Tag Archives: trà đàm

Lời nguyện cho trái đất

Chúa ơi,

Hãy ban phước cho nhà của chúng con,

trái đất

nơi chúng con sống,

Có những người đau đớn ở đây,

và không biết làm gì.

Có những người lo sợ số mệnh của họ,

và không biết đi đâu.

Chữa lành cho tất cả họ,

thưa Chúa,

và mang họ ra khỏi bóng tối

vào ánh sáng.

Amen.

~Marianne Williamson

Nguyễn Minh Hiển dịch

Dear God,

Please bless our home,

the earth

wherein we dwell.

There are those who suffer here,

and know not what to do.

There are those who fear their lot,

and know not where to go.

Heal them all,

dear God,

and bring them out of darkness

into light.

AMEN.

Phút tĩnh lặng mỗi ngày

Chào các bạn,

Chúng ta đang sống trong một thế giới bận rộn—ta đi làm, về nhà ăn uống với gia đình, dạy con cái một ti, xem TV, đi ngủ, sáng dậy lại mở TV nghe tin tức trong khi uống cà phê xem báo, chạy đi làm… Chu kỳ bận rôn tiếp diễn. Và ta không bao giờ có những phút giây tĩnh lặng cho riêng ta.

Nếu chiếc xe chạy hoài không bao giờ tắt máy, nó sẽ sống được bao lâu?

Chúng ta đã quá quen với bận rộn ồn ào tấp nập, đến nỗi chúng ta nghiện ồn ào: “Hầu hết mọi người bị nghiện với những kích thích gây stress… Chúng ta cực kỳ ngại ngùng về sự tĩnh lặng, về khoảng không, về sự trống rỗng. Đó là vì một định kiến vật chất nghĩ rằng cái gì không sờ mó được thì không hiện hữu.” Lời nguyện cho những khoảng trống, Marianne Williamson. Hệ quả tất yếu là chúng ta nhiều stress, ta dễ nổi nóng, dễ sân hận, dễ gây lộn, dễ có chiến tranh, và dễ bị chết vì đứng tim hay đột quỵ.

Tĩnh lặng để nghỉ ngơi, để nạp năng lượng trở lại, để làm mới. là một bí quyết sống con người đã biết từ hàng nghìn năm về trước. Vì thế ở Đông Phương ta có thiền và khí công, ở Tây phương ta có cầu nguyện hàng ngày, và có Ngày Chúa Nhật, không được làm gì cả và chỉ dành riêng cho Chúa. Tuy vậy, ngày nay các truyền thống nghỉ ngơi tĩnh lặng đó chỉ còn tồn tại với một số rất ít người; đại đa số người trên thế giới chẳng biết hoặc chẳng quan tâm gì về chúng.

Tại sao thế giới càng văn minh, chúng ta càng bận rộn, càng ly dị nhiều, càng nhiều bạo hành trong học đường, càng nhiều trộm cướp trên đường phố, càng nhiều chiến tranh trong quốc gia và xuyên quốc gia? Phải chăng đó là vì mỗi chúng ta đã bị “chồng chất với những ô nhiễm tinh thần dữ dằn và không tự nhiên”? (M. Williamson, bên trên).

Chúng ta nghiện tiếng động đến nỗi chúng ta sợ yên lặng. Nằm một mình cũng phải suy tính công việc ngày mai, phải nghiên cứu việc trả đũa, phải mở nhạc hay mở TV. Hai người bạn ngồi với nhau thì phải nói chuyện huyên thuyên, nếu có một tí thinh lặng thì cả hai đều áy náy và lại phải nói cái gì đó để lấp khoảng trống. Ngay cả khi đi ngủ, rất thường khi chúng ta nẳm mơ về công việc, và suy nghĩ về công việc ngay trong khi ngủ.

Và khi thức, làm việc hấp tấp chưa đủ, chúng ta còn sáng tạo ra mốt làm nhiều việc cùng lúc (multitasking)—vừa nói điện thoại, vừa chát trên computer, vừa viết một report cùng lúc, hay vừa lái xe vừa text trên điện thoại.

Và càng làm nhanh, càng hấp tấp, chúng ta càng bị nghiện các hóa chất của stress, và không thể chậm lại hay nghỉ ngơi được. Hậu quả là việc làm thì hư trước hư sau, liên hệ với mọi người thì vỡ lên vỡ xuống, các vấn đề sức khỏe cá nhân và gia đình hiện đến, cũng như những vấn đề của quốc gia và những xung đột giữa các quốc gia.

Vì vậy. chúng ta cần những phút giây tĩnh lặng mỗi ngày, để nạp lại năng lượng thể chất cũng như tinh thần—yêu ái, bình tĩnh, can đảm, và sáng tạo.

• Theo truyền thống Đông phương, thiền định là cách tĩnh lặng hay nhất. Ngồi thiền, theo dõi hơi thở để tâm trí không chạy lan man. Hoặc thiền hành, tức là đí bộ với chánh niệm—tập trung tư tưởng vào việc quan sát bước đi, chẳng hạn. Hoặc làm việc theo cách thiền–ủi đồ hay rửa bát, và tập trung tư tưởng vào việc quan sát từng cử động nhỏ.

Ngay cả việc tụng kinh, như “Nam mô A-di-đà Phật”, mà tập trung tư tưởng vào mỗi câu kinh, như hình ảnh Phật A-di-đà trong mỗi câu tụng, cũng là một cách tĩnh lặng rất tốt.

• Ở Tây Phương, chúng ta có truyền thống cầu nguyện. Tuy nhiên nếu ta cầu nguyện theo lối xin xỏ–cầu cho hết nợ, cho làm ăn buôn bán tốt, cho hết bệnh… thì cầu nguyện đó là một loại làm việc với đủ mọi loại tiếng ồn xin xỏ chứ chẳng tĩnh lặng tí nào.

Câu nguyện tĩnh lặng là nói chuyện với Thượng đế như hai kẻ yêu nhau—không còn tự ái, không còn vỏ bọc, không còn giả tạo… Một quả tim khiêm cung trần truồng ttước mặt Thượng đế. Tìm lại cái siết tay, cái ôm, với Thượng đế, kết hợp làm một với Thượng đế, mà chúng ta đã đánh mất trong những phút ồn ào trong ngày.

• Nếu ta không theo được hai truyền thống này, thì nghe nhạc rất nhẹ và tập trung vào nghe nhạc, đừng để đầu óc chạy lan man, là cách gần nhất với tĩnh lặng.

Và từ trong tĩnh lặng, chúng ta sẽ nghe được tiếng nói sáng tạo của nguồn năng lượng hồi sinh, như thiền sư Kiều Trí Huyền nói “Tiếng thầm trong ngọc nói lời hay”, hoặc lời Thánh Kinh, “Rồi một luồng gió lớn và mạnh xé rách núi và làm đá vỡ vụn trước mặt Chúa, nhưng Chúa không có trong luồng gió. Sau luồng gió là một trận động đất, nhưng Chúa không có trong động đất. Sau động đất là một trận cháy, nhưng Chúa trong có trong lửa. Và sau trận cháy, một lời thì thầm dịu dàng đến.” 1 Kings 19:11-13.

Chúng ta cần tĩnh lặng để có thể nghe được tiếng thì thầm.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Lời nguyện cho những khoảng trống

“Tôi ghét những ngày Chủ nhật khi tôi không yêu”, một người bạn đã với tôi như thế. “Những ngày đó có vẻ như thật trống rỗng, làm tôi trầm cảm”.

Hầu hết mọi người mong cuối tuần, nhưng một số người muốn cuối tuần qua mau. Những người nghiện làm việc và những người nghiện sức đẩy của kích thích tố adrenaline của một thế giới lính quy’nh không thể mang được gánh nặng của sự trống không của ngày Chủ nhật. Những khoảng trống có thể nặng không chịu đựng được, cho đến khi ta khám phá ra quyền năng của tĩnh lặng.

Thế giới này cần sự tĩnh lặng khủng khiếp. Hầu hết mọi người bị nghiện với những kích thích gây stress. Về mặt tinh thần và cảm xúc, chúng ta cần kiêng cữ, để làm sạch hệ thống, để đừng chồng chất nó với những ô nhiễm tinh thần dữ dằn và không tự nhiên. Chúng ta cực kỳ ngại ngùng về sự tĩnh lặng, về khoảng không, về sự trống rỗng. Đó là vì một định kiến vật chất nghĩ rằng cái gì không sờ mó được thì không hiện hữu. Khoảng không không phải là vật chất; nó là lực.

Khoảng không là nơi Thượng Đế ở. Những nơi trống, những khoảnh khắc trống chẳng thực sự là trống, chúng đang thai nghén. Thượng Đế là sự đầy tràn tiềm tàng tràn ra từ mọi khoảng trống, sự có thể thường trực của một giây phút huyền diệu hay một ý nghĩ lạ lùng. Từ một tờ giấy trắng nhảy ra một lời gọi của vũ trụ để viết tên của chính bạn. Từ sự tĩnh lặng đó đi đến hợp âm mở đầu của bản giao hưởng số 5 của Beethoven.

Một con người như là một vòng tròn bao bọc bởi toàn bộ thế giới. Đó là điều chúng ta thường cảm thấy – như là những không gian giới hạn bao bọc bởi vô hạn. Chúng ta cố gắng tiêu thụ cái ở bên ngoài, để cho chúng ta một cảm giác thỏa mãn ở bên trong. Nhưng chúng ta không thể thỏa mãn sự thèm khát đó, bởi chẳng có gì bên ngoài chúng ta là cái chúng ta đói khát. Chúng ta càng chụp bắt nhiều hơn, chúng ta càng xa trung tâm. Và do đó chúng ta phân hủy, chúng ta không lớn được. Chúng ta mang những đặc điểm của người đói khát, thần kinh, bởi vì đó là những người chúng ta quyết định trở thành khi chúng ta tìm kiếm ở thế giới những cái mà thế giới không thể cho chúng ta.

Thật cần thiết, do đó, chúng ta dành thời gian mỗi ngày, mỗi tuần, cho sự tĩnh lặng, cho sự tìm kiếm nội tâm, để vinh danh Thượng Đế trước thế giới.

Chúng ta phải ôm lấy sự tĩnh lặng thay vì chống lại nó. Đó là cách của sự huyền bí. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể chữa lành.

Chúa ơi,
Con chống lại tĩnh tâm, con chống lại cầu nguyện, con chống lại
thực hành tâm linh đôi khi, bởi con không thoải mái với những khoảng trống.
Con biết, thưa Chúa, rằng con mất cân bằng
với bản chất tâm linh của con.
Con cần được chữa lành.
Hãy chữa lành cho con.
Mang con tới sự tĩnh lặng trong chính con, và
cho con sự yên ổn ở đó.
Chỉ cho con trung tâm mạnh mẽ và yên lặng của
tình yêu của Chúa, ở trong con.
Cảm ơn Chúa rất nhiều.
Amen.

~ Marianne Williamson

Nguyễn Minh Hiển dịch

“I hate Sundays when I’m not in love,” a friend once told me. “They seem so empty. I get depressed.”
Most people want the weekend to get here, but some people want the weekend to be over. The workaholic and others addicted to the adrenaline rush of a frantic world cannot bear the burden of Sunday’s emptiness. Empty spaces can be unbearable before we discover the power of silence.

This world desperately needs silence. Most people are addicted to stress-producing stimuli. Mentally and emotionally, we need to fast, to clean out the system, to stop overloading it with mean and unnatural mental pollution. We are deeply afraid of the silence, the void, the emptiness. That is because a materialistic prejudice thinks that what cannot be touched does not exist. The void is not material; it is force.
The void is where God is. Empty places, empty moments are not really empty; they’re pregnant. God is the potential fullness gushing out from every empty space, the ever-present possibility of a magic moment or miraculous thought. Off the blank page jumps a cosmic summons to write your own name. Out of that silence came the opening chord of Beethoven’s Fifth.

A person is like a circle surrounded by the entire world. That’s often how we feel–like limited spaces surrounded by infinity. We try to consume the external, to give us a feeling of internal satisfaction. And yet we cannot satisfy that yearning, because nothing outside of us is the stuff for which we hunger. The more we grab, the less centered we are. And so we disintegrate; we do not grow. We take on the characteristics of neurotic, needy people, for that is who we decide to be when we look to the world for what the world cannot give us.

It is imperative, therefore, that we give time each day, each week, to silence, to the internal search, to honoring God before the world.

Dear God,

I resist meditation, I resist prayer, I resist my
spiritual practice at times, for I am not com-
fortable with the empty spaces.
I know, dear God, that I am out of balance with
my spiritual nature.
I need to be healed.
Please heal me.
Bring me to the silence within myself, and give
me comfort there.
Show me the fierce and quiet center of Your
love, which is within me.
Thank You very much.
Amen.

Phê phán xây dựng hay lải nhải tiêu cực?

Chào các bạn,

Chúng ta ai cũng muốn đóng góp vào việc giúp người khác tốt hơn, làm cho thế giới ta sống đẹp hơn, với những phê phán xây dựng. Tuy nhiên, rất thông thường ta có thể thấy được, nhiều người lải nhải tiêu cực hơn là phê phán xây dựng. Phê phán xây dựng, luôn luôn có tư duy tích cực tiềm ẩn trong đó, làm môi trường ta sống tích cực hơn. Lải nhải tiêu cực mang gió tiêu cực đi khắp nơi, chỉ làm cho không khí thêm tối tăm u ám bứt rứt khó thở mà chẳng đem lại lợi ích nào hết. Một đằng là ánh sáng, một đằng là bóng tối. Vậy thì làm thế nào phân biệt sáng tối, biết đâu là phê phán xây dựng và đâu là lải nhải tiêu cực, để hành động cho đúng?

Đôi khi phân biệt phê phán tích cực và lải nhải tiêu cực cũng hơi khó. Tuy nhiên trong đa số các trường hơp, các tiêu chuẩn phân biệt sau đây sẽ giúp chúng ta nhận diện sáng tối:

1. Phàn nàn chung chung mà không có việc gì cụ thể, không liên hệ đến người nào cụ thể, là lải nhải tiêu cực. Ví dụ: Chính quyền toàn là một lũ tham ô; doanh nhân toàn là một lũ xảo trá; thời thế loạn lạc sâu bộ cai trị người; công giáo toàn là một lũ bán nước; Phật giáo toàn là một lũ dốt; Trung quốc là lưu manh không tin được; Hồi giáo là cực đoan khủng bố; Mỹ là lũng đoạn chính trị các nước khác …

2. Khi nói đến người hay việc cụ thể, cũng chỉ phê phán chung chung mà chẳng đưa ra được điều gì cụ thể, đó là lải phải tiêu cực. Ví dụ: Ôi anh chàng dốt đó mà giám đôc giám điếc gì; xây cái cầu chỗ này là ngu; lại một dự án dốt nữa của nhà nước…

Nếu đã đưa ra các kết luận chung thế, thì phải đưa ra các sự kiện cụ thể chứng minh được kết luận của mình. Không có sự kiện cụ thể mà kết luận phê phán, là lải nhải tiêu cực.

3. Khi đưa ra các l‎ý lẽ để phê phán, thì các l‎ý lẽ phải liên hệ đến sự việc; nói lăng nhăng các sự việc không liên hệ là lải nhải tiêu cực. Ví dụ: Năm năm trước cũng UBND của thành phố này quyết định xây cầu Bến Thủy, 2 năm sau cầu sập một góc. Năm ngoái UBND lại cho xây công viên Xuân Hồng, xây xong lụt nước cây chết hết. Bây giờ dự án xây trường học này cũng sụp thôi.

4. Không nói đến các vấn đề liên hệ mà “tấn công cá nhân” là lải nhải tiêu cực. Ví dụ: Ôi, thằng đó tiếng tăm bồ bịch lung tung mà cho làm kiến trúc sư trưởng dự án này là xập cầu. Ôi, mấy thằng từ Nam Định vào đây mà cho lãnh thầu dự án này là tiêu tán.

Nói chung, khi phê phán một vấn đề gì, chủ đề phê phán phải cụ thể, và các lý lẽ phê phán phải cụ thể và liên hệ trực tiếp đến chủ đề.

Nhưng như vậy cũng chỉ mới là phê phán nửa chuyên nghiệp, chưa có phần “xây dựng” nào trong đó. Muốn được gọi là phê phán xây dựng, thì người phê phán cần đề nghị một biện pháp mới, khác với biện pháp mình đang phê phán. Hay ít ra thì cũng đề nghị một vài sửa đổi trong biện pháp có sẵn. Chỉ phê phán mà không đề nghi giải pháp thì đa phần là lải nhải tiêu cực–có lẽ giải pháp đang có là giải pháp tối ưu rồi, cho nên người phê phán cũng chẳng nghĩ ra được thay đổi nào mới.

Ngoài ra, người có tư duy tích cực thì khi phê phán vấn đề gì đó thì cũng cần lên tiếng khen các điều hay trong đó. Không nên chỉ phê phán cái dở trong khi có cả trăm điều hay mà lại không nói đến. Ít ra cũng là một câu “Các điểm khác trong dự án này tôi chẳng thấy có vấn đề gì cả, duy chỉ có điều này là tôi thấy cần phải xét lại…”

Chúng ta cần phân biệt rất rõ thế nào là phê phán tích cực và thế nào là lải nhải tiêu cực, để tự mình tránh lải nhải, đồng thời giúp chặn đứng rác rến trong dòng thông tin của chúng ta. Các bạn có để ý đến từ “DÒNG thông tin” không? “Dòng” là một dòng sông. Nếu chúng ta cứ đổ rác vào nhiều quá, dòng sông đương nhiên sẽ đen kịt và hôi thối, không những không còn giúp ích gì cho ai được mà lại trở thành một hiểm nguy đe dọa sức khỏe mọi người.

Dòng thông tin trên Internet hiện nay có quá nhiều rác rến. Mọi người nhận rác, không thèm biết đó là rác hay không, tự động ấn nút chuyển tiếp đống rác đến 20 người khác, 20 người này lại tự động chuyển tiếp, mỗi người đến 20 người khác. Đầu ngày là một đống rác, đến cuối ngày ta đã có hơn 2000 đống rác nhập vào dòng sông! Thế thì dòng sông nào mà chịu nổi.

Trong kỷ nguyên thông tin, thông tin có tính cách quyết định thắng bại. Cho nên chúng ta hãy cùng tâm niệm bảo vệ dòng thông tin của chúng ta càng trong xanh càng tốt. Đừng làm ô uế môi trường.

Hãy giúp cho môi trường chúng ta sống trong sạch và hữu ích. Mỗi người hãy làm công việc vệ sinh của mình—nói năng tử tế chính xác, và không chuyển rác và tăng rác.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Làm thế nào để phê phán tích cực

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Tách trà

Nan-in, một thiền sư thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), tiếp một giáo sư đại học đến để hỏi về Thiền.

Nan-in rót trà. Thiền sư rót đầy tách của giáo sư, và cứ tiếp tục rót.

Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Tràn ra ngoài rồi, không thêm được nữa!”

“Như là tách trà này,” Nan-in nói, “ông đầy ý kiến và phỏng đoán. Làm sao tôi có thể chỉ Thiền cho ông nếu ông không đổ sạch tách của ông trước?”

Bình

Câu chuyện này không nhất thiết chỉ đúng cho học Thiền. Muốn tìm hiểu bất kỳ điều gì ờ đời–một tôn giáo, một người, một nhóm người, một nền văn hóa, một dân tộc, một lịch sử, một vụ kiện, v.v… chúng ta phải đổ sạch tách thành kiến, giả định, phỏng đoán và kết luận trong đầu–một cái tách trống rỗng, một tờ giấy trắng tinh–thì chúng ta mới có thể học hỏi được.

Bạn đang bắt đầu vào cuộc hành trình qua 101 Truyện Thiền để tìm hiểu Thiền là gì. Đây là truyện đầu tiên. Bạn cần đổ sạch tách của bạn, để bước vào và đi qua cuộc hành trình này.

Bạn đã nghe, đọc, biết và hiểu gì về Thiền trước kia? Xin bạn đổ sạch. Để tâm và trí trống rỗng cho cuộc hành trình.

Tâm rỗng lặng, nhớ nhé.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

A Cup of Tea

Nan-in, a Japanese master during the Meiji era (1868-1912), received a university professor who came to inquire about Zen.

Nan-in served tea. He poured his visitor’s cup full, and then kept on pouring.

The professor watched the overflow until he no longer could restrain himself. “It is overfull. No more will go in!”

“Like this cup,” Nan-in said, “you are full of your own opinions and speculations. How can I show you Zen unless you first empty your cup?”

#1

Bạn Biết Giá Trị Của Mình

Những thách đố của cuộc đời không phải để làm bạn tê liệt, mà để giúp bạn khám phá ra mình là ai.

Life’s challenges are not supposed to paralyze you, they’re supposed to help you discover who you are.
~Bernice Johnson Reagon

Chỉ có một góc vũ trụ bạn có thể chắc chắn cải thiện được, đó là cái tôi của chính bạn

There’s only one corner of the universe you can be certain of improving, and that’s your own self.
~Aldous Huxley

Để đạt được bất cứ thứ gì trong đời, bạn cần biết khả năng và giá trị của chính mình.

Biết mình có nghĩa là bạn biết rằng mình xứng đáng được đối xử một cách bình đẳng, rằng bạn xứng đáng hưởng thụ một số quyền sống, trong đó quyền khẳng định và thể hiện năng lực và giá trị của mình với tư cách con người.

Cái tôi giá trị của bạn không biến mất bởi vì bạn thất bại hay phạm sai lầm, bị bệnh tật, hoặc khiếm khuyết về hình hài thể xác. Có ai không biết: “Nhân vô thập toàn”. Hơn nữa, chúng ta cũng biết “Sai lầm là thuộc tính của con người”. Do đó không phải vì mình sai lầm hay thất bại, mà giá trị con nguời mờ nhạt hay nhân cách kém đi. Còn bệnh tật là điều ta không thể tránh, nhất là những bệnh bẩm sinh hay do môi trường sống. Thực đáng buồn, có nhiều bạn thiếu tự tin đến thành tự ti chỉ vì một trong những lý do này. Trong khi đó tự thân bạn có thể xây nên nhiều thứ, trong đó có ngôi nhà hạnh phúc cho chính bạn.

BẠN NHẬN THỨC GIÁ TRỊ CỦA MÌNH NHƯ THẾ NÀO?

Nhiều người đi qua gần cả cuộc đời mà không nhận thức được hết giá trị của mình, chỉ vì họ không tin vào bản thân hay giá trị đích thực của họ. Họ không nghĩ rằng bản thân họ có nhiều tiềm năng chưa được phát hiện và khai thác. Dù chúng ta ai cũng cần sự động viên, tán thành, nhưng chúng ta luôn cần đến một chút tự tin.

Một số người thường quay sang trông chờ người khác, mong mỏi từng chút thừa nhận của người khác vào năng lực mình, như trẻ con trông mong từng viên kẹo, thay vì tự tin vào cái tôi độc đáo của mình. Họ chẳng dám bắt đầu cái gì với suy nghĩ ”Người ta giỏi quá! Mình chẳng là cái gì! Sao mình có thể làm đuợc chứ!” và nhiều lý do khác nữa …

Để nhận thức được giá trị của mình bạn có thể có nhiều cách:

1/ Một cách thông thường là tự lập một bản kê tất cả những tính cách chủ đạo của mình: Hay lẫn chưa hay, tốt và không tốt. Bằng sự trung thực, chính xác nhất, hãy định giá chúng theo thứ tự tốt nhất từ 1 đến 10. Bằng cách này bạn biết đuợc cách bạn nhìn nhận về mình và “hiểu” bản thân.

Quả thực, lắm khi chúng ta có thể là kẻ thù tệ nhất của chính ta khi sa vào một trong hai đối cực: Bằng sự ngạo mạn tự tôn luôn nghĩ về cái tôi của mình quá lớn, hay ngược lại chúng ta lại tự ti, thiếu niềm tin vào bản thân, run sợ trước những việc mới lạ và có vẻ quan trọng hơn những chuyện ta vẫn thường làm.

Trước hết, bạn hãy nghĩ rằng người ta làm đuợc, sao ta không thử một lần. Và sau một lần không thành công, tại sao không thử thêm lần nữa? Bằng cách này, nhiều người kể cả những người khuyết tật đã chiến thắng được mặc cảm về sự khiếm khuyết và làm được một số việc đáng ngạc nhiên. Bạn đã từng xem một cuộc thi Olympic của những vận động viên khuyết tật? Có phải họ cần thành tích, hay họ muốn khẳng định nỗ lực và năng lực phi thường của con người vượt qua sự bất hạnh?

Chắc các bạn còn nhớ câu chuyện về Thủy Tiên, cô gái bước ra từ lu nuớc, ca sĩ khuyết tật và bài học thành công của cô?Từ những nỗi đau về thân phận, mặc cảm về tật nguyền, cô đã làm được điều kỳ diệu là trở thành ca sĩ được yêu mến với nhạc Trịnh trong và ngoài nước. Sau 10 lần phẫu thuật môi, tiếng nói của Thủy Tiên ngọng nghịu, nhưng cô đã kiên trì luyện tập ngót hai năm trời, cúi đầu vào lu đựng nước tập phát âm cho tròn tiếng. Thay vì khóc thương tủi hờn cho số phận, cô gục đầu và hát với cái lu. Rồi cuối cùng cô đã có thể quên đi những nét khuyết trên khuôn mặt mình đã có thể cất tiếng hát ngọt ngào những bản tình ca bất hủ của Trịnh Công Sơn. Lần đầu tiên khi đuợc xem Thủy Tiên hát với xúc cảm dâng tràn bài “Xin Cho Tôi”, được thấy khuôn mặt mà cô cho là không tòan vẹn của mình, tôi lặng người đi xúc động. Đó là vì trước đó tôi đã đọc những bài báo viết về Thủy Tiên như tâm sự của cô sau đây:

Tôi sinh ra bình thường như bao ngưòi khác nhưng thật không may đến năm 4 tuổi tôi mắc phải căn bệnh Sỹ Tổ Mả, sau10 lần phẫu thuật gương mặt của tôi không tròn vẹn, tôi không còn nói được nên đã từng phải chui đầu vào lu nước để luyện giọng, mặc cảm và đau đớn, đã có một thời gian dài tôi không dám bước ra ngoài đường, khi trở thành thiếu nữ những lúc đi trên đường nghe có giọng “trai trẻ” gọi sau lưng tôi không dám quay lại chào hỏi, cứ giả vờ như khiếm thính….Khi đi xin việc thì rất rụt rè, tự ti, ngoài việc lo cho bản thân tôi còn phải thay mẹ lo cho đứa em ăn học đã có lúc tôi cảm thấy bế tắc muốn tự vẫn…

Nhưng chính trong những lúc khó khăn, tuyệt vọng ấy tôi đã có những người bạn quá chân thành ở cạnh bên, luôn là nguồn động viên chia sẻ, hỗ trợ để tôi tự tin bước lên phía trước. Tôi hát thành công nhạc Trịnh không chỉ dựa vào niềm đam mê mà phụ thuộc rất lớn và những lời khích lệ động viên từ bạn bè, từ sự cổ vũ và tình cảm thân thương mà khán giả dành cho…”

Thủy Tiên kết luận:

Tuy nhiên, sau những đau đớn và mất mát đó tôi thấu nghiệm được rằng: “Khi Chúa đóng cánh cửa này, Chúa sẽ mở cho ta cánh cửa khác”. Đời cướp đi của ta một cơ hội này sẽ cho ta một cơ hội khác lớn hơn, hãy bình thản cảm ơn đời và hãy đi tìm, đón nhận những điều kỳ diệu mới mẻ mà cuộc đời trao tặng cho bạn”.

2/ Một cách rất có ích nữa là hỏi một số bạn thân mà ta biết là trung thực và sẽ cho ta ý kiến khách quan với mục đích xây dựng và giúp đỡ ta. Bạn hữu, người thân cũng là nguồn lực, nguồn động viên cho ta niềm tin để thử sức và nỗ lực với quyết tâm cao.

Đây cũng chính là một trong những cái gọi là Vốn Xã Hội được trình bày trong bài viết của Khánh Hòa. Thủy Tiên cũng không phải là ngọai lệ về mặt này. Cô đã khẳng định giá trị của nhân tố bạn hữu, một nguồn vốn xã hội, và sức mạnh của tình yêu thương cô nhận từ những người bạn đồng cảm.

3/ Bạn cũng có thể nhận ra giá trị bản thân mình bằng cách bắt đầu một kế họach với nỗ lực cao, và nhận được những nhận xét đánh giá tích cực từ những người có liên quan về các đặc điểm, tính cách cũng như cách làm của bạn thể hiện qua công việc đó.

Hãy tham gia một hội thể thao, một công tác tình nguyện hay từ thiện, giúp người hàng xóm, hay một người nào khó khăn tại cơ quan, nơi làm việc…

Một điều quan trọng nữa là bạn phải khắc phục nỗi sợ và mặc cảm tự ti, không dám khẳng định mình trong một tập thể. Hãy nhớ rằng bạn là chính mình trong sự độc lập và độc đáo. Bạn phải tự nhủ với mình như câu thần chú: Ta không tầm thường hay kém cỏi, ta không thua kém họ về những ý tưởng, cách làm. Vậy thì đứng lên đi, nở một nụ cười tươi với mọi người và mạnh dạn nói ra suy nghĩ, ý kiến của mình một cách rõ ràng, không e dè hay lắp bắp. Tại sao bạn không nghĩ rằng bạn có ý tưởng hay? phải chăng bước đầu tiên và thấp nhất nhưng rất quan trọng với mỗi người là tự tin, đuợc nêu trong bài Các mốc thang tư duy tích cực. Chỉ ở cấp độ này thôi, bạn đã có thể thành công, và tạo được bao điều hay rồi, so với ngồi chờ người khác làm thay cho bạn.

Mong rằng những điều gợi ý trên có thể giúp bạn nhận ra mình có thể nâng cao giá trị và niềm tin vào bản thân bằng cách tự thúc đẩy mình hay bằng cách tranh thủ ”vốn xã hội” của mình.

Bạn hòan toàn có thể làm như một vài người bạn của chúng ta đã tự khẳng định giá trị bản thân mình khi bước chân vào khu vườn của tư duy tích cực và cảm nhận. Họ không còn tự ti. Họ nhận ra vấn đề của mình và rồi tự điều chỉnh. Họ có dũng khí bắt đầu, chạy, rồi bằng những bước nhảy dài, họ đã lấy đà và đã bắt kịp những người khác. Bây giờ họ đang dạo bước trong khu vườn vui và chia sẻ với những người khác về tư duy tích cực, lạc quan yêu đời.

Thế nên, các bạn hãy viết đi để chia sẻ với những người khác. Bạn hòan tòan có thể làm rất tốt. Bạn Độc Đáo Thực và trải nghiệm của bạn cũng độc đáo.

Bạn hãy nghĩ xem mình sẽ làm gì và có thể nói gì với một người bạn rất thân đang có những trải nghiệm tương tự hay đã thành công?

Bạn sẽ nói gì với người đó đây? Chỗ của họ trong cuộc đời của bạn vô cùng quí giá. Bạn có vui và tự tin hơn không khi biết chắc rằng vai trò của bạn trong cuộc đời của họ cũng hệt như thế?

Thân ái chúc các bạn tràn đầy niềm vui bắt đầu mỗi ngày với tư duy tích cực.

Huỳnh Huệ

Không có gì là rác cả

Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc.

Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất:

– Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.

Soko trả lời:

– Con xin hết lòng tin tưởng

Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:

– Theo ta.

Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh:

– Quét dọn vườn.

Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình.

Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét… quét… và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi:

– Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?

Bất ngờ, đại sư quát lên:

– Rác ! người nói gì? Không có gì là rác cả !

Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo:

– Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây.

Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo:

– Mở rộng miệng bao ra.

Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:

– Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm.

Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ:

– Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu?

Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai:

– Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào những chỗ đó.

Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa.

Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đât, từ tốn trám vào.

Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.

(There is no trash by Soko Morinaga)

Ẩn Danh

Lời nguyện cho giấc ngủ

Chúa ơi,

Cám ơn Chúa về ngày hôm nay.

Cám ơn Chúa về sự an toàn của con và của những người con thương yêu.

Khi con đi vào giấc ngủ, mong những giờ này cho con an bình.

Mong chúng đem đến sự chữa lành cho tâm trí và thể xác của con.

Trong khi con ngủ, thưa Chúa, hãy ban phước cho thế giới.

Nơi đâu có đau đớn,

nơi đâu có những người không chỗ ngủ,

những người đang đau đớn và những người đang chết,

mong những thiên thần của Chúa đến với họ và chăm lo trái tim của họ.

Chúa ơi,

hãy để dòng ánh sáng chảy vào.

Hãy dùng những giờ con ngủ.

Hãy chuẩn bị cho con, trong những giờ giấc nghỉ ngơi,

cho việc phụng sự lớn hơn cho Chúa.

Mong sao ánh sáng đang bao quanh con bây giờ, ngày mai, sẽ chiếu sáng qua bản thân con.

Hãy làm mềm trái tim của con.

Cám ơn, Chúa.

Amen.

~ Marianne Williamson

Nguyễn Minh Hiển dịch
.

Dear God,

Thank you for this day.

Thank you for my safety and the safety of my loved ones.

As I enter sleep, may these hours give me peace.

May they bring healing to my mind and body.

While I sleep, dear Lord, please bless the world.

Where there is pain,

where there are people who have no place to sleep,

who suffer and who die,

may Your angels come unto them and minister to their hearts.

Dear Lord,

Please let the light stream in.

Please use my hours of sleep.

Please prepare me, during these hours of rest,

for greater service to You.

May the light that surrounds me, tomorrow shine through me.

Soften my heart.

Thank You, Lord.

Amen

Các mốc thang tư duy tích cực

Chào các bạn,

Chúng ta đã nghe “tư duy tích cực” trong rất nhiều bài viết khác nhau, về đủ mọi vấn đề. Và đôi khi, nếu chưa hiểu hết, chúng ta có thể bị tràn ngập, không biết tư duy tích tực thực ra là gì. Bài này để giải thích một số mốc thang chính trong tiến trình phát triển tư duy tích cực mà đa số chúng ta gặp, để ta có thê tự đo lường mình. Nói là đa số, vì lâu lâu chúng ta thấy có những người có căn cơ, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, nhảy từ bước đầu đến ngay bước cuối, một tiến tình mà có người cả đời cũng không xong.

1. Mức thấp nhất của tư duy tích cực là tự tin vào chính mình. Tin là mình có đủ quyết tâm và kiên trì để đi đến đích, để thành công trong một vấn đề nào đó, hay thành công trong đời một cách tổng quát. Trong tiếng Anh, đây là confidence.

Đây là mức mà mọi khóa học, mọi bài viết, mọi quyển sách, mọi websites về tư duy tích cực nói đến khi họ dùng từ “tư duy tích cực.” Và đa số các nơi này, có thể đến hơn 70%, cũng chỉ ngừng lại ngay mức này mà không còn biết là Tư duy tích cực còn nhiều mức cao hơn. Vì vậy, nhiều khóa học và sách về Tu duy tích cực thật ra rất hời hợt, chỉ ở mức này, mà các vị thầy hay tác giả có lẽ là không biết tư duy tích cực còn đi lên đến vài ba tầng nữa.

Trong chuỗi bài tư duy tích cực mình đã viết, mức này là mức của các bài như Nửa ly nước, Yêu mình, Biết mình, Sức mạnh của tư tưởng, Xắn tay áo, Lửa trong lòng, Tư duy tích cực là gì?

2. Mức cao hơn kế tiếp là mức vượt trên “có qua có lại.” Có-qua-có-lại là phản ứng tự nhiên của mọi người trên thế giới. Nó là phản xạ tự nhiên trong mỗi người: Hắn tốt với tôi thì tôi tốt với hắn, hắn xấu với tôi thì tôi xấu với hắn. Nếu hắn là người tốt, tôi thich hắn; nếu hắn là người xấu tôi ghét hắn.

Có-qua-có-lại thì chẳng có gì là không đúng, duy chỉ có điều là xoàng, vì mọi người trên thế giới, kể cả người dốt nát nhất và trộm cắp nhất, cũng hành xử kiểu đó. Đây chỉ là cách hành xử “bị cầm tù trong phản xạ tự nhiên của mình thôi”, chẳng có gì là thông thái cả.

Tư tuy tích cực vượt trội hơn phản xạ có nghĩa là tốt với mọi người kể cả người không tốt với mình và người mình kết án là “người xấu”, yêu mọi người dù là nhiều người không đáng yêu…

Đây là mức của các bài như Yêu người, tin người, Nền tảng của tư duy tích cực… Sống tích cực với mọi người và với đời. Dùng năng lượng tích cực của mình để sống lan tỏa trong đời và chuyển hóa đời, và không sống theo phản xạ.

3. Mức cao hơn nữa là mức xóa bỏ cái tôi. Đây là mức ta hay nói về “vô ngã”của Phật gia, của submission (khuất phục, giao phó cho Thượng đế), hoàn toàn khiêm tốn về mọi người và mọi vấn đề… Theo Phật gia, đây cũng là mức “vô chấp”, không còn thành kiến về bất cứ điều gì và về bất cứ ai. Khiêm tốn hoàn toàn.

Đây là mức của các bài Thiền thi, các bài về vô ngã vô chấp của Phật gia, các bài về total submission và lòng khiêm tốn trong các truyền thống tâm linh khác. Đây là mức các tự ái vặt, các ganh ghét vặt, các ham hố tiếng tăm, tị hiềm vặt, bắt bẻ vặt, hoàn toàn bị dẹp bỏ và xóa mất trong ta… Cái tôi đang biến mất.

4. Mức cuối cùng là mức đạt đỉnh của mức thứ 3 bên trên… Cái tôi hoàn toàn tiêu tán.

Tại mỗi mức cao hơn, công lực tích cực của chúng ta lại càng cao hơn. Ví dụ: Một cậu sinh viên trẻ ở mức tích cực thấp nhất sẽ rất mạnh mẽ, đánh đâu thắng đó, làm gì được đó. Một đại sư ở cấp thứ 3, xem ra lúc nào cũng chậm rãi nhẹ nhàng và chẳng có sức mạnh gì cả. Tuy nhiên khi phải đối diện cái chết vì ly’‎ do nào đó, vị đại sư sẽ thản nhiên bình tĩnh và ứng phó tốt hơn chàng sinh viên rất nhiều. Nói chung là trong các tình huống cực kỳ gay go, năng lực tư duy tích cực của vị đại sư sẽ chiếu sáng, dù là bình thường thấy cụ có vẻ hơi thiếu calorie 🙂

Đọt Chuối Non là nơi để chúng ta tu bồi công phu tư duy tích cực. Các bạn vào Vườn Chuối chơi không chỉ để nghe nhạc, đọc thơ, hoặc đọc vài bài hấp dẫn nào đó… hoặc là chỉ để viết cái gì đó để post… Dĩ nhiên, mọi chuyện đó chính là Vườn Chuối. Nhưng mục đích đầu tiên của Vườn Chuối là chúng ta giúp nhau phát triển tư duy tích cực. Mong rằng tất cả chúng ta nhớ đến điều này và cố gắng phát triển tư duy tích cực mỗi ngày. Nếu đọc ĐCN, ngay cả viết bài cho ĐCN, mà không cố gắng phát triển tư duy tích cực của mình hàng ngày, tức là các bạn đã vào sai vườn rồi đó. 🙂

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Vốn xã hội

Chào các bạn,

Hôm nay mình đề cập đến một loại vốn gọi là Vốn xã hội rất quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển bền vững của một xã hội.

Vốn xã hội (social capital), cũng như tài nguyên thiên nhiên (natural capital – vốn tự nhiên) hay máy móc thiết bị sản xuất (manufactured capital – vốn sản xuất), cũng là một nguồn vốn trong nền kinh tế. Khái niệm này bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỉ 20 bởi Lyda Judson Hanifan, sau đó liên tục được phát triển bởi các nhà xã hội học, kinh tế học như Pierre Bourdieu, James Coleman hay Francis Fukuyama. Tuy vậy Robert D. Putnam, nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Mỹ, giáo sư đại học Harvard ngành chính sách công, là người đầu tiên đưa khái niệm vốn xã hội trở thành tâm điểm của các nghiên cứu khoa học và tranh luận rộng rãi.

Theo Putnam “vốn xã hội là các mối liên kết giữa các cá nhân – các mạng lưới xã hội và các quy tắc qua lại và từ đó hình thành nên sự tin tưởng”. Ông nhấn mạnh rằng yếu tố căn bản trong vốn xã hội đó là “đạo đức dân sự” (civic virtue), và yếu tố này càng mạnh hơn trong một xã hội có các mối quan hệ xã hội qua lại (reciprocal social interactions). Một xã hội có nhiều cá nhân bị tách biệt thì không giàu vốn xã hội . Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các hiệp hội (association) và xã hội dân sự. Vốn xã hội góp phần nâng cao chất lượng c ủa một đời sống dân sự và phát triển một xã hội dân sự.

Ngân hàng thế giới cũng đã công nhận “vốn xã hội chỉ đến các tổ chức, các mối quan hệ, và các khái niệm hình thành nên số lượng và chất lượng của các tương tác xã hội trong một xã hộị. Ngày càng có nhiều minh chứng cho thấy các cố kết xã hội rất quan trọng cho các xã hội tăng trưởng về mặt kinh tế và phát triển một cách bền vững”.

Trong cuốn sách “Bowling Alone: The collapse and revival of American community” ông đưa ra một số lý do giải thích vì sao vốn xã hội quan trọng:

1. Vốn xã hội cho phép công dân giải quyết các vấn đề tập thể dễ dàng hơn, mọi người thường có lợi nếu họ hợp tác với nhau để giải quyết phần việc của mình

2. Khi mọi người tin tưởng và đáng tin tưởng, thì các mối quan hệ xã hội và kinh doanh sẽ tốn ít chi phí hơn

3. Khi con người thiếu các liên hệ với người khác, họ sẽ không thể kiểm tra sự đúng đắn của quan điểm của họ, do đó họ dễ có xu hướng bị lung lay bởi những lúc thiếu bình tĩnh.

Vốn xã hội đối với một cá nhân có thể đơn giản là các mối quan hệ xã hội mà người đó có, được xây dựng trên sự tin tưởng và có tính cố kết chặt chẽ. Một người nói rằng danh sách bạn bè của mình có hơn 100 người, nhưng có khi cả năm không nói chuyện với nhau thì đó không phải là những mối quan hệ bền vững. Mặt khác, một người có ít hơn 100 bạn, nhưng lại thường xuyên nói chuyện, hỏi thăm, trao đổi thư từ, gặp gỡ những người này thì rõ ràng là vốn xã hội mà người này có lớn hơn nhiều. Giàu vốn xã hội hay nói cách khác là giàu các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tin tưởng, tích cực và bền chặt là có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các cá nhân hạnh phúc và thành công hơn trong cuộc sống. Ví dụ đơn giản, khi bạn cần mua một chiếc máy tính chẳng hạn. Nếu bạn có một người bạn làm trong nghề buôn bán máy tính hay am hiểu máy tính, bạn biết người này rất rõ và tin tưởng họ, thì bạn hoàn toàn có thể nhờ người này tư vấn để mua máy tính mà khỏi cần tìm hiểu các nguồn thông tin trên mạng rất mất thời gian.

Khi xin việc cũng vậy. Có một con số không chính thức là 70% việc ở Mỹ không được đăng tải chính thức trên các phương tiện truyền thông, mà qua truyền miệng. Do đó rất nhiều người tìm được việc qua bạn bè giới thiệu, và thực tế cũng cho thấy tỉ lệ hài lòng với công việc cao hơn, tỉ lệ bỏ việc thấp hơn trong nhóm những người xin việc qua các mối quan hệ cá nhân như thế này.

Đối với các tổ chức hay doanh nghiệp, vốn xã hội cũng đem đến một số lợi ích như:

1. Chia sẻ kiến thức tốt hơn có được từ các mối quan hệ tin tưởng đã được thiết lập, các khung tham khảo chung, các mục tiêu chung

2. Chi phí giao dịch giảm, do mức độ tin tưởng tăng cao hơn

3. Tỉ lệ nghỉ việc và thay thế nhân viên thấp, giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo

4. Tính cấu kết cao giúp cho tổ chức ổn định và chia sẻ những hiểu biết chung

Putnam cũng đưa ra một số yếu tố để xác định vốn xã hội thông qua một số ví dụ về sự suy giảm nguồn vốn này trong xã hội Mỹ ở thế kỉ 20:

1. Tham gia về chính trị và dân sự: ví dụ như tỉ lệ bỏ phiếu, mức độ hiểu biết chính trị hay tin tưởng chính trị (politial trust). So với một thập kỉ trước đây, hiện nay số lượng người Mỹ kí vào các thư kêu gọi giảm 30%, và tham gia vào các cuộc tẩy chay hàng tiêu dùng giảm 40%. Điều đó cho thấy sự suy giảm trong đời sống cộng đồng, các hoạt động của các câu lạc bộ và các tổ chức tôn giáo cũng giảm đáng kể.

2. Các ràng buộc xã hội không chính thức: ví dụ vào năm 1975 trung bình một người Mỹ mời bạn của mình về nhà chơi 15 lần một năm, con số đó năm 1998 giảm xuống còn một nửa. Các hoạt động thể thao tập thể cũng đang suy giảm.

3. Sự khoan dung và tin tưởng: mặc dù người Mỹ ngày càng khoan dung hơn với người khác nhưng lại kém tin tưởng người khác hơn. Cơ hội nghề nghiệp cho các ngành như cảnh sát, luật sư, và bảo vệ cá nhân đã giảm đi trong thế kỉ 20. Ví dụ số lượng luật sư trên đầu người năm 1970 giảm so với năm 1900.

Do vậy xây dựng vốn xã hội rất quan trọng trong thành công của mỗi cá nhân cũng như một xã hội nói chung. Có nhiều hoạt động để chúng ta tham gia thường xuyên và liên tục phát triển vốn xã hội của mình, ví dụ như:

1. Thường xuyên gọi điện hỏi thăm bạn bè và người thân ở xa
2. Giúp đỡ mọi người mọi lúc mọi nơi nếu có thể, và giúp đỡ một cách chân thành
3. Nói “Không có gì” khi có ai đó xin lỗi
4. Nói “Xin lỗi” và “Cảm ơn” mỗi ngày
5. Tổ chức một buổi họp mặt với bạn bè hay người thân
6. Tham gia cuộc họp của khu phố
7. Đăng kí bầu cử và bầu cử
8. Ủng hộ các doanh nghiệp địa phương
9. Hiến máu
10. Tránh “buôn dưa lê”
11. Tham gia một buổi tiệc ở nhà bạn bè khi được mời
12. Biết được các giáo viên của con bạn
13. Hát trong một nhóm nhạc
14. Đi bộ hoặc đi xe đạp để ủng hộ một hoạt động nào đó và rủ mọi người cùng tham gia
15. Trả lời một bản điều tra nếu bạn được hỏi
16. Đọc sách cho con bạn
17. Tham gia một nhóm tình nguyện
18. Đọc tin tức địa phương thường xuyên
19. Tình nguyện đưa đón giúp một người nào đó
20. Chào khi gặp một người quen
21. Chào những người lạ khi đi trên phố
22. Đi bộ ra công viên
23. Rủ bạn bè tham gia một buổi tiệc hay dã ngoại
24. Mở cửa cho ai đó khi họ cần giúp đỡ
25. Tổ chức một buổi họp mặt gia đình

Chúc các bạn một ngày thân ái,

Hoàng Khánh Hòa

Lời nguyện cho thế giới

Thế giới
.
Không có thế giới ở bên ngoài chúng ta. Thế giới, thực tế, là sự phóng ảnh của toàn thể chúng ta về tình yêu và nỗi sợ hãi, những hy vọng và những mâu thuẩn. Bằng cách nhận lãnh trách nhiệm cho ý nghĩ và cảm xúc của chính mình, chúng ta góp phần vào việc chữa lành thế giới.

Thế giới nguy kịch bởi chúng ta nguy kịch. Thế giới chuyển đổi dữ dội bởi chúng ta chuyển đổi dữ dội. Thế giới vẫn có một cơ hội sống còn, vừa vì nhờ chúng ta vừa vì bất kể chúng ta.

Lời nguyện của chúng ta cho thế giới là đóng góp lớn nhất của chúng ta cho sự chữa lành và tái sinh của thế giới
.

Chúa ơi,

Có quá nhiều nguy hiểm trong thế giới hôm nay.

Có quá nhiều điên rồ, quá nhiều bóng tối và sợ hãi.

Những nguồn tài lực của con người không đủ để chống lại sự ác trên đường phố và trong tâm trí của chúng con.

Chúa ơi,

Hãy gửi tới một phép lạ.

Mong sao quyền năng của thánh linh của Chúa bật lên ánh sáng vào mọi quốc gia và mọi mái nhà, mọi khối óc và mọi trái tim, khởi động sự thánh khiết của chúng con, nhắc nhở chúng con về sự thật trong lòng.

Mong một tình yêu vĩ đại ôm ấp chúng con, một an bình sâu thẳm an ủi chúng con.
Bởi vì, Chúa ơi, chúng con sống trong những thời khắc sợ hãi, và chúng con ước mong một thế giới mới.

Chúng con hiến dâng hiện hữu này, vào ngọn lửa của tài năng của Chúa.

Tinh luyện lại kim loại này.

Thiết kế lại những sáng tạo của chúng con.

Nhắc nhở chúng con về những chân lý đời đời.

Đưa chúng con trở lại với thánh thiện nguyên thủy.

Lấy đi những thứ chúng con đã níu giữ và, vì vậy, kết án.

Bởi Chúa đầy quyền lực, Chúa ơi, và có thể làm những điều chúng con không thể.

Mong thế giới được tái sinh.

Giúp chúng con tha thứ và bỏ quá khứ lại phía sau, tương lai được Chúa đưa đường.

Tung hô Chúa, bởi Chúa có quyền năng.

Ngợi ca và cảm tạ Chúa, bởi Chúa dùng quyền năng để cứu chúng con, chữa lành chúng con, kéo chúng con ra khỏi quá khứ.

Và chúng con chấp nhận.

Cám ơn Chúa.

Amen.

~ Marianne Williamson

Nguyễn Minh Hiển dịch

The world
.
There is no world outside us. The world is, in fact, our collective projection of love and fear, hopes and conflicts. In taking responsibilities for our own thoughts and feelings, we play our part in the healing of the world.

The world is in a critical phase because we are. The world is in massive shift because we are. The world is in massive shift because we are. The world still has a chance for survival, both in spite of us and because of us.
Our prayers for the world are our greatest contribution to its healing and rebirth.

Dear God.

There is so much danger in the world today.
There is so much insanity, so much darkness and fear.
Our human resources are not enough to counter the evil on our streets and in our minds.

Dear God,

Please send a miracle.
Into every country and every home, into every mind and every heart, may the power of Your spirit now trigger the light, activate our holiness, remind us of the truth within.
May a great love now encompass us, a deep peace give us solace.
For Lord, we live in fearful times, and we long for a new world.
We surrender what is, to the bonfire of Your genius.
Refine this metal.
Refashion our creations.
Remind us of eternal truths.
Return us to our native grace.
Take back what we have kept and thus condemned.
For You are mighty, Lord, and can do what we cannot.
May the world be reborn.
Help us forgive and leave the past behind us, the future to be directed by You.
Hallelujah, for You have the power.
Praise and thanksgiving, as You use it to save us, to heal us, to lift us from the past.
And we accept.
Thank You very much.

Amen.

Cuộc sống giống như một cốc café

Một nhóm cựu sinh viên đã có những thành công nhất định trong sự nghiệp, cùng nhau đến gặp giáo sư đại học cũ của họ. Câu chuyện nhanh chóng trở thành những lời than phiền về sự căng thẳng trong công việc và cuộc sống.

Mời sinh viên của mình uống café, thầy giáo đi vào bếp và quay ra với một cái ấm café lớn và một lô cốc – sứ, nhựa, thủy tinh, một số cái trông đơn giản, một số cái đắt tiền, một số cái nhìn rất đặc biệt – và bảo sinh viên tự tay rót café.

Khi tất cả các sinh viên đã có một cốc café trong tay, vị giáo sư bảo: “Nếu các em để ý, tất cả những cái cốc đẹp đã được lấy hết, chỉ còn lại mấy cả trông đơn giản và rẻ tiền. Việc các em chỉ muốn cái tốt nhất cho mình là lẽ thường, và đó là nguồn gốc của các vấn đề và căng thẳng mà các em gặp phải”.

Hãy nhớ rằng chiếc cốc bản thân nó không tăng thêm giá trị cho café. Trong phần lớn các trường hợp, nó chỉ đắt tiền hơn và trong một số trường hợp, làm chúng ta quên đi chúng ta đang uống gì. Cái mà các em thực sự muốn là café, không phải là chiếc cốc, nhưng các em đã tự chọn những chiếc cốc tốt nhất…Và sau đó thì nhìn sang cốc của người khác.

Bây giờ hãy nghĩ về điều này: Cuộc sống là café, còn công việc, tiền và vị trí trong xã hội là những chiếc cốc. Chúng chỉ là dụng cụ để đựng và chứa cuộc sống, và hình thức của chiếc cốc không định nghĩa, cũng không thay đổi chất lượng cuộc sống mà chúng ta sống.

Đôi khi, do tập trung vào cái cốc, chúng ta đã quên việc thưởng thức café. Hãy thưởng thức café, không phải chiếc cốc. Những người hạnh phúc nhấ không có những thứ tốt nhất của mọi thứ. Họ chỉ tạo ra thứ tốt nhất của mọi thứ. Sống đơn giản. Yêu rộng lượng. Quan tâm sâu sắc. Nói chân thành.

~ Unknown Author
Hoàng Khánh Hòa dịch

Life is Like a Cup of Coffee

A group of alumni, highly established in their careers, got together to visit their old university professor. Conversation soon turned into complaints about stress in work and life.

Offering his guests coffee, the professor went to the kitchen and returned with a large pot of coffee and an assortment of cups – porcelain, plastic, glass, crystal, some plain looking, some expensive, some exquisite – telling them to help themselves to the coffee.

When all the students had a cup of coffee in hand, the professor said: “If you noticed, all the nice looking expensive cups have been taken up, leaving behind the plain and cheap ones. While it is normal for you to want only the best for yourselves, that is the source of your problems and stress.

Be assured that the cup itself adds no quality to the coffee. In most cases it is just more expensive and in some cases even hides what we drink. What all of you really wanted was coffee, not the cup, but you consciously went for the best cups… And then you began eyeing each other’s cups.

Now consider this: Life is the coffee; the jobs, money and position in society are the cups. They are just tools to hold and contain Life, and the type of cup we have does not define, nor change the quality of life we live.

Sometimes, by concentrating only on the cup, we fail to enjoy the coffee. Savor the coffee, not the cups! The happiest people don’t have the best of everything. They just make the best of everything. Live simply. Love generously. Care deeply. Speak kindly.

Những điều trông thấy mà…

Tôi vưà có hai chuyến điền dã tìm hiểu văn hoá cổ truyền của người Mnông ở tỉnh Đak Nông và người K’Ho ở tỉnh Lâm Đồng. Đây vốn là hai tộc người cùng chung ngữ hệ Môn – Khơmer, có rất nhiều điểm tương đồng về nghệ thuật diễn xướng goong – ching (bài bản ching, làn điệu dân ca, dân nhạc) và phong tục tập quán ( kiến trúc nhà, sản xuất nương rẫy, tang ma, cưới hỏi…). Điểm khác nhau cơ bản là: nếu trong chương trình sưu tầm sử thi đã thực hiện ở Tây Nguyên, các nhà khoa học “nhặt” được từ người Mnông hàng trăm tác phẩm trường ca – sử thi (ot, n’trong) đồ sộ, thì hình thức văn học truyền miệng độc đáo này (Yang yao) ở vùng người K’Ho chỉ còn là những trường đoạn đứt gãy. Thậm chí văn hoá truyền thống K’Ho hầu như chỉ lờ mờ trong ký ức người già (từ 70 mùa rẫy trở lên), lớp trung niên (từ 60 tuổi trở xuống) gần như chẳng còn nhớ gì nhiều .Tuối càng thấp thì sự hiểu biết về văn hoá tộc người của chính mình càng ít.

Giáo sư – Tiến sỹ khoa học Tô Ngọc Thanh , Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian VN đã từng có lần xót xa nhận xét “cái nghèo khiến các dân tộc còn giữ được văn hoá truyền thống”. (Điều này dưòng như mẫu thuẫn với một câu ngạn ngữ của người Việt, rằng “phú quý sinh lễ nghĩa” chăng? Bởi các tỉnh, huyện, xã miền xuôi khắp cả nước, chẳng đang đua nhau khôi phục các lễ hội truyền thống đó sao?).

Tuy nhiên, điều tôi muốn đề cập trước hết trong câu chuyện này, chưa phải về văn hoá cổ truyền, mà là về đời sống của hai tộc người tương đối gần gũi về phong tục tập quán, ở hai địa bàn khác nhau vừa nói đến ở trên.

Nói theo kiểu người Tây Nguyên chúng tôi phải tận mắt nhìn, phải tự tai nghe mới tin, thì :

– Đa số gia đình người Mnông ở các huyện Đăk Rlâp, Quảng Khê, Krông Nô, Đăk Song, thị xã Gia Nghĩa…thuộc tỉnh Đăk Nông mà chúng tôi đến, đều chưa thoát khỏi đói nghèo, do sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, thiếu đất. Tuy hầu hết đã chuyển từ nhà tranh sang nhà ván, nhà gạch,mái tôn, nhưng chỉ là những căn nhà cấp 4, diện tích hẹp. Có rất ít thanh niên người Mnông học tới trình độ cao đẳng và đại học.

Trò chuyện cùng chúng tôi, người dân đều có nguyện vọng được có đất để làm rẫy, may ra mới khỏi đói. Thậm chí có vùng còn đề nghị được chuyển cư đi tìm đất. Bà con cũng lý giải việc khó khôi phục lại văn hoá truyền thống, vì mọi lễ nghi, lễ hội đều liên quan tới lương thực, thực phẩm, mà điều đó hiện nay không thể giải quyết được.

– Người K’Ho ở tất cả những nơi chúng tôi đến (Lâm Hà, Lạc Dương, Đức Trọng, Di Linh,Dam Rông) đều có cuộc sống khá hơn hẳn, đặc biệt những nhà làm cà phê, hoặc chuyên canh rau & hoa (những vùng làm lúa tuy không giàu có bằng, nhưng cũng không bị đói). Rất nhiều gia đình xây nhà dạng biệt thự khang trang, đầy đủ tiện nghi (ti vi, bếp ga, máy giặt, tủ lạnh…). Người K’Ho là một trong những dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên có đông trí thức nhất.

Trao đổi điều này với những người nông dân K’Ho mà chúng tôi gặp, bà con đều cho rằng: mặc dù kỹ thuật chưa cao, nhưng do có đất sản xuất, nên thu nhập đủ sống, đủ nuôi con ăn học. Nhưng khi chúng tôi hỏi “con cháu mình biết gì về văn hoá tộc người mình?”, hầu hết đều trả lời “ không biết gì ngoài tiếng nói”. Họ cũng bày tỏ nguyện vọng muốn khôi phục lại văn hoá truyền thống, nhưng hầu hết không hiểu nên giữ lại cái gì, bỏ đi cái gì (bởi đa số là tín đồ đạo Thiên Chúa & Tin lành), nhất là khi không mấy ai còn biết truyền thống văn hoá của mình có những gì, ngoài gong ching vừa được quốc tế công nhận là di sản văn hoá nhân loại, thì ở nhiều vùng đã im tiếng từ vài chục năm nay.

Vậy là hai tộc người thiểu số Tây Nguyên, hai hiện trạng cuộc sống giàu nghèo khác nhau, nhưng đều đứng trước nguy cơ mất hẳn kho tàng văn hoá đã từng rất đồ sộ và có giá trị vô cùng quý báu của mình, mất “di sản văn hoá phi vật thể truyền khẩu của nhân loại”

Trước hết là việc đời sống kinh tế chênh lệch rõ rệt ở hai vùng. Người Mnông nghèo và vẫn bị đói là do thiếu đất sản xuất. Thật khó tin, nhưng đó là sự thật. Chuyện xa hơn một chút, tù trưởng N’Trang Gưh đã từng dẫn 600 người Bih, người Mnông bỏ bon lan lùi sâu vào rừng chống Pháp. Những năm 60 của thế kỷ XX, khi lập vùng căn cứ kháng chiến chống Mỹ, tỉnh Đăk Lak phải động viên một số hộ người Êđê từ Krông Ana bỏ buôn làng quê hương chuyển cư sang, để có thêm dân, vì cơ số người Mnông ở Krông nô quá ít. Cách mạng mà không có dân, không có chỗ dựa , làm sao thành công? Ấy vậy mà ngày nay “số ít” những chủ nhân đích thực ấy, lại không có đủ đất canh tác để đảm bảo đời sống, chỉ no đủ thôi, chưa dám mơ tới giàu có, là sao?

Sau nữa là biện pháp bảo tồn một trong những “vùng văn hoá cồng chiêng” Tây Nguyên thì thế nào nhỉ? Thể theo ý nguyện của bà con, ấy là cần lắm những cán bộ văn hoá là người chính dân tộc mình, để cùng nhau bàn bạc, lựa chọn cái gì phù hợp mà bảo vệ lấy “ nó” cho khỏi mất đi. Đấy, cứ ngoái lại mà xem, nếu là người bản địa tham gia vào chương trình, thì đâu đến nỗi đêm khai mạc cồng chiêng quốc tế ở Gia lai bị đông đảo khán giả chê bai vì sự thiếu tôn trọng chính chủ thể cồng chiêng đến thế? Mà có phải thiếu người đâu? Có tới hai Nghệ sỹ nhân dân chuyên ngành đạo diễn múa là người Bâhnar và Hrê ở đó đấy chứ. Nhưng họ có được nhúng tay vào đâu? Phải mời hẳn một công ty ở Hà Nội vào thực hiện, mới thành công chứ.

Thêm một câu chuyện nho nhỏ : có người tự cho là tâm huyết, có ý thức trách nhiệm, đã đến tận xã Nhân Cơ, nơi đang triển khai dự án Bôxit ở tỉnh Đăk Nông xem tận mắt, rồi về lớn tiếng “mọi người nói sao chứ dự án chỉ lấy có rẫy của 3 hộ Mnông, đã đền bù thoả đáng rồi”. Vâng, nhưng có ai quan tâm đến một cái hồ có tên gọi “cá trê”, nơi mà mỗi năm một lần, các bon Mnông quanh vùng mang theo rượu cần, goong –ching, tụ tập cùng tát cá và ăn uống, múa hát chung ở đó, nay đã bị biến mất không? Xì ! Cái hồ là việc nhỏ.Số tiền đền bù ấy có thể mua được xe máy, xây nhà …tốt quá rồi còn gì? Cái đói nếu có đến là tại bà con không biết mua đất ở đâu mà sản xuất đấy, chứ có phải tại “ ông Boxit ” đâu ???

Buổi sáng đầu tiên chúng tôi ở trang trại Trung Nguyên tại M’Drăk,để bàn về việc chuẩn bị cho Festival cà phê quốc tế tại Đăk lăk năm 2010, một nhóm các nhà kinh tế trẻ, gồm toàn các Tiến sỹ vừa từ Hà Lan, Mỹ, Đài Loan về, đã thẳng thừng nhận xét “Soi lại lịch sử thì người Kinh chỉ giỏi đánh nhau, xâm chiếm đất đai, áp đặt lối sống của mình, chứ không hiểu và không biết cách bảo hộ văn hoá, không tôn trọng văn hoá ngay cả của chính mình lẫn của các dân tộc thiểu số khác ”.

Xin dành sự bình luận cho các bạn ghé qua “nhà” tôi nhé.

Linh Nga Niê Kdăm

Xin lỗi các dân tộc thiểu số

Chào các bạn,

Hôm nay mình muốn giới thiệu đến các bạn một vài mẫu tin thú vị, để chúng ta cùng suy nghĩ.

Ngày 13.2.2008, thủ tướng Úc Kevin Rudd, đại diện chính phủ và nước Úc, chính thức xin lỗi các bộ lạc thổ dân Úc về những chính sách và luật lệ của nước Úc đã “gây bi thảm, đau khổ và mất mát sâu đậm” cho bao nhiêu đời thổ dân đã qua.

Chính phủ Canada liền noi theo gương tốt. Ngày 12.6.2008, thủ tướng Canada Stephen Harper, đại diện chính phủ và nước Canada, chính thức xin lỗi các bộ lạc thổ dân da đỏ tại Canada, về những chính sách và luật lệ của Canada trong quá khứ để “giết chết người da đỏ trong lòng em bé thổ dân”. Thủ tướng nói: “Chính phủ Canada thành thật xin lỗi và xin được các dân tộc thổ dân của đất nước này tha thứ vì đã làm họ thất vọng một cách thâm sâu. Chúng tôi rất hối hận.”

Ngày 6.10.2009 vừa qua, Thượng Viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết xin lỗi thổ dân da đỏ Mỹ. Nghị quyết này chưa thể thành luật, cho đến khi được cả Hạ Viện đồng ý, và Tổng Thống ký ban hành. Dù vậy, nghị quyết cũng là một bước tiến đúng hướng.

Sau đây là nguyên văn bản thông báo của Ủy Ban Thượng Viện Mỹ Về Các Vấn Đề Liên Hệ Đến Người Da Đỏ

Để thông tin lập tức
Ngày 6.10.2009

Ủy Ban Thượng Viện Mỹ về Các Vấn Đề Liên Quan Đến Người Da Đỏ

Các Thượng nghị sĩ Brownback và Dorgan hoan nghênh việc Thượng Viện thông qua nghị quyết Xin Lỗi các Bộ Tộc Thổ Dân Mỹ.

Washingonton, DC – Các thượng nghị sĩ liên bang Sam Brownback (Cộng Hòa- Kansas) và Byron Dorgan (Dân Chủ-North Dakota) đã hoan nghênh việc Thượng viện thông qua Nghị Quyết Xin Lỗi Các Bộ Tộc Thổ Dân Mỹ, đề nghị sự xin lỗi của chính phủ Mỹ với Người Da Đỏ Mỹ. “Hành động của Thượng viện hôm nay là một bước tiến lớn cho liên hệ giữa chính phủ liên bang và Thổ Dân Mỹ,” Brownback nói. “Nghị quyết này nhằm tìm hòa giải và đề nghị sự xin lỗi chính thức đối với Thổ Dân Mỹ vì những lựa chọn gây đau đớn mà chính phủ liên bang đã làm trong quá khứ. Với nghị quyết này, chúng ta xác nhận những thất bại trong quá khứ và bày tỏ sự hối hận thành thật.”

Dorgan, chủ tịch Ủy Ban Thượng Viện về Các Vấn Đề Liên Quan Đến Người Da Đỏ, cùng đứng tên tác giả bảo trợ nghị quyết với Brownbach. Dorgan nói, “Rất khó để biết lịch sử của Những Người Mỹ Đầu Tiên [tức là các thổ dân] và chính sách phá hoại mà chính phủ của chúng ta thường dùng đối với họ, mà không cảm thấy tràn ngập buồn rầu và hối hận.”

Nghị Quyết Xin Lỗi Thổ Dân Mỹ được thông qua như một tu chính án cho Dự Luật Quốc Phòng. Nghị quyết này mang lời xin lỗi chính thức từ Nước Mỹ đến các chính quyền thổ dân và người thổ dân trong toàn quốc. Nghị quyết xin lỗi này không phải là sự cho phép, hoặc dùng như là giải quyết cho, các tranh chấp đang có với chính phủ, cũng như không giải quyết nhiều thử thách Thổ Dân Da Đỏ Mỹ đang gặp phải. Một Nghị Quyết Xin Lỗi Người Da Đỏ Mỹ đã được đưa ra Quốc Hội, và đã được Thượng viện thông qua năm 2008, nhưng đã không được thành luật.


Chúng ta có nguyên bản tiếng Anh của thông báo này dưới đây, cũng như một bài báo nói về việc Người Da Đỏ Mỹ tiếp tục làm việc để lobby với chính phủ về việc chính phủ xin lỗi chính thức.

Đó là chuyện đang xảy ra trên thế giới.

Còn chúng ta, chúng ta đã có bao giờ thấy ta đã làm cho bao nhiêu dân tộc thiểu số anh em đau khổ trong quá khứ?

Và chính sách của chúng ta đối với các dân tộc anh em thiểu số hiện nay có nâng đở, ủng hộ, đưa lên, hay chỉ là kéo dài bất công và đau khổ?

Ngày nào chúng ta, như là một dân tộc, thấy là chúng ta cần phải xin lỗi chính thức? Chính phủ chúng ta phải xin lỗi chính thức?

Trong thời gian chờ đợi một câu xin lỗi chính thức, chúng ta có thể làm được gì NGAY BÂY GIỜ để chấm dứt các áp bức vô tình hay cố ý, và để nâng cao tiếng nói, vị thế và quyền lợi của các dân tộc anh em thiểu số trong nước ta?

Hãy thành thật nhìn lại lòng mình và chính sách của mình trước con tim của chính mình và Chúa hay Phật của mình.

Chúc các bạn một ngày thành thật.

Mến,

Hoành

.

For Immediate Release
10/07/09
Email This
Print This
BROWNBACK, DORGAN APPLAUD SENATE PASSAGE OF NATIVE AMERICAN APOLOGY RESOLUTION
WSAHINGTON, DC – U.S. Senators Sam Brownback (R-KS) and Byron Dorgan (D-ND) today applauded Senate passage of the Native American Apology Resolution, which offers an apology from the United States government to American Indians.    “The Senate’s action today is a big step for the relationship between the federal government and Native Americans,” said Brownback.  “The resolution seeks reconciliation and offers an official apology to Native Americans for the hurtful choices the federal government made in the past.  With this resolution we acknowledge previous failures and express sincere regrets.” Dorgan, Chairman of the Senate Committee on Indian Affairs, joined Brownback as co-sponsor of the amendment.  Dorgan said, “It is difficult to know the history of the First Americans and the destructive policies our government has too often followed regarding them, and not be filled with both sadness and regret.  It is appropriate that we, as a nation, express that sorrow and regret with this apology resolution.” The Native American Apology Resolution passed as an amendment to the Defense Appropriations bill.  The resolution extends a formal apology from the United States to tribal governments and Native American people nationwide.  The resolution of apology does not authorize or serve as a settlement of any claim against the United States and does not resolve many challenges still facing Native Americans.  The Native American Apology Resolution has been introduced in previous Congresses, and passed the Senate in 2008, but was not signed into la

.

Local American Indians Call for Formal Apology Print E-mail
By Natalie Bedell
Tuesday, November 24 2009 17:24
While families across the U.S. gather around their household tables this Thanksgiving, local members of the American Indian Society of Washington, D.C. will be meeting up with their own family — each other, for a potluck dinner at the Burgundy Community Center in Alexandria.

powwow Members of the American Indian Society (AIS) of Washington, D.C. celebrate Mother’s Day with a pow wow. (Photo: Courtesy Kathleen Dorn)

But, according to Michael Nephew of Falls Church, their table talk will be less about a pilgrim story of the past and more about catching up with one another.

Nephew, who serves as the organization’s president, saw the American Indian Society (AIS) as an opportunity for American Indians to get together with their brothers and sisters in the community when he moved to the area from New York years ago. He is an enrolled member of the Eastern Band of Cherokee Indians, as well as being part of Seneca and Cayuga.

Nephew first heard the story of Thanksgiving when he was a young boy, but said he “ironically heard very little” about Native American Indian history during his high-school years.

He said the biggest misconception about how Thanksgiving is taught in public schools is the “fighting that occurred shortly afterwards between [the settlers] and Native Americans often goes unmentioned.”

The holiday story traditionally taught in classrooms is a happy one of pilgrims who were befriended by the Natives, taught to hunt and gather and showed their gratitude with a shared meal. However, Nephew recalled a slightly different version of the feel-good tale, one of bloodshed and greed.

“[The settlers] were biting the hand that fed them,” said Nephew, referring to various wars that took place soon following 1621, during which many Natives were killed by colonists.

One thing Nephew believes can heal the wounds of political and social distrust between modern-day American Indians and the U.S. government is a formal expression of remorse from the latter.

“I think there needs to be an apology,” said Nephew, citing the Canadian government’s apology to its indigenous tribes in 1998.

Nephew said he wouldn’t be able to show anyone the land where he played as a kid even if he wanted to.

“People don’t think [the government] is taking away Natives’ land today, but yes, it has happened. And it’s happened in our lifetime,” said Nephew.

And what about those who believe they shouldn’t have to apologize for something they didn’t personally do?

“Well, it might have been their parents, especially in this area, where so many parents are involved with the government at that time. It’s not as far back as some may think,” said Nephew.

AIS Treasurer Mary Sunbeam agreed, challenging President Obama to a second Thanksgiving — to which tribal chiefs are invited to the White House for a peace-offering meal.

“We have not been healed. No president has come forward. We’re not asking for money or retribution,” said Sunbeam, who added that “these kinds of forgiveness need to happen” and that American Indians are looking for it to come from “power sources who’ve been too lax.”

On Nov. 5, President Obama held the first annual White House Tribal Nations Conference at the Department of the Interior. Invited were leaders from each of the federally recognized tribes in the U.S., as Obama signed a memorandum directing “every Cabinet agency to give a detailed plan within 90 days of how … to improve tribal consultation.” A formal apology was not issued.

“At some point, [the U.S. government] needs to say, ‘This is what happened. It wasn’t a good thing for our country. It wasn’t a good thing for the tribal people,’ and to heal the pain where there’s no closure, just open wounds,” said Sunbeam, a member of the Cherokee Nation of the Appalachia tribe.

Aside from her AIS duties, Sunbeam serves as the president of Positive Education, Inc., designing and presenting courses on Native American Indian cultures to schools, businesses and religious organizations.

She said the only Native American education she’s heard of public-school students having are brief mentions during the second and sixth grade, but that “most teachers are not trained in college to teach Native American history.”

“Thank goodness they will call on people like me to teach these things. Even today’s immigrants coming to the U.S. will ask me if I am a real Indian because they’ve been told we’re all dead,” said Sunbeam.

She said the blame, however, doesn’t fall solely on government-run school systems, but equally in the laps of American Indians. Sunbeam added that, unlike the NAACP, the American Indian community has not had enough advocacy for more extensive education.

“We can’t say it’s the government’s fault. Where are we? We don’t have enough activism in our own culture,” said Sunbeam, who hopes to change that through her own curriculum. Her work has been acknowledged by the American Association of Community Colleges with a Northern Virginia Community College Model Program Award.

As far as an organization comparable to the NAACP, Nephew said the Association is racially categorized, whereas “the tribal government is a political entity.”

“Part of the reason why there isn’t something like [the NAACP] for American Indians is people from each tribe have to make sure their particular tribe survives as opposed to recognizing all Natives and trying to lend support to other tribes,” said Nephew.

Still, Sunbeam believes U.S. politics play a critical role in Native American history teachings, or lack thereof, in today’s schools.

“The bottom line is education is political,” said Sunbeam, who suggested the U.S. government incorporate Native American history into the U.S. citizenry test.

michaelnephew Michael Nephew, President, American Indian Society of Washington, D.C. (Photo: News-Press)

As far as Thanksgiving, Sunbeam and Nephew agreed that the holiday’s theme is a bit novel, given that expressing thanks is a culturally embedded part of their everyday lives and not just a one-day event.“What came to be known as the first Thanksgiving was the idea of sharing food for people in need. It wasn’t a kindness thing; it was something you just do. It wasn’t religious, though it became so later on,” said Sunbeam, who added that “giving thanks to God, the great source, for weather to produce a harvest was always part of her culture” growing up.

She recalled being taunted by her peers in grade school for once bringing a dandelion sandwich to school.

“Nowadays, people go to GNC and buy dandelion root, the weed in their yard they find a nuisance. But when I was a kid, I was taught it was nature’s product for organs after the winter time and your body gets sluggish,” said Sunbeam, who garnered more than a few chuckles as a little girl with green stuff in her teeth. Taking the high road even then, she said she looked at it as “their ignorance, and I tried to educate them.”

Nephew recalled being looked to in high school from his peers as a historical fact checker. Still offering up the facts today, he works alongside other AIS leaders, to speak at government agencies and private schools about his culture’s historical footprint.

As far as Sunbeam’s message to open ears she encounters, she said, “Save money on the self-help books. We all have a belly button. We’re all one human race. I’m working on getting that message across.”

There are 564 federally recognized tribes in the U.S. To this day, neither Virginia, Maryland nor Washington, D.C. have federally recognized tribes, leaving people within those tribes ineligible for federal funds ranging from health care to housing assistance.

Both Rep. Jim Moran and Sen. Jim Webb sponsored legislation this year granting federal recognition to six Virginia Indian tribes, which was OK’d by the House in June.

As of Oct. 22, the Indian Tribes of Virginia Federal Recognition Act of 2009 passed in the Senate Committee on Indian Affairs.

Kinh Lạy Cha – The Lord’s Prayer

Chào các bạn,

Chúng ta đã nói khá nhiều về thiền và thiền thi, một suối nguồn tư duy tích cực trong văn hóa Việt Nam. Hôm nay chúng ta nói đến Kinh Lạy Cha của Kitô giáo, gốc rễ của tư duy tích cực của người Kitô giáo trên khắp thế giới, kể cả Việt Nam.

Ở đây chúng ta chỉ phân tích Kinh Lạy Cha như một hiện tượng văn hóa, và giải thích ảnh hưởng của Kinh Lạy cha trên tư duy tích cực của chúng ta, và hạn chế các phân tích có tính cách thuần tôn giáo.

Kinh Lạy Cha, tiếng Anh goi là The Lord’s Prayer, Lời Cầu Nguyện Của Chúa. “Chúa” đây là Chúa Giêsu, tác giả của lời cầu nguyện này. Trong thánh kinh, khi mọi người hỏi Chúa Giêsu cách cầu nguyện, Chúa Giêsu cho họ Kinh Lạy Cha. Câu chuyện này được ghi lại tại Matthew 6: 9-13, được coi như một phần của Bài giảng trên núi, và tại Luke 11:2-4.

Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện phổ thông nhất và thịnh hành nhất trong Kitô giáo (gồm Công giáo, Chính thống giáo và các hệ phái Tin lành), đồng thời cũng là lời kinh phổ thông nhất trong mọi tôn giáo trên thế giới.

Bản tiếng Việt

Lạy cha chúng con ở trên trời,
Chúng con nguyện danh cha cả sáng,
nước cha trị đến,
ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.


Amen

Bản tiếng Anh

Our Father, who art in heaven,
Hallowed be thy Name.
Thy kingdom come.
Thy will be done,
On earth as it is in heaven.
Give us this day our daily bread.
And forgive us our trespasses,
As we forgive those who trespass against us.
And lead us not into temptation,
But deliver us from evil.
[For thine is the kingdom,
and the power, and the glory,
for ever and ever.]
Amen.

Bản tiếng La Tinh

Pater noster, qui es in caelis
Sanctificetur nomen tuum;
Adveniat regnum tuum.
Fiat voluntas tua
Sicut in caelo et in terra
Panem nostrum quotidianum da nobis hodie.
Et dimitte nobis debita nostra,
Sicut et nos dimittimus debitoribus nostris.
Et ne nos inducas in tentationem;
Sed libera nos a malo.
[Quoniam tibi est regnum et potestas et gloria in saecula.]
Amen.

Đọc bài kinh ta thấy nội dung chia làm hai đoạn rất rõ ràng. Đoạn đầu là ca tụng Chúa. Đoạn sau mới cầu nguyện cho chính mình.

I. Khiêm tốn

Đoạn đầu của Kinh Lạy Cha là để ca tụng Chúa. Nhưng nếu ta chỉ có IQ cở dưới trung binh thôi, ta cũng có thể biết được chẳng có Thượng đế nào cần mấy tiếng tung hô của con người cả. Đã là Thượng đế thì không cần được khen hay tung hô.

Vậy thì các việc ca tụng Thượng đế là để cho chính chúng ta, những tín hữu, để chúng ta biết kính sợ Thượng đế để mà khiêm tốn.

Đoạn đầu của Kinh có thể viết ra dễ hiểu hơn một tí như sau:

“Lạy Cha của chúng con ở trên trời, chúng con cầu xin cho tên của cha được chiếu sáng, nước của Cha trị sẽ đến với tất cả mọi người, ý muốn‎ của Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời.”

Khi ta tự nhắc lại về quyền năng và vương quốc của Thượng đế, và uy quyền của “ý muốn” của Thượng đế, ta tự động dẹp bỏ cái tôi của mình–tôi, quyền năng của tôi, vương quốc của tôi, ý của tôi… không quan trọng.

Đây gọi là submission—“khuất phục” trước Thượng đế, hay “giao phó” cuộc đời của mình cho Thượng đế. Cái tôi của mình không còn nữa. Nó đã hoàn toàn thuộc về Thượng đế. Gần như là “vô ngã” trong Phật gia.

Submission hay total submission (giao phó hoàn toàn vào tay chúa) là một ý niệm cực kỳ căn bản và quan trọng hàng đầu của các tôn giáo thuộc dòng Maisen (Moses)–Do Thái giáo, Kitô giáo (Công giáo, Chính thông giáo, Tin lành), và Hồi giáo. (Những tôn giáo này cũng có thể được gọi chung là Thiên chúa giáo–tôn giáo lấy Thiên chúa (God/Allah) làm chủ).

Khiêm tốn!

(Chú thích: Về “nước Cha trị đến”, nhiều người tưởng rằng đó là biến cả thế giới thành Kitô giáo. Thực ra luật vàng của Chúa Giêsu chỉ có hai điều: Kính mến Thượng đế và Yêu người. Và Thượng đế có nhiều tên khác nhau: Ông trời, Thượng đế, Ngọc hoàng, Chúa, Allah, God, Yahweh… Làm được hai điều này là đã thuộc về “nước” của Thượng đế, ngay trong tâm ta).

II. Lo cho mình

Phần sau của Kinh Lạy Cha là các câu cầu xin cho chính mình:

“Xin cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ.” Tức là chỉ xin đủ ăn, đủ mặc, đủ chi dụng cho những nhu cầu tất yếu. Không xin giàu sang phú quý, tiền rừng bạc biển.

Thế thì ý niệm tài sản, của cải, là gì trong Thiên chúa giáo? Thưa, tài sản là do Thượng đế giao cho ta quản lý, để ta gầy dựng sinh lời cho Thượng đế. (Xem dụ ngôn về các đồng bạc, Matthew 25:14-30. Tuy nhiên, dụ ngôn này nói về nhiều thứ sâu thẳm hơn chỉ là tiền bạc).

Và dĩ nhiên là tài sản của Thượng đế thì phải được quản lý để phục vụ “Chúa trong mọi người”, tức là phục vụ mọi người quanh ta, mà chúng ta vừa đề cập khi nói đến Kinh Hòa Bình của Thánh Francis.

two-women-hugging-forgiveness

“Xin cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Mỗi người chúng ta làm rất nhiều lầm lỗi trong đời, và nhiều người khác cũng đã lầm lỗi thiệt hại ta. Ta phải tha thứ cho người khác, trước khi cầu xin và được Thượng đế tha thứ cho ta.

Xưng tội , giải tội, sẽ không giải quyết gì cho ta cả, nếu ta chỉ làm công thức mà không làm trong lòng, là tha thứ lỗi lầm của người khác. Nếu ta cầm buộc người khác, Thượng đế cầm buộc ta.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chỉ cần sống không làm bậy là đủ. Không cần phải là anh hùng, vĩ nhân, thánh… Không cần phải đến mức hy sinh tánh mạng cho Chúa, hay bán hết nhà cửa để giúp người nghèo, hay tử vì đạo… Chỉ cần đừng sa vào cám dỗ là đủ–đừng si mê, sân hận, ghen ghét, đố kỵ, dối trá, trộm cướp, tà dâm, tham nhũng, bóc lột…

Và nếu lỡ bị lầm lạc vào đường xấu, vào sự dữ, thì xin Chúa cứu ta ra.

Từ “cám dỗ” ở đây ám chỉ là không ai trong chúng ta muốn và thiết lập kế hoạch để làm bậy cả. Chẳng qua là “sa chước cám dỗ” nên làm bậy thôi. Bản tính của mỗi người chúng ta là thanh khiết.

Amen là “mong được như vậy.”

Kinh Lạy Cha chỉ giản dị vậy thôi: Khiêm tốn trước mặt Thượng đế, đủ ăn đủ mặc, tha thứ, và đừng làm bậy.

Quy luật sống không bao giờ phức tạp. Cực kỳ giản dị. Chúng ta không chịu theo các quy luật sống đã tồn tại mấy ngàn năm và vẫn còn được nhắc đến bởi vài tỉ người trên thế giới ngày nay, nhiều lần trong một ngày. Và chúng ta thường đọc Kinh Lạy Cha mà không thực sự thực hành. Rồi ta lại than van sao cuộc sống quá khó khăn và phức tạp.

Chúc các bạn một ngày vui.

Sau đây mời các bạn nghe Barbara Streisand hát the Lord’s Prayer, và ca đoàn giáo xứ Sao Mai, Vũng Tàu, hát Kinh Lạy Cha.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

.

Barbra Streisand – The Lord’s Prayer

.

Kinh Lạy Cha – Ca đoàn giáo xứ Sao Mai, Vũng Tàu