Chào các bạn,
Trong cuộc sống chúng ta vẫn thường gặp phải những vấn đề như thế này: Bạn là chủ sở hữu công ty và muốn tuyển dụng nhân viên A vào làm việc, nhưng dù A viết hồ sơ xin việc có hay đến mấy, có thư giới thiệu hoành tráng đến cỡ nào, bạn vẫn luôn đặt một câu hỏi “Liệu năng lực của A có thực sự được như thế không?” hoặc “Giả sử như A thực sự có năng lực đúng như vậy, liệu A có phù hợp với công việc này và cống hiến hết mình cho doanh nghiệp?”. Ngược lại, nhân viên A cũng sẽ đặt câu hỏi “Công ty này quảng cáo hay thế nhưng chẳng biết môi trường làm việc thế nào. Lương bổng, chế độ đãi ngộ lâu dài ra sao?”.
Vậy là cả nhân viên A và bạn đều cảm thấy thông tin của mình về bên kia không chắc chắn, chỉ có A mới biết năng lực thực sự của A, và chỉ có bạn mới biết năng lực thức sự của bạn (hoặc công ty bạn sở hữu). Kinh tế học gọi ấn đề này là thông tin bất cân xứng (asymmetric information). Năm 2001, ba nhà kinh tế George Akerlof, Michael Spence, và Joseph E. Stiglitz đã đạt giải Nobel cho các nghiên cứu của họ về lý thuyết này và nó đã được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu các vấn đề về hợp đồng (contracting).
Hôm nay mình chia sẻ với các bạn một ví dụ rất thú vị về giải pháp để giải quyết vấn đề này trong hợp đồng trợ giảng (assistantship contract) mà các trường đại học ở Mỹ sử dụng.
Các trường đại học ở Mỹ luôn có một quỹ nghiên cứu cấp cho khoa hoặc giáo sư của khoa. Các giáo sư ở Mỹ làm việc rất nhiều, nhất là các assistant professor, những người mới lấy bằng tiến sĩ và bắt đầu 6 năm vừa giảng dạy vừa nghiên cứu cật lực để được vào “biên chế” (tenure). Vì thế họ cần thuê assistant để giúp chấm bài, làm nghiên cứu. Thường các quỹ nghiên cứu ưu tiên cấp cho sinh viên học chương trình tiến sĩ vì những người này (nếu thi qua kì thi “vượt rào” năm thứ nhất hoặc năm thứ hai, hoặc không bỏ cuộc giữa chừng) sẽ làm việc với giáo sư và khoa trong khoảng 4-5 năm hoặc lâu hơn. Các sinh viên học thạc sĩ cũng có thể xin được học bổng trợ giảng, tùy chương trình học bổng của mỗi trường.
Tuy gọi là học bổng nhưng assistantship khá giống như một hợp đồng làm việc chứ không phải kiểu học bổng “cho một cục”, và có các điều kiện rangi buộc chặt chẽ để đảm bảo người sinh viên phải chăm chỉ học và làm việc tốt.
Báo chí Việt Nam thi thoảng đưa tin “Sinh viên X đã giành được học bổng trị giá 2 tỉ VND” nhưng không phải vậy. Thực chất học bổng đó thường được tính như sau :
- Năm thứ nhất: miễn học phí và lương trợ giảng (mức trung bình tổng cộng là 30,000$) với điều kiện sinh viên phải đạt 3.2 – 3.5 GPA mỗi kì. Tức là một năm 2 kì học (semester), mỗi kì sinh viên phải có điểm trung bình là 3.2-2.5/4.0 (nếu lấy 3 môn thì có 1-2 môn điểm A).
- Năm thứ hai, năm thứ 3: điều kiện tương tự như vậy.
Nếu trong bất cứ một kì nào mà không đạt được mức GPA yêu cầu, sinh viên X coi như vi phạm hợp đồng và bị ngưng cấp học bổng ngay lập tức.
Và nhấn mạnh một điều là đối với nghiên cứu sinh tiến sĩ thường các trường chỉ cam kết 3 năm (tổng cộng số tiền nhận từ trường sẽ là 120,000$ tức là khoảng 2 tỉ VND). Nếu sinh viên X cứ đạt GPA theo yêu cầu thì hết năm thứ 3, sinh viên X phải tự tìm nguồn học bổng để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thành luận án trong 1-3 năm còn lại. Việc thiết kế hợp đồng như thế này giúp cho nhà trường giảm được rủi ro tuyển phải sinh viên lười biếng, học kém, và cũng bắt sinh viên phải học hành nghiêm túc trong suốt các kì học.
Người sinh viên cũng được lợi là vừa có cơ hội đi làm lấy tiền trang trải sinh hoạt phí, được miễn học phí, và làm việc hàng ngày với giáo sư. Nếu không cảm thấy muốn tiếp tục làm việc, sinh viên có thể ngừng bất cứ lúc nào, hoặc chuyển sang một trường khác.
Mình nghĩ đây là một ví dụ rất hay về giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng thông qua hợp đồng. Điều cơ bản ở đây là tạo ra cơ chế trả lương theo mức độ hoàn thành công việc và quá trình làm việc được cắt ra thành những giai đoạn ngắn để đánh giá. Mức độ yêu cầu “qua” và “không qua” không quá cao. Nếu cao quá sinh viên sẽ thấy “hụt hơi”, dễ nản và sớm bỏ cuộc. Nếu thấp quá sinh viên sẽ lười học. Nếu tính theo năm thì sinh viên dễ sẽ học tốt kì đầu và lười biếng kì sau vv…
Đây là một mô hình rất đơn giản nhưng khá hiệu quả. Tùy mối quan hệ giữa hai bên mà chúng ta có thể soạn thảo những hợp đồng làm việc với các mức độ phức tạp khác nhau, nhưng trong điều kiện thông tin cả hai bên đều không chắc chắn thì dạng hợp đồng như thế này sẽ hiệu quả hơn là dạng hợp đồng trả lương “một cục” :).
Chúc các bạn một ngày tươi hồng.
Hoàng Khánh Hòa