nay rồi đêm mai
    Thu nay rồi thu mai
    Năm nay rồi năm mai
    Em là gió anh cũng tìm thấy gió
    Thu dẫn tôi vào ngõ nhỏ nhà em
    Khu cổ tích thuyền rồng
    Hồ thu vua trả kiếm
    Đâu thành quách dương đài nguyệt điện
    Nhà em nóng rực như lò
    Đun cháy mọi điều mơ mộng
    Em là cô thợ ca ba
    Tôi lặng mình và chợt hiểu ra
    Có một Hànội khác
    Một Hànội nửa tôi.

    Chúng tôi bên nhau riêng một trời
    Riêng một đất
    Đường Cổ Ngư ngắn chừng gang tấc
    Trăng vàng rơi qua kẽ tay
    Trôi bồng bềnh rồi rơi vào sóng bạc
    Mắt sướng thi nhân ngơ ngác
    Cổ thụ ngồi trải lá vàng khô
    Chúng tôi rù rì,rù rì
    Những lời say ong mật
    Tạ trời ban cho hạnh phúc
    Cánh hồn bay chơi vơi.

    Một nửa tôi không lời
    Thương đau có gì phải kể
    Cảnh mất cha đổ buồn mắt mẹ
    Mất mẹ trút khổ vai em
    Mười bảy tuổi mỏng manh thuyền
    Chèo chống đàn em dại
    Tôi là người Hànội
    Thuộc rất nhiều Hànội văn chương
    Hànội ca trù lúng liếng
    Hànội Ba Đình nắng
    Hànội sông Hồng nước lên
    Nhưng Hà Nội em
    Tôi chưa hề biết
    Ca trù thuyền phá luật
    Đàn gảy nín cung thương
    Trống chầu giữ nhịp
    Tôi kịp lên thuyền
    Hợp sức cùng em vượt thác

    Cảm động tình Bích Câu thuở trước
    Em từ tranh tố nữ bước ra
    Tôi hân hoan đón kỳ ngộ bây giờ
    Duyên Nhật Nguyệt
    Đời em mưa phùn gió bấc
    Áo tình một chiếc phong phanh
    Trao nhau tấm chân thành
    Nụ hôn người Hànội
    Nụ hôn tự biết thăng hoa

    Yêu em thế nào tôi chẳng thể nói ra
    Bởi đôi tay biết nói
    Lời mồ hôi,lời giá cóng
    Lời mềm nặn sữa nuôi con
    Lời thèm mắt ngủ
    Lời kẽo kẹt làm chồng làm vợ
    Hoa Ngọc hà xuống phố ban mai
    Hànội mình những năm bảy mươi
    Kỳ ngộ tình bao nhiêu trang đẹp
    Cô bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc
    Thiệp hôn phủ xác nửa mình
    Anh pháo thủ phố hHàng Mành
    Gặp nửa mình tiếp đạn
    Anh thợ điện ngoài Ô Quan Chưởng
    Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên
    Anh giao cận Kim Liên
    Ao thu nửa mình đứng tắm
    Kể sao hết những Tú Uyên muôn vạn
    Gặp muôn vạn Giáng Kiều mọi nẻo thành đô
    Những kỳ ngộ đẹp như thơ
    Tình mình sánh làm sao được
    Ấy là lẽ vì sao em không khóc
    Trước gian nan tem gạo phiếu tiền
    Ấy là lẽ tôi nói lời yêu em
    Biết là mình đáng sống
    Ấy là lẽ vì sao tứ thời dép lốp áo xanh
    Dép lốp bè trầm,áo xanh bè bổng
    Gió kinh thành ngũ sắc hoan ca
    Ấy là lẽ vì sao sao xa
    Vào mắt em lay láy
    Ca trù mùa thu…

    Bài 2
    THUYỀN TÌNH

    Con cái đứa nào cũng đứt ruột đẻ ra
    Nhưng Mẹ thương con nhất
    Thương thằng mộng mị thơ ca
    Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn
    Cuộc đời làm sao đủ ván
    Đóng nên thuyền tình
    Biển gần bờ cá cạn
    Khơi xa sóng kình
    Mẹ gieo quẻ tiền chinh
    Hai chinh úp sấp
    Công sinh thành con chưa báo đáp
    Cớ chi để Mẹ lo buồn
    Con yêu em thật lòng
    Nợ vay từ thuở hư không
    Nắm tay nhau kết phiến thuyền tình

    Mã quẻ chinh thần thánh không lời
    Linh cảm bể yêu sóng lớn
    Để thuyền tình không đắm
    Thuyền tình phải khẳm yêu
    Mẹ lội qua sông
    Mẹ ra tận biển
    Mẹ bóc yếm đào
    Mẹ nhào sữa kiệt
    Chét khe ván mỏng thuyền yêu
    Mẹ đan tay đôi lứa vào nhau
    Lời ngàn cân cầu nguyện
    Thuyền yêu qua gió giông
    Thuyền yêu qua trăng hoa
    Ván sữa chung tình

    Buông nguyện cầu
    Mẹ gieo quẻ tiền Chinh
    Một chinh cười
    Một chinh khóc
    Mẹ tạ Âm Dương
    Thấu cảm lòng tình
    Con nép khóc gục đầu ngực Mẹ
    Vòng tay già gầy guộc ôm con
    Thuyền tình hạ thủy

    Bài 3
    VƯỜN CHIỀU

    Một vườn chiều có thực
    Máy bay địch đã bay xa
    Hai đứa nhoi lên từ hầm trú ẩn

    Và một vườn chiều khác hẳn
    Tiên Dung căng màn trên cát mềm
    Sao em chọn chỗ này để tắm ?
    Chử Đồng Tử tôi nghèo lắm
    Khoan khoan xối nước khoan khoan
    Chớ đễ thịt da tôi đắc tội
    Chớ để đau lòng mẹ cha…

    Em là hoa không hoa
    Mắt cười xanh lắm
    Trong mắt ấy thật nhiều ảo ảnh
    Như thực lại như mơ
    Đôi mắt chào tôi quen tự ngày xưa
    Cái ngày xưa cổ tích
    Em mời tôi nhấm nháp táo dầm
    Chưa mở đèn vườn chiều âm âm
    Ghế đá lạnh se sương sớm
    Em bảo từ phía tương tư thơ em đến
    Đòi tôi cho nghe thơ

    Thơ hơn mọi bài thơ
    Nước trôi nước trôi xiêm áo cát
    Tình yêu đầm Dạ Trạch
    Thanh cao vòi vọi Tiên Dung

    Tôi giáo đầu em nghe một tỏ tình buồn
    Về căn nhà tôi ở
    Khói hun muỗi khét mùi hương giẻ
    Muỗi bay
    Muỗi bay có làm em sợ ?
    Tôi đang độc ẩm cuồng say
    Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói
    Bao nhiêu triệu người đang đói
    Có thơ uống như tôi đâu
    Sao em lại cúi đầu
    Thương tôi mắt khóc

    Tiên Dung không khóc
    Nàng nắm tay Chử Đồng Tử đỡ lên
    Xối nước tắm cho chàng
    Và hát….

    Tôi đọc em nghe thơ một người tàng tật
    Hoảng loạn chân trên đường
    Vai quẩy gánh buồn
    Tưởng thóc giống quơ tay tung vãi
    Đôi khi giật mình sợ hãi
    Lấm lét nhìn quanh một sắc áo vàng
    Em nắm tay tôi sát lại bên mình
    Như sợ tôi bị bắt
    Tóc em đôi ba chiếc
    Rối rít tìm mặt tôi

    Tiên Dung thánh thót từng lời
    An ủi Chử nỗi lo cha mẹ nàng phạt vạ
    Cha mẹ sẽ tác thành chúng ta nên vợ nên chồng
    Nghèo không có tội chàng ơi…

    Tôi đọc em nghe một khúc không lời
    Tình yêu chẳng bao giờ xưa cũ
    Hoan phối tả trên trống đồng Ngọc Lũ
    Trần tục thăng hoa
    Giếng Ngọc kể chuyện Cổ Loa
    Trương Chi tương tư
    Trương Chi hát
    Trương Chi nhớ thương em
    Vườn chiều cười khúc khích
    Trong em nhìn,tôi như mới mười ba
    Mười ba ngây thơ
    Mười ba mơ hồ
    Vồi vội nụ hôn hoa sữa

    Trời cũng như trăng trời thương Chử
    Nhưng Chử tránh mặt trời
    Chử không muốn xóm làng xấu hổ
    Chử không khố đóng nàng ơi
    Trăng đầy rồi trăng vơi
    Trăng cấy lúa bắt còng cùng Chử…

    Tôi đọc em nghe thơ diêm dân đồng bể
    Biển quê mình nhiều thế
    Nắng quê mình nhiều thế
    Be bờ phơi là thành muối trắng tinh
    Rỗ mặt vẫn nặng lòng làm muối
    Muối nhiều thế mà bao đời vẫn đói
    Chẳng lẽ thượng du không phải đồng bào ?

    Rồng rắn lên mây trẻ hát đồng dao
    Trẻ hát đồng dao lên mây rồng rắn
    Thà là đừng nhiều nắng
    Thà là đừng nhiều bể
    Câu đồng dao trẻ hát rối mù
    Tiên Dung hát ru
    Bài xe tơ dệt vải
    Chử hát giữa trời nắng cháy
    Bài ca vỡ đất mênh mông…

    Muốn em nghe câu hỏi dấu trong lòng
    Về dòng sông chảy qua làng Việt cổ
    Những cô gái dâng mình cho Hà Bá
    Xin sông đừng lũ lụt sông ơi
    Những cô gái bị gọt đầu bôi vôi
    Khác gì nhau giữa hai lẽ sống chết
    Một chết trinh và một chết yêu
    Em phỉ phui tôi
    Ngón tay thơm khép bờ môi chín
    Em kỵ nói chuyện rồi phải đến
    Vườn chiều hôi hổi gió chim

    Chử lội khắp làng trên
    Dậy dân làng trồng lúa nước
    Tiên Dung đi cùng xóm dưới
    Dạy thôn nữ tầm tơ…

    Tôi đọc em nghe thơ không chỉ là thơ
    Là ước nguyện tôi từ tấm bé
    Hai chân dung người tôi muốn vẽ
    Suốt đời vẫn chửa vẽ xong
    Bà tôi đi gánh lưng còng
    Giã trầu câu ru Tô Thị
    Tự khi nào mắt bà thành mắt mẹ
    Chẳng còn lệ khóc chờ con
    Bao nhiêu trai tráng tòng quân
    Chiến tranh liên miên ngày về vô định
    Nhưng sông Hát vẫn ru lời thần thánh
    Tô Thị hóa đá để còn làng
    Còn làng mẹ hóa đá chờ con…

    Vườn chiều đang ngẩn ngơ thương
    Chử Đồng Tử,Tiên Dung bay vào mây trắng
    Có thể nay mai họ lại xuống vườn chiều
    Lại viết kỳ tích yêu lạ khác
    Phải không em ?

    Không lời đáp chỉ bàn tay lạnh ướt
    Em đã buông tay tôi đi tự lúc nào
    Còn đây hơi ấm nôn nao
    Chia tay đến một câu chào cũng không
    Vườn chiều mênh mông
    Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số
    Cầu mong đấy chỉ là cái cớ
    Để em đi
    Máy bay địch đã bay xa mãi
    Sẽ là cái cớ để em về
    Nhưng máy bay địch đã bay xa xa mãi
    Người tương tư thơ ấy vẫn chưa về…

    Bài 4
    ĐÁM CƯỚI BẠC

    Xin trời đất linh thiêng
    Nhận chúng con một bái
    Sau bão giông là mưa thuận gió hòa
    Sau lũ lụt là đồng xanh trái chin
    Ba mươi năm dài hay ngắn
    Đầm ấm một lương duyên ?

    Xin mẹ cha cô bác
    Xin những ai ba mươi năm trước
    Dự mừng hôn lễ chúng tôi
    Nay đã về trời làm gió làm mưa
    Nhận chúng tôi một bái
    Lời trăm năm thắm nửa đoạn đường.

    Xin hồn con tội nghiệp mẹ cha nghèo
    Vội vàng giã biệt
    Xin mái nhà của cha giột nát
    Một đàn con lợp không xong
    Hư không hỡi hư không
    Bái này còn ân hận mãi.

    Xin bạn bè xa ngoái lại
    Xin bạn bè gần đừng đi
    Ba mươi năm tưởng mới hôm qua
    Hôi hổi bàn tay tình bạn
    Đá vàng hoạn nạn hoan ca
    Bái này xin tình nhận.

    Còn bái ngũ chúng tôi tạ nhau
    Ba mươi năm ta lại lễ tơ hồng
    Vẫn xinh đẹp là em ngày ấy
    Vẫn đấng nam nhi là anh ngày ấy
    Con cháu ta nếp tẻ một sân đời
    Nào cho anh một nụ hôn lửa cháy.

    Đám cưới cổ đổ rượu nàng Vân
    Đám cưới tân ba tầng rượu chát
    Chúng mình cưới nhau
    Chỉ có trà đào và quy gai quy xốp
    Thuốc là điếu vấn sợi vàng
    Và tiếng máy bay địch đã bay xa.

    Em chưa một lần làm hoàng hậu
    Khăn đóng áo dài thêu
    Ai đó tặng đôi gối cưới
    Chim câu quấn quýt đến bây giờ
    Bạn bè tặng rất nhiều thơ
    Vần điệu một đời rơi nước mắt.

    Ba mươi năm em vẫn em chân chất
    Rượu làng Vân em rót mời anh
    Ly rượu chát anh mừng mình
    Vui gì mà em đẹp thế ?
    Ba mươi năm vẫn hôn nồng nàn thế ?
    Đám cưới cổ bỗng nhiên tân.

    Em nhận tất cả những lời mừng
    Rồi trả lời mừng từng người một
    Nhờ giữ dùm cho hai mươi năm sau
    Trong đám cưới vàng
    Em xin nhận lại
    Đeo cổ tình một chiếc kiềng yêu.

    Đêm ấy anh mơ thấy đám cưới vàng
    Em làm hoàng hậu
    Gót hài thơ thẩn chờ ai
    Anh giật mình gọi tỉnh
    Em cười trong tiếng trách yêu
    Rượu làng Vân say lịm…

    Bài 5,6

    Bài 5
    SÔNG TƯƠNG

    Gió thổi qua mắt em
    Gió mang theo vị mặn
    Mắt em nhìn đâu sao lâu chớp thế
    Có phải em dong thuyền ra bể
    Lỡ rớt mái chèo trên sông Tương ?

    Hỏi em anh bỗng nhiên buồn
    Chiều nhạt nắng tóc xõa vai nhạt nắng
    Sông Tương
    Sông Tương ở đâu
    Mà ai cũng đi qua sông Tương nhỉ
    Ai đi qua cũng rớt mái chèo ?

    Bài 6
    TRĂNG MẬT

    Ngày nhành hoa yêu kiều
    Đồng đất hoang vu nắng hạ
    Rón rén đến gần nằm dài trên cỏ
    Anh đăm đắm mắt
    Đu đưa hương gió thay lời
    Anh nhận đón hương em tận ngực
    Trăm vòng trời biếc anh bay.

    Đêm một khoé trăng tươi
    Vắt veo ngang cửa gió
    Hai bàn tay anh đỡ
    Sữa Trăng khát những ngụm đầy
    Đàn chưa thôi réo rắt
    Anh nâng thơ ngang ngực
    Trăng mỏng mảnh hoà tan.

    Rồi em phì nhiêu như đồng xanh
    Rồi em ngát thơm trang sách
    Rồi em vợ một đời.

    Bài 7
    VIẾT TRÊN GIƯỜNG BỆNH

    1

    Lời phỉ phui anh chưa định viết
    Cho mai sau về cuộc đời mình
    Giấc ngủ bệnh hỏa thiêu thân xác
    Thân em dâng một sông tình

    Biển vô cảm chìa ngàn tay sóng
    Đón tro đời một thời yêu
    Em trói sóng lời ru mềm lắm
    Mơ hồ buồn sóng lặng về khơi

    Đã thề yêu nhau trọn đời
    Đời đã trọn đâu mà trốn
    Vú tình còn sữa nuôi con

    Câu ru nhập xác hóa hồn
    Mở mắt
    Em rạng ngời gương nguyệt

    2

    Kìa sao gương nguyệt lại mưa
    Trong nhạt nhòa đã ló ra nắng trời
    Nhện buồn sao chửa giăng vui
    Chấu chưa cắn hết những lời tro than

    Tình yêu chưa đứt sợi đàn
    Tay thịt vẫn nắm mát bàn tay da
    Tay da nào chịu rời xa
    Tay thịt chong mắt thiết tha khấn thầm

    Tai tri kỷ,mắt tri âm
    Tình yêu đắng ngọt từng vần thơ buông
    Xin đừng thảng dại thìa thương

    Ngoài trời nắng vãi đầy vườn giọt hoa
    Giọt nào cho cuộc tình ta
    Để khi tắt nắng ta ra nhặt về.

    Thơ Nguyễn nguyên bảy

    Liked by 1 person

  3. Năm 2004 tôi về Sài Gòn, được anh bạn tên Ba Đào chép cho bài thơ Bói Kiều, không biết của thi sĩ nào, tôi đọc thích lắm vẫn có ý hỏi tìm tác giả. Cuối năm rồi (2010) về lại Sài Gòn được anh Ba Đào cho nguyên tập thơ tổ trảng của thi sĩ rất lạ, tên là Nguyễn Nguyên Bảy, tôi đem theo về Mỹ, đọc hết, mới hay bài Bói Kiều tôi thích năm nào là của ông “thầy” này. Nay lướt mạng, thấy viết bài Sông cái của ông thầy, tôi xin chép lại bài Bói Kiều để mua vui cùng bà con ta lúc nhó nhà, nhớ quê.
    .
    Bói Kiều
    .
    Tôi bói Kiều xin một chút vui
    Thương phận mình phúc mỏng
    Sao chỉ thấy Tiền Đường vỗ sóng
    Hiển hiện đôi môi chon chót Thuý Kiều cười.

    Cay đắng Kiều cay đắng lắm tôi ơi
    Khốn khổ Kiều khốn khổ lắm tôi ơi
    Cho dẫu Kiều chẳng có hồi đoàn viên Kim Trọng
    Kiều vẫn sống tôi ơi.

    Bể trầm luân ai bể bằng đời Kiều
    Đi hết bể trầm luân nàng sống mãi
    Tâm trí tôi nụ cười nàng nở nói
    Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao.

    Xuân Tùng kính chào qui vị.

    Liked by 1 person

Leave a comment