Tag Archives: trà đàm

Lời khuyên của mẹ

Jiun, một thiền sư thời Sứ Quân, là một học giả tiếng phạn Sanskrit nổi tiếng đời Tokugawa. Khi còn trẻ, Jiun thường thuyết giảng cho các thiền sư khác.

Mẹ Jiun nghe điều này và viết cho chàng một lá thơ:

“Con, mẹ không nghĩ là con muốn theo Phật vì con muốn trở thành một quyển tự điển sống cho mọi người. Chẳng có giới hạn nào cho thông tin và lý giải, vinh quang và danh dự cả. Mẹ mong con bỏ hết các việc thuyết giảng này. Vào tu trong một thiền am nhỏ tại một góc núi xa. Dùng thời gian để thiền và nhờ đó mà có thể giác ngộ.”

Bình:

• Tokugawa Yoshinobu (28.10.1837-22.11.1913) là Sứ Quân (Shogun) cuối cùng của Nhật Bản, cho đến ngày chế độ sứ quân chấm dứt (1868).

Jiun (1718-1804) là một vị sư Chân Ngôn Tông (Shingon) và là một nhà cải tổ Phật giáo thời Tokugawa ở Nhật. Jiun chú trọng vào giáo dục Phật học và cải tổ đạo đức trong tâm ta. Jiun rất giỏi về mọi khía cạnh của Phật pháp, viết các sách dạy tiếng phạn Sanskrit đầu tiên ở Nhật, và thành lập ngành học về luật (vinaya) trong Chân Ngôn Tông.

• Bài viết này nêu lên vấn đề chúng ta thường nghe các vị thầy lớn của nhân loại nói tới nói lui rất thường xuyên: Đừng lệ thuộc vào ngôn từ để tìm trí tuệ và chân lý.

Lão tử nói: “Đạo mà có thể gọi là đạo thì không là đạo vĩnh viễn, tên mà có thể gọi là tên thì không là tên vĩnh viễn.”

Phật gia dạy ta không nên chấp vào “danh sắc.” Danh là tên, chỉ ngôn ngữ, tức là “không nên chấp vào ngôn ngữ.”

Chữ nghĩa ngôn từ cực kỳ giới hạn, hơn nữa lại tạo ra rối rắm nhiều hơn là trí tuệ. Khi anh chị yêu nhau, chỉ nhìn nhau không nói mà có thể hiểu nhau sâu thẳm. Khi hai vợ chồng sắp ly dị, một từ “ăn” chỉ có 2 mẫu tự, cũng chẻ ra, không chỉ làm 2 mà là 200 lần, để có lý do gây lộn ngày đêm.

Hiểu biết và chân lý không đến qua ngôn từ mà qua cảm xúc và trực giác. Tôi biết em yêu tôi vì tôi cảm được điều đó và trực giác (biết ngay) điều đó, mà chẳng cần ngôn ngữ hay lý luận. Hiểu biết và trí tuệ, về quả tim con người và chân lý của cuộc đờì, đến từ cảm xúc và trực giác. Ngôn ngữ và l‎ý luận nếu có giúp thì may ra chỉ là 1 phần trăm.


• Ngôn ngữ và l‎ý luận giúp thì ít mà hại thì có thể nhiều. Học trò mới học luận l‎ý thích dùng ngôn từ để lảm nhảm lý luận đủ kiểu và họ cho như thế là biết. Cho đến vài mươi năm sau, nếu họ có tiến bộ, họ sẽ khám phá ra là họ đã chẳng biết gì hết và đã chỉ tốn thời giờ gây lộn.

Hơn nữa, lý luận, ngôn ngữ, và thuyết giảng, thường đi theo các tràng pháo tay và các ca tụng cho giảng viên, chỉ làm cho “cái tôi” của giảng viên dễ bị ung thối.

• Tĩnh lặng (thiền) giúp cho chúng ta làm đằm cái tôi xuống (không lý luận, không tranh cãi, không có các tràng pháo tay…) và “nghe” được “cảm xúc” và những “cảm nhận” của mình về chính mình, vể người khác, và về thế giới quanh mình. Đó mới là cách để hiểu biết và có được trí tuệ.

• Mẹ Jiun, chứ không phải là bố, viết thơ khuyên bảo, nghĩa là phụ nữ thường giỏi hơn hơn đàn ông về cảm xúc và trực giác. Đàn ông thường lạc trong ngôn ngữ và lý luận.

• Mẹ còn có nghĩa là “tâm.” Mẹ ta là tâm ta. Và tâm ta muốn ta phải tĩnh lặng để có thể giác ngộ, tức là để tâm trở lại được căn tính trong sáng của tâm.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

A Mother’s Advice

Jiun, a Shogun master, was a well-known Sanskrit scholar of the Tokugawa era. When he was young he used to deliver lectures to his brother students.

His mother heard about this and wrote him a letter.:

“Son, I do not think you became a devotee of the Buddha because you desired to turn into a walking dictionary for others. There is no end to information and commentation, glory and honor. I wish you would stop this lecture business. Shut yourself up in a little temple in a remote part of the mountain. Devote your time to meditation and in this way attain true realization.”

# 20

Vui hay lo? – Một dụ ngôn

Phật nói một dụ ngôn trong kinh:

Một người đàn ông đi ngang cánh đồng và gặp con cọp. Anh ta chạy, cọp đuổi theo. Chạy đến một vực sâu, anh nắm rễ của một dây leo và nhảy xuống vực. Con cọp đứng trên vực đợi anh. Run rẩy, anh ta nhìn xuống đáy vực, một con cọp khác đang đợi dưới đáy để ăn anh. Chỉ có sợi dây leo đang giữ anh lại.

Hai con chuột, một trắng một đen, đang gặm sợi dây leo. Anh thấy một quả dâu chín mọng gần anh. Một tay nắm sợi dây leo, tay kia anh hái trái dâu. Ngọt ơi là ngọt!

Bình:

• Truyện này có nhiều phiên bản hơi khác nhau chút đỉnh, và nhiều người có những cách giải thích khác nhau. Chúng ta sẽ giải thích chuyện này theo tinh thần Thiền tông.

• Cọp trên vực và cọp ở dưới vực, tượng trưng cho điều không tránh được—đó là sự chết. Và cũng tượng trưng cho hai giới hạn của đời người: Cọp sau lưng (trên vực) là quá khứ, cọp trước mặt (dưới vực) là tương lai.

Đời người nằm giữa quá khứ và tương lai. Sơi dây leo tượng trưng cho đời người.

Chuột trắng chuột đen là biểu tượng của ngày và đêm, đưa con người dần đến sự chết.

Cuộc sống chỉ tạm thời, và ta nhất định sẽ có ngày chết.

• Thế trái dâu là tượng trưng cho điều gì?

Khoái lạc tạm thời làm cho ta si mê mà quên mất cái nguy đang gặp (như một số người giải thích)?

Nhưng nếu không ăn dâu cho thỏa thích, thì làm gì bây giờ?

• Tâm thiền là tâm rỗng lặng, không lo lắng về sự chết, không gánh nặng quá khứ và không lo sợ cho tương lai.

Sống thật là sống “ở đây lúc này.” Đừng lo chuyện không lo được. Trước cọp sau cọp, nếu đến lúc phải chết là ta sẽ phải chết, không cưỡng được, không thể chọn lựa được.

Nhưng trái dâu trước mặt, ta có cơ hội chọn lựa. Một là hưởng mật ngọt của nó, hai là để sợ hãi làm ta không thấy được trái dâu, không hưởng được nó.

Thiền là không lo sợ. An lạc vui sướng với “lúc này ở đây”.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

A Parable

Buddha told a parable in a sutra:

A man traveling across a field encountered a tiger. He fled, the tiger after him. Coming to a precipice, he caught hold of the root of a wild vine and swung himself down over the edge. The tiger sniffed at him from above. Trembling, the man looked down to where, far below, another tiger was waiting to eat him. Only the vine sustained him.

Two mice, one white and one black, little by little started to gnaw away the vine. The man saw a luscious strawberry near him. Grasping the vine with one hand, he plucked the strawberry with the other. How sweet it tasted!

#18

Cuộc sống ơi, tôi là năm mới

Cuộc sống ơi, tôi là năm mới
Tôi là một trang giấy trắng tinh trong cuốn sách thời gian của bạn
Tôi là một cơ hội tiếp theo của bạn trong nghệ thuật sống
Tôi là thời cơ của bạn để rèn luyện những gì đã học về cuộc sống trong suốt mười hai tháng qua
Tất cả những gì bạn đã kiếm tìm và đã không thấy, đang ẩn giấu trong tôi,
Chờ bạn tìm ra với nhiều quyết tâm hơn.
Tất cả những điều tốt đẹp bạn đã cố gắng và không giành được,
Là của tôi để cho bạn khi nào bạn có ít ham muốn mâu thuẫn.
Tất cả những gì bạn đã mơ nhưng không dám làm, tất cả những gì bạn đã hi vọng nhưng đã không quyết tâm,
Tất cả những niềm tin bạn đã khẳng định nhưng đã không có được –
Những điều này đã rơi vào giấc ngủ một cách nhẹ nhàng, đang chờ đợi để được thức tỉnh
Bởi lay động của một mục đích mạnh mẽ.
Tôi là cơ hội của bạn
Để làm mới lòng trung thành với Ngài, người đã nói “Nhìn đây, ta sẽ làm mới mọi sự.”
Tôi là năm mới.

~Unknown author
~Hoàng Khánh Hòa dịch
.

Life, I am the new year

Life, I am the new year.
I am an unspoiled page in your book of time.
I am your next chance at the art of living.
I am your opportunity to practice what you have learned about life during the last twelve months.
All that you sought and didn’t find is hidden in me,
waiting for you to search it out with more determination.
All the good that you tried for and didn’t achieve
is mine to grant when you have fewer conflicting desires.
All that you dreamed but didn’t dare to do, all that you hoped but did not will,
all the faith that you claimed but did not have —
these slumber lightly, waiting to be awakened
by the touch of a strong purpose.
I am your opportunity
to renew your allegiance to Him who said, “behold, I make all things new.”
I am the new year.

Điều gì làm nên một ngôi nhà đẹp?

Chào các bạn,

Điều gì làm nên một ngôi nhà đẹp, một forum trên Internet đẹp hay một góc phố đẹp và quyến rũ? Hay bất cứ cộng đồng nào nữa nhỉ?

Yếu tố trung tâm là: “tinh thần của những con người trong nhà đó đẹp” 🙂

Nội thất và kiểu dáng ngôi nhà? Cũng thú vị nhưng là yếu tố thứ hai 🙂

Ngôi nhà mở toang cửa đón ánh sáng mặt trời, nhà của những con người lành mạnh nhìn cuộc sống tích cực, yêu thể dục thể thao và ăn uống điều độ. Những người, đương nhiên rồi, làm sáng lên sự quyến rũ của ánh sáng mặt trời tới tâm hồn của người khác trong những ngôi nhà khác.  🙂

Một ngôi nhà xinh đẹp và quyến rũ bởi vì tinh thần của những người trong ngôi nhà đó. Ngôi nhà với những người bạn hiếu khách, ân cần, và xử với bạn không như là khách, mà như người trong nhà. Ngôi nhà mà nơi nó bạn không cần phải giữ lễ nơi nào phải ngồi, nơi nào phải ăn, nơi nào phải nằm, khi nào thì được làm gì. Giữa câu chuyện, bạn có thể nằm ngay trên sofa nếu mệt, hoặc ngay cả trên sàn nhà cũng không sao. Nếu nhỡ có thiếp đi vài phút cũng chẳng ai nói năng gì.

Hôm nay là ngày đầu tiên của năm 2010, công sở và cửa hàng nghỉ nhưng chưa phải cuối tuần, ĐCN vẫn tiếp tục post bài. Vì được nghỉ, mình và chị Khánh Hòa đến thăm tết Tây ở nhà anh Hoành chị Phượng, và cả bốn anh chị em đón tết Tây bằng cách viết bài cho ĐCN, sau khi ăn một một ăn trưa rất ngon do chị Phượng nấu. Superb Chef!

Bài viết này mình đang post ở đây, nhà anh Hoành chị Phượng. Mình post ảnh mọi người đang viết bài để chia sẻ với các bạn nhé 🙂 Và hai tấm ảnh Lake of the Woods gần nhà. 🙂

Năm 2010, chúc các bạn mạnh khỏe, tinh tấn và thành đạt. Làm đẹp những con người trong những ngôi nhà, bạn nhé.

Chúc các bạn một ngày nhà đẹp người đẹp 🙂

Hiển
.

Hoành, Hiển, Khánh Hòa làm việc 1/1/2010, phó nhòm: Túy Phượng
Vịt trời bay trong sương mù, Lake of the Woods
Vịt bầu Khánh Hòa và đàn vịt trời sau lưng

Đêm thứ bảy 2.1.2010, cả bọn 4 người đi môt New Year Party ở nhà hàng, sau đó rủ cặp uyên ương ca nhạc sĩ Nga Mi Trần Lãng Minh vào một quán cà phê tính là “để cho yên tĩnh nói chuyện”, nhưng quán lại có karaoke, cho nên phe ta cũng Karaoke cho vui vậy.

Từ trái: Trần Lãng Minh, Hoành, Túy Phượng, Nga Mi, Khánh Hòa. Phó nhòm: Hiển

Kiến bò miệng cối

Chào các bạn,

Cối Xay và Kiến - tranh của thiền sư Hakuin

Thiền sư “Vậy à” Haikuin vẽ một bức tranh kiến bò cối xay nổi tiếng.

Con kiến nhỏ
Nó bò miệng cối
Nó bò, nó bò…

Và nó bò mãi… và cho đến khi nó bò được 10km, tức là khoảng 5 triệu lần chiều dài 2mm của nó, con kiến vẫn không biết là nó đã chẳng đi đâu cả, vẫn còn ngay đó, trên miệng cối.

Đây là bi kịch của nhiều người trong thế giới chúng ta. Họ sử dụng 50 năm cuộc đời, đi triệu dặm đường, có ảo tưởng là mình đã đi được rất xa, nhưng không biết là họ thực ra chỉ ngồi một chỗ, ngay đó, ngay trên miệng cối.

Họ không có 50 năm kinh nghiệm sống, mà có thể chỉ là một năm kinh nghiệm, lập đi lập lại 50 lần.

Nhưng, làm thế nào để ta biết được ta không bò miệng cối, khi ta thì quá nhỏ mà đường đời thì quá dài, quá rộng? Khi con mắt ta nhìn không quá 200m mà đường đời dài những 500 ngàn km? Khi trí ta nhìn không quá một tuần mà đường đời dài đến 50 năm?

Có lẽ con kiến không thấy hết được vòng tròn nó đang bò, nhưng nếu nó thông minh một tí, nó có thể nhận ra sau khi đi một hai vòng là tại sao mỗi bước đường mình đi lại nhìn thấy quen thuộc quá vậy? Cũng lỗ hỏm giống thế này, cũng kẽ nứt như thế kia, rồi một tí xíu lại thấy một rãnh lớn chắn ngang đường… Chẳng lẽ mình đã trở lại chỗ cũ?

Nếu ta đi một con đường quen thuộc trong cả 50 năm, rất có thể là ta đã ở trên miệng cối 50 năm.

Thế thì làm sao mới không là quen thuộc?

Dĩ nhiên, nếu bạn thay đổi công việc, sở làm, nơi ở thường xuyên… chính những thay đổi vật thể này có cơ hội lớn để mang đến kinh nghiệm và tư duy mới cho bạn. Đi một ngày đàng học một sàng khôn.

Nhưng điều quan trọng hơn cả là khả năng đổi mới ngay cả khi mình chẳng chuyển đi đâu cả. Chúng ta có thể điểm qua các thay đổi, theo thứ tự từ thấp đến cao, trong năm vừa rồi chẳng hạn, như là cách kiểm điểm thành tích thay đổi trong năm:

1. Năm rồi ta đã học thêm được môn gì mới không? Như là ngoại ngữ, hay sử dụng computer, hay sử dụng máy móc gì đó, hay khiêu vũ, hay vẽ, hay âm nhạc… Hoc được môn mới là một thay đổi, không chỉ là thay đổi vì biết môn mới, mà chính môn mới có thể tạo cơ hội cho ta thay đổi cả nền tảng tư duy.

2. Năm rồi ta đã học được một luồng tư tưởng, luồng văn hóa nào mới không? Như là đọc một ít về Hồi giáo, hay Phật giáo, hay về nước Phi Luật Tân, hay Thái Lan, hay tư tưởng của Gandhi…

3. Năm rồi ta đã tự nghi vấn về tư duy của chính mình? Ví dụ: Trước kia tôi không bao giờ thích người Trung quốc, năm vừa rồi tôi đã tự hỏi “Phải chăng tôi có máu kỳ thị chủng tộc chống người Trung quốc?” Hay , xưa nay tôi rất kiên quyết trong các lập trường về một số vấn đề, nhưng từ năm rồi tôi bắt đầu tự hỏi “Thái độ giữ vững lập trường có đồng nghĩa với đầu óc hẹp hòi?”

4. Năm rồi ta có thay đổi lập trường về một số vấn đề hay không? Ví dụ: Trước kia tôi rất chống người đồng tính, năm rồi tôi đã thay đổi ý kiến và chấp nhận người đồng tính cũng là người tốt như tôi.

5. Các loại người ta cảm thấy thực sự yêu thương lo lắng trong lòng có tăng trong năm vừa rồi không? Ví dụ: Năm rồi tôi đột nhiên cảm thấy yêu thương và lo lắng cho những người đang trong vòng tù tội lao lý. Hay, năm rồi đột nhiên tôi cảm thấy rất thương những người bị bệnh AIDS.

Đây là một số điểm căn bản để chúng ta có cơ hội nhận biết là chúng ta đang đi đường thẳng hay đang chỉ đi vòng tròn trong đời. Rất khó để thấy con đường 50 năm, nhưng tương đối dễ để nhìn lại một năm hầu biết được mình đã đổi mới tí nào không.

Cuối cùng, người điên không bao giờ biết mình điên, người đầu óc si mê không bao giờ biết mình si mê, vì, nếu biết mình điên thì mình không điên, biết mình si mê thì không si mê. Vì vậy, nếu ta si mê thì ta không thể nào biết mình si mê được, nhưng đây là dấu hiệu thường thấy trong những người si mê: “Tôi luôn luôn giữ vững lập trường về…” hay “Chuyện này đối với tôi là tuyệt đối ‘không’ “. Dù là không hẳn đúng 100%, các câu chắc nịch như “giữ vững lập trường” hay “tuyệt đối” thường là dấu hiệu của mù quáng về tư tưởng và tư duy, và đang đi vòng tròn đã nhiều năm.

Ta phải thực sự muốn đổi mới thường xuyên, và phải quan sát thái độ tư duy của mình, phải cố công tìm ra các thay đổi thực sự trong mình qua các dấu hiệu khách quan bên ngoài, mới có thể nhìn xuyên qua các bức màn si mê chủ quan che mờ tâm trí , để biết mình đang đi đường tròn hay đường thẳng.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Message đầu tiên

Chào các bạn,

Đầu năm chúc mỗi người chúng ta và mọi người trong gia đình vui vẻ, khỏe mạnh, may mắn, và tư duy tích cực mỗi ngày 🙂

Vườn Chuối là vườn tư duy tích cực. Mọi chúng ta ở đây đều là những người rất bình thường, cố gắng sống tư duy tích cực mỗi ngày và mang tư duy tích cực đến cho đời mỗi ngày.

Chẳng có gì to tát, và chẳng có ai là siêu nhân cả.

Nhưng cuộc đời quanh ta đã có đủ rác rến, tiêu cực, chia rẽ, ngăn cách, đố kỵ, nghi ngờ, thiếu thành thật… Nếu chúng ta tự bước ra khỏi vòng cương tỏa đó được một tí, cuộc đời đẹp thêm một tí. Kéo được người bạn nào đi theo một tí, cuộc đời đẹp thêm một tí.

Mỗi chúng ta có đủ loại gánh nặng, khó khăn, và vấn đề cá nhân, như tất cả mọi người khác trên thế giới. Điều đó không cản được chúng ta tự thắp một ngọn nến nhỏ cho mình và cho thế giới.

Con đường chúng ta đi sẽ không có đích điểm cuối cùng. Vì đích điểm cuối cùng ai cũng đã biết rồi—đó là nghĩa trang, và ta muốn đến đó càng chậm càng tốt :-). Trong thời gian chờ đợi, cuộc hành trình là điều duy nhất có ý nghĩa.

Chúng ta là những lữ hành trong những chuyến đi của cuộc đời. Chỉ có điều cần làm là làm cho cuộc hành trình đó vui hơn, và có một tí ‎ý nghĩa cho chính ta và cho cuộc đời.

No Big Deal.

Chúc các bạn một năm mới tươi vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Nguyên Lý Đầu Tiên

Nếu đến chùa Obaku ở Kyoto ta sẽ thấy một dòng chữ khắc “Nguyên Lý Đầu Tiên”. Các chữ này lớn lạ thường, và những người rành thư pháp luôn luôn thán phục chúng như là những tác phẩm hàng đầu. Các chữ này do Kosen viết hai trăm năm về trước.

Lúc viết, thiền sư viết trên giấy, sau đó các nghệ nhân làm bản khắc lớn hơn bằng gỗ. Trong khi thiền sư viết, có một người đệ tử bạo gan ở bên cạnh, vị này đã hòa nhiều lít mực cho thiền sư để viết mấy chữ này và luôn luôn phê bình thư pháp của thiền sư.

“Chưa được,” vị đệ tử nói với Kosen sau lần viết đầu.

“Cái này thì sao?”

“Nghèo nàn. Dở hơn cái trước,” vị đệ tử nói.

Kosen kiên nhẫn viết hết tờ này đến tờ khác cho đến khi 84 chữ “Nguyên Lý Đầu Tiên” đã được viết, mà vị đệ tử vẫn chưa đồng ý.

Rồi, khi vị đệ tử bước ra ngoài một lúc, Kosen nghĩ: “Đây là cơ hội để mình thoát được con mắt sắc bén của hắn,” và thiền sư viết vội vã, với tâm trống rỗng mọi tạp niệm. “Nguyên Lý Đầu Tiên.”

“Một tác phẩm tuyệt vời,” vị đệ tử tuyên bố.

Bình:

• Ta không thể làm gì tốt nếu ta bị phân tâm. Lý‎ do phân tâm có thể là lý do rất tầm thường như là có học trò đứng phê phán. Ta có thể lo lắng và phân tâm rất phi lý‎, như là thầy sợ trò chê, chuyên gia sợ người không biết gì chê…

• Rộng hơn, trong đời sống hàng ngày, ta có thể bị phân tâm bởi đủ thứ tạp niệm: Sợ mọi người chê cười, sợ mất uy tín, sợ có người giận, sợ không ai khen… Các tạp niệm này làm ta phân tâm hàng ngày và chẳng làm được gì tốt.

• “Tâm trống rỗng mọi tạp niệm”—còn gọi là Vô Tâm–là Nguyên Lý đầu tiên của Thiền.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

The First Principle

When one goes to Obaku temple in Kyoto he sees carved over the gate the words “The First Principle.” The letters are unusually large, and those who appreciate calligraphy always admire them as being a masterpiece. They were drawn by Kosen two hundred years ago.

When the master drew them he did so on paper, from which workmen made the larger carving in wood. As Kosen sketched the letters a bold pupil was with him who had made several gallons of ink for the calligraphy and who never failed to criticize his master’s work.

“That is not good,” he told Kosen after the first effort.

“How is that one?”

“Poor. Worse than before,” pronounced the pupil.

Kosen patiently wrote one sheet after another until eighty-four First Principles had been accumulated, still without the approval of the pupil.

Then, when the young man stepped outside for a few moments, Kosen thought: “Now is my chance to escape his keen eye,” and he wrote hurriedly, with a mind free from disctraction. “The First Principle.”

“A masterpiece,” pronounced the pupil.

# 19

Chuyện đời Shunkai

Gian nhân tuyệt sắc Shunkai, còn có tên là Suzu, bị bắt phải lấy chồng khi còn rất trẻ. Sau đó, khi cuộc hôn nhân chấm dứt, nàng đi học đại học, và học triết.

Thấy Shunkai là phải yêu nàng. Hơn nữa, đi đâu nàng cũng yêu. Tình yêu đến với nàng ở đại học, sau đó, khi triết lý không thỏa mãn nàng, nàng vào thăm một ngôi chùa để học Thiền, và thiền sinh si mê nàng. Cả đời nàng thấm ướt tình yêu.

Cuối cùng, ở Kyoto nàng trở thành một thiền sinh thật sự. Các bạn thiền sinh nam ở chùa Kennin đều ca ngợi sự thành tâm của nàng. Một người trong số thiền sinh nam có tâm ‎ý tốt và giúp nàng trong việc thực tập thiền.

Vị thầy trụ trì chùa Kennin là Mokurai, có nghĩa là Sấm Lặng, rất khó khăn. Thầy giữ gìn lề luật nghiêm nghặt và muốn các học trò cũng như thế. Trong nước Nhật của thời đại mới, nhiệt tâm nào các vị sư đã mất về Phật học các vị hình như tìm lại được về các bà vợ. Thầy Mokurai phải lấy chổi đuổi các bà đi khi thấy bà nào trong chùa. Nhưng thầy đuổi nhiều chừng nào, các bà ùa vào lại nhiều chừng nấy.

Trong chùa này, bà vợ của sư trưởng tràng ghen với cố gắng và sắc đẹp của Shunkai. Nghe các học trò ca ngợi sự tập Thiền nghiêm chỉnh của Shunkai, bà khó chịu không yên. Cuối cùng bà phao tin đồn về Shunkai và người thiền sinh đang giúp đở cô. Hậu quả là anh ta và Shunkai bị đuổi ra khỏi chùa.

“Tôi có thể là đã lầm lỗi trong tình yêu,” Shunkai nghĩ, “nhưng bà này cũng không thể ở trong chùa nếu bạn của tôi bị đối xử bất công.”

Đêm đó, Shunkai mang một thùng dầu lửa, đốt rụi ngôi chùa 500 tuổi. Sáng ra cảnh sát bắt nàng.

Một luật sư trẻ thích nàng và cố để giảm án cho nàng. “Đừng giúp tôi,” nàng bảo anh ta. “Có thể là tôi sẽ quyết định làm cái gì đó, lại mang tôi vào tù nữa.”

Cuối cùng, sau khi ở đầy đủ bản án 7 năm , Shunkai được thả khỏi nhà tù, nơi một vị quản giáo 60 tuổi đã yêu cô.

Nhưng bây giờ mọi người nhìn nàng là “tội phạm”. Chẳng ai muốn liên hệ với nàng. Ngay cả các thiền nhân, những người đáng lý ra là tin vào sự giác ngộ ở đời này với thân thể này, cũng tránh xa nàng. Thiền, Shunkai khám phá ra, là một chuyện nhưng các thiền nhân lại là một chuyện khác. Thân nhân nàng cũng không dính dấp với nàng. Nàng lâm bệnh, nghèo, và yếu.

Nàng gặp một vị sư vị sư Tịnh độ tông dạy nàng hồng danh Đức Quán Thế Âm, và nhờ đó nàng tìm được an ủi và bình an trong tâm. Nàng qua đời khi còn rất đẹp và chưa đến 30 tuổi.

Nàng viết câu chuyện về đời nàng trong một nỗ lực hoài công để kiếm sống, và kể lại một phần cho một nhà văn nữ. Vì vậy câu chuyện đời nàng đến với độc giả Nhật. Những người đã xua đuổi nàng, mạ lị nàng, ghét bỏ nàng, giờ đây đọc về cuộc đời nàng với những dòng nước mắt ăn năn.
.

Bình:

• Hồng nhan đa truân.

Nghiệp duyên…
Hay luật công bằng? “Càng nhiều sắc đẹp càng nhiều gian truân. Chữ tài liền với chữ tai một vần”?

• Nhưng…

Chuyện này nói về Shunkai, hay thực ra là nói về chúng ta, những người đang sống?

Chúng ta hay ghen ghét với người có sắc, có tài, có cái gì đó hơn ta. Cho nên người đẹp, người tài, người hấp dẫn, thì đi đâu cũng thường có kẻ thù… Và những người này khi gặp hoạn nạn, dù là oan ức, thì cũng không ai muốn đở cho họ, vì tính ghen ghét nói “Cho đáng đời!”

kỳ thị, cư xử với nhau bằng nhãn hiệu. Thấy người đã có tiền án thì lánh xa, ruồng bỏ (dù họ đã trả hết tội trong tù rồi).

đạo đức giả. Người sống thì ruồng bỏ, người đã chết thì mới nhỏ nước mắt. Tại sao? Vì người đã chết thì không còn gì đề ghen, cho nên bây giờ mới khóc được.

Vậy thì…

Yêu người thì hãy yêu người sống. Yêu bằng hành động thật sự, nhất là khi người ta gặp hoạn nạn. Và yêu không lệ thuộc vào nhãn hiệu.

• “Buddha of love” ở đây là Quán Thế Âm Bồ tát. Nhưng nhiều người ở Nhật còn dùng “Buddha of Love” như là một trong những tên và diện mạo của Phật Di Lặc (Maitreya hay Metteyya). Tên này có từ maitrī (Sanskrit) hay mettā (Pāli), có nghĩa là “loving-kindness” (từ bi), là các chữ đến từ chữ mitra (Sanskrit) hay mitta (Pāli) và có nghĩa là “bạn”.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

The Story of Shunkai

The exquisite Shunkai whose other name was Suzu was compelled to marry against her wishes when she was quite young. Later, after this marriage had ended, she attended the university, where she studied philosophy.

To see Shunkai was to fall in love with her. Moreover, wherever she went, she herself fell in love with others. Love was with her at the university, and afterwards, when philosophy did not satisfy her and she visited a temple to learn about Zen, the Zen students fell in love with her. Shunkai’s whole life was saturated with love.

At last in Kyoto she became a real student of Zen. Her brothers in the sub-temple of Kennin praised her sincerity. One of them proved to be a congenial spirit and assisted her in the mastery of Zen.

The abbot of Kennin, Mokurai, Silent Thunder, was severe. He kept the precepts himself and expected his priests to do so. In modern Japan whatever zeal these priests have lost of Buddhism they seem to have gained for their wives. Mokurai used to take a broom and chase the women away when he found them in any of his temples, but the more wives he swept out, the more seemed to come back.

In this particular temple the wife of the head priest became jealous of Shunkai’s earnestness and beauty. Hearing the students praise her serious Zen made this wife squirm and itch. Finally she spread a rumor about Shunkai and the young man who was her friend. As a consequence he was expelled and Shunkai was removed from the temple.

“I may have made the mistake of love,” thought Shunkai, “but the priest’s wife shall not remain in the temple either if my friend is to be treated so unjustly.”

Shunkai the same night with a can of kerosene set fire to the five-hundred-year-old temple and burned it to the ground. In the morning she found herself in the hands of the police.

A young lawyer became interested in her and endeavored to make her sentence lighter. “Do not help me,” she told him. “I might decide to do something else which would only imprison me again.”

At last a sentence of seven years was completed, and Shunkai was released from the prison, where the sixty-year-old warden had become enamored of her.

But now everyone looked upon her as a “jailbird.” No one would associate with her. Even the Zen people, who are supposed to believe in enlightenment in this life and with this body, shunned her. Zen, Shunkai found, was one thing and the followers of Zen quite another. Her relatives would have nothing to do with her. She grew sick, poor, and weak.

She met a Shinshu priest who taught her the name of the Buddha of Love, and in this Shunkai found some solace and peace of mind. She passed away when she was still exquisitely beautiful and hardly thirty years old.

She wrote her own story in a futile endeavor to support herself and some of it she told to a woman writer. So it reached the Japanese people. Those who rejected Shunkai, those who slandered and hated her, now read of her live with tears of remorse.

Annotation:

  • Beauty and suffering.

Karma…

Or the rule of compensation? “More beauty, more suffering. Gain rhymes well with pain”?

  • But…

This story is about Shunkai, or is it indeed about us, the living?

We are jealous of people with talents, beauty, or something better than ours. Hence, beautiful people, talented people and attractive people have enemies every where they go. When these people are met with misfortune, even unfairly, no one wants to help them. Jealousy likes to say: “They deserve it!”

And we discriminate, treating each other with labelism. Seeing an ex-convict, we stay away from her, even denying her (though she already paid her dues in jail).

And our hypocracy! We have shooed away the living and now she is dead, we shed tears for her. Why? Because, the dead has nothing to be jealous of?

So…

If we love people, then let’s love the living. Let’s love by action, especially when they are in distress. And let’s love without depending on the labelism.

(Trần Đình Hoành annotated)

Hãy Nhảy Múa Như Thể Không Ai Nhìn

Chúng ta thường tự nhủ rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi chúng ta kết hôn, sinh con
Sau đó chúng ta vỡ mộng vì con cái chúng ta còn quá nhỏ, và cho rằng chúng ta sẽ đẹp lòng hơn một khi chúng lớn khôn.
Và chúng ta lại thất vọng khi con cái của mình đến tuổi niên thiếu vì chúng ta lại phải chăm sóc và lo lắng cho chúng. Ta thầm nghĩ chắc chắn chúng ta sẽ hạnh phúc hơn khi các con trưởng thành.

Chúng ta lại tự nhủ rằng cuộc sống rồi sẽ hoàn hảo một khi người bạn đời ta ổn định cuộc sống, khi chúng ta tậu được một chiếc xe đẹp hơn, khi chúng ta có thể đi nghỉ hè thoải mái, và là khi chúng ta được về hưu.
Sự thật là không có một thời điểm nào tốt đẹp và hạnh phúc bằng hiện tại cả. Nếu không đúng, vậy thì thời điểm nào là hạnh phúc nhất?
Cuộc sống của bạn luôn bị quay cuồng bởi các thách đố, các đòi hỏi và yêu cầu.
Tốt nhất là bạn nên nhận thấy điều này và quyết định rằng mình phải được hạnh phúc dù cuộc sống có như thế nào.

Một trong những câu danh ngôn của Alfred D. Souza mà tôi ưa thích nhất là :
“Một thời gian rất lâu, tôi cứ ngỡ rằng cuộc đời của tôi sắp bắt đầu – một cuộc đời thật sự.
Nhưng lúc nào cũng có một vài thử thách phải vượt qua, một việc còn phải hoàn tất ngay, vài việc khác dang dở , thời gian còn phải phân chia, còn một món nợ phải thanh toán. Sau đó, thì cuộc sống của ta sẽ bắt đầu.. ”

Cuối cùng tôi mới khám phá ra rằng, chính những trở ngại này là một phần của đời sống của tôi..
Từ cái nhìn này đã giúp tôi thấy được rằng không có con đường nào đi đến hạnh phúc cả.
Hạnh phúc chính LÀ con đường chúng ta đang đi..

Do đó hãy trân quý và tận hưởng mọi phút giây bạn có và trân quý nhiều hơn vì bạn đã chia sẻ nó với một người đặc biệt, rất đặc biệt để bạn có thể dành thời gian với người đó và nhớ rằng thời gian chẳng đợi ai

Vì vậy, không nên chờ đợi nữa, chờ đợi tốt nghiệp ra trường, chờ đợi ngày trở lại trường, chờ đợi xuống thêm vài ký, lên thêm vài ký, chờ đợi ngày có con, chờ đợi các con ra khỏi nhà, chờ đợi kết hôn, chờ nghỉ hưu, chờ đợi li dị, mong đợi đến tối thứ sáu, sáng chủ nhật, đợi sắm một chiếc xe mới, hay ngôi nhà mới, đợi trả nợ xe hay nhà xong, trông chờ xuân đến, hạ về, đợi đến thu đông, đầu tháng, cuối tháng, đợi nghe bản nhạc hay trên đài phát, đợi khi uống say, chờ ngày từ giã cỏi đời, ngày tái sinh …… trước khi quyết định rằng hiện tại là thời gian hạnh phúc nhất của mình.

Hạnh phúc là hành trình, chứ không phải là điểm đến.
Không có một giờ phút nào quý giá cho bằng… HIỆN TẠI!
Hãy sống và tận hưởng từng giây phút.

Huỳnh Huệ dịch

DANCE LIKE NO ONE’S WATCHING

We convince ourselves that life will be better after we get married, have a baby, then another. Then we’re frustrated that the kids aren’t old enough and we’ll be more content when they are. After that, we’re frustrated that we have teenagers to deal with. We think we’ll certainly be happy when they’re out of that stage.
We tell ourselves that our life will be complete when our spouse gets his or her act together, when we get a nicer car, are able to go on a nice vacation, when we retire.
The truth is, there’s no better time to be happy than right now. If not now, when?
Your life will always be filled with challenges. It’s best to admit this to yourself and decide to be happy anyway.

One of my favorite quotes comes from Alfred D. Souza. He said, “For a long time it had seemed to me that life was about to begin – real life. But there was always some obstacle in the way, something to be gotten through first, some unfinished business, time still to be served, or a debt to be paid. Then life would begin. At last it dawned on me that these obstacles were my life.”
This perspective has helped me to see that there is no way to happiness. Happiness IS the way. So, treasure every moment that you have and treasure it more because you shared it with someone special, special enough to spend your time with…and remember that time waits for no one.

So, stop waiting until you finish school, until you go back to school, until you lose ten pounds, until you gain ten pounds, until you have kids, until your kids leave the house, until you start work, until you retire, until you get married, until you get divorced, until Friday night, until Sunday morning, until you get a new car or home, until your car or home is paid off, until spring, until summer, until fall, until winter, until you’re off welfare, until the first or fifteenth, until your song comes on, until you’ve had a drink, until you’ve sobered up, until you die, until you’re born again to decide that there is no better time than right now to be happy.
Happiness is a journey, not a destination.

Crystal Boyd

Đường bùn

Tanzan và Ekido đi chung với nhau trên con đường bùn lầy. Mưa đang rơi nặng hạt.

Đến một khúc quanh, họ gặp một cô gái xinh xắn mặc Kimono và mang đai lưng, không vượt qua ngã tư được.

“Đi, cô em,” Tanzan nói ngay. Bế cô gái trên đôi tay, thiền sư mang cô qua vũng bùn.

Ekido chẳng hề nói một lời nào nữa, cho đến tối khi họ sắp đến chùa tạm nghỉ. Ekido không còn nhịn được. “Người tu hành chúng ta không kề cận phụ nữ,” Ekido nói với Tanzan, “nhất là các cô gái trẻ và đẹp. Nguy hiểm. Sao thầy làm vậy?”

“Thầy bỏ cô ấy xuống đằng đó rồi,” Tanzan nói. “Con còn bế cô ấy sao?”
.

Bình:

• Tanzan là vị giáo sư triết tại Đại Học Hoàng Gia (Nhật), mà ta vừa biết đến trong truyện Một Vị Phật.

• Tâm tỉnh thức, tâm Phật, là tâm không vướng mắc, tâm vô chấp.
Không vướng mắc với lề luật “nam nữ thọ thọ bất thân.”
Không vướng mắc với hình ảnh người đẹp và ái dục trong lòng.
Việc phải làm thì làm. Nên giúp cô ấy qua đường là giúp. Lề luật không quan trọng bằng giúp người.
Làm xong là quên, chẳng còn vướng gì trong tâm—không vướng bận về người đẹp, không vướng bận về chuyện phá luật, không vướng bận về chuyện người đó có nhớ ơn mình không…
Không gì cả. Tâm “Không.”

• Đằng khác, tâm chưa giác ngộ, như Ekido, dễ bị hoảng loạn và vướng bận đủ điều—lề luật, hình ảnh người đẹp, sợ hãi nguy hiểm, nghi ngờ thầy của mình…

• Sống là hành động giúp người khi người cần giúp. Tâm không vướng mắc thì hành động dễ. Tâm vướng mắc thì trói tư tưởng và trói cả tay chân, chẳng làm gì được, chẳng giúp ai được.

• Đầu đề của bài này là “Đường bùn.” Con đường có gì là quan trọng mà phải lấy nó làm đầu đề?

Chúng ta là những khách lữ hành trên con đường bùn của cõi ta bà. Nếu chúng ta tự mình lấm bùn, để bế những người khác qua đường cho khỏi lấm bùn, mà không nệ hà vướng bận gì cả, thì đó là Tâm Bồ Tát.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Muddy Road

Tanzan and Ekido were once travelling together down a muddy road. A heavy rain was still falling.

Coming around a bend, they met a lovely girl in a silk kimono and sash, unable to cross the intersection.

“Come on, girl,” said Tanzan at once. Lifting her in his arms, he carried her over the mud.

Ekido did not speak again until that night when they reached a lodging temple. Then he no longer could restrain himself. “We monks don’t do near females,” he told Tanzan, “especially not young and lovely ones. It is dangerous. Why did you do that?”

“I left the girl there,” said Tanzan. “Are you still carrying her?”

#14

Làm việc nhóm: Bách chiến bách thắng

Chào các bạn,

Có lẽ đến giờ này các bạn đã nghe nhiều lần, không cách này thì cách khác, rằng người Việt chúng ta rất yếu về làm việc nhóm (teamwork). Hồi nhỏ mình học nhu đạo tại trường Nhu Đạo Quang Trung, khu Đa Kao, Sài Gòn, do thượng tọa Thích Tâm Giác sáng lập. Thượng tọa đã học nhu đạo từ bên Nhật về. Có một lần thượng tọa nói với các võ sinh: “Một người Việt thì thông minh hơn một người Nhật, nhưng ba người Việt thì không bằng ba người Nhật.” Theo mình nhận xét, câu nói này đúng khi so sánh chúng ta với nhiều dân tộc khác trên thế giới.

Hôm nay chúng ta sẽ bàn về làm việc nhóm vậy.

1. Thái độ tư duy

Điều nền tảng nhất trong làm việc nhóm là tư duy của mỗi người về nhóm. Tư duy đúng, ta làm việc tốt; tư duy sai, ta làm việc tồi.

“Nhóm” không phải chỉ là vài người tụ lại. Đặt bốn người đứng sát nhau, họ không thể thành nhóm, cho đến khi họ quyết định là “chúng ta là một nhóm.” Ngay khi phút giây quyết định đó được làm, một người thứ năm ra đời, đó là “nhóm.”

Nhóm là một thực thể, một con người biệt lập, và mỗi thành viên chỉ là một bộ phận—một cánh tay, một cái chân—của nhóm.

Và tay với chân thì không cãi nhau, không tranh công nhau, không ghen tị nhau, không tranh dành chức vị nhau… Ngược lại tay chân luôn luôn gần gũi và làm việc nhịp nhàng với nhau. Đây chính là thái độ tư duy về làm việc nhóm.

Nghĩa là, khi nghĩ đến nhóm, “cái tôi”, “cái cá nhân” của mỗi chúng ta phải biến mất. Ta không nói chuyện với nhau như những cái tôi biệt lập, mà chỉ như là những cơ phận của nhóm. Điều này nói thì dễ, làm thì khó. Và cũng chính điều này quyết định ta có được một nhóm tốt hay không.

Đây là vấn đề lập trình cái đầu của mình—đến cửa nhóm là “cái tôi” bị tắt và “bộ phận nhóm” được mở. Nếu chúng ta không được lập trình tốt trong đầu như thế, ta có vấn đề lớn.

Chúng ta hãy quan sát một đội bóng trên sân bóng: Mỗi vận động viên không nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến đội, mục đích chiến thắng của đội, chiến lược của đội, và làm thế nào để phối hợp với các vận động viên khác để đưa đến chiến thắng. “Cái tôi” không có chỗ đứng trên sân cỏ.

Tóm lại, khả năng triệt tiêu “cái tôi” khi làm việc nhóm là khả năng nền tảng nhất để một người có thể có được thái độ tư duy đúng về làm việc nhóm và có thể làm việc nhóm giỏi.

II. Phối hợp và trật tự nhóm

Sau khi có được tư duy đúng về làm việc nhóm, chúng ta có thể nói đến một số kỹ năng căn bản đề nhóm có thể hoạt động tốt. Ở đây chúng ta nói đến “phối hợp và trật tự” vì hai ý‎ niệm này không thể tách rời nhau.

Hãy quan sát một nghệ sĩ piano, tay trái đi dòng bass và một hai dòng nhạc thấp, tay phải đi một hai dòng nhạc cao, chân thì đạp pedal. Tay, chân, tai, và mắt phải phối hợp rất nhịp nhàng. Để phối hợp được thế ta phải có một trật tự làm việc—tay nào làm gì trước, tay nào làm gì sau… không thể tự động muốn làm gì thì làm.

Để phối hợp và trật tự tốt, chúng ta cần tuân thủ các quy tắc sau:

1. Lãnh đạo nhóm: Mỗi người phải có một cái đầu, và chỉ một cái đầu. Mỗi nhóm phải có một người lãnh đạo, và chỉ một người lãnh đạo. Người lãnh đạo có thể trở thành lãnh đạo bằng nhiều cách: Các thành viên bầu lên, được cấp trên bổ nhiệm, hay tự động làm lãnh đạo (thường thấy trong các tổ chức thiện nguyện khi một người khởi xướng và các người khác ủng hộ giúp một tay). Dù là thành lãnh đạo qua cách nào, người lãnh đạo phải:

Có trách nhiệm và quyền hành để làm các quyết định cho nhóm: Tức là, không được “bán cái”. Nếu người lãnh đạo gọi các thành viên biểu quyết về một vấn đề để làm quyết định theo số đông, thì đó vẫn là quyết định của người lãnh đạo và anh ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó, và không thể nói “Ê, đây là quyết định của mọi người, sao lại phàn nàn với tôi?”

Chịu trách nhiệm về hậu quả của các quyết định cho nhóm.

2. Quyền hạn và trách nhiệm đóng góp ‎ý kiến sáng tạo của mọi nhóm viên: Mỗi nhóm viên có nhiệm vụ đóng góp ý kiến sáng tạo vào nhóm, dù có được hỏi hay không. Trách nhiệm đóng góp là trách nhiệm tự nhiên, không cần phải đợi hỏi. Cho nên nếu một nhóm viên thấy vấn đế gì đó cần giải quyết, hoặc một phương thức làm việc có thể tốt hơn… thì phải cho các nhóm viên khác, nhất là lãnh đạo nhóm, biết.

Nhưng, đóng góp ‎ý kiến là quyền và nhiệm vụ của nhóm viên, còn quyết định là quyền và nhiệm vụ của trưởng nhóm. Mình cứ làm việc đóng góp của mình, và để trưởng nhóm làm nhiệm vụ quyết định của anh ta. Nếu anh ta quyết định không sử dụng ‎ý kiến của mình thì đừng tự ái vặt và chê bai anh ta là người dốt—“cái tôi” không có chỗ đứng trong nhóm.

3. Tuân thủ hết lòng mục tiêu và quyết định của nhóm. Khi trưởng nhóm đã quyết định, dù đó là quyết định ngược với ý‎ kiến của mình, thì vẫn hăng hái vui vẻ thi hành các quyết định đó như là quyết định của chính mình vậy—“cái tôi” không có chỗ đứng trong nhóm.

Nếu bạn khuyến cáo là nhà sẽ cháy, nhưng trưởng nhóm không nghe lời bạn, thì đừng về nhà cầu nguyện hàng đêm để điều mình tiên đoán thành sự thật. 🙂 Và cũng cứ chuẩn bị sẵn tinh thần, nếu nhà có cháy thật thì bạn sẽ tiếp cứu. Đừng hành động lổ mãng theo kiểu “Tui đã nói trước rồi, không nghe tui, bây giờ cháy nhà tui ngồi xem cho sướng mắt”—“cái tôi” không có chỗ đứng trong nhóm.

4. Thông tin tốt: Tiếng Anh có từ “communication” rất hay. Communicate là nói chuyện, trao đổi, thư từ, họp hành…. nói chung là tất cả mọi cách để mọi người đều có nhiều thông tin, đều am hiểu mọi vấn đề, và đều hiểu nhau.

Căn bản của thông tin là hai chiều: Nói cho mọi người nghe, và nghe mọi người nói.

Về thực hành thì điều này có nghĩa là, người trong nhóm nên nói chuyện thường xuyên với nhau, qua họp hành, email chung gởi đến mọi người, uống cà phê, tán gẫu ngoài hành lang… Thông tin đa chiều càng nhiều, nhóm càng làm việc giỏi…

Đừng làm việc gì gây ra “ngạc nhiên”, tức là làm xong rồi, trưởng nhóm hay các người khác trong nhóm phải hỏi, “Ủa, sao anh làm vậy?”

Đừng bắt nhóm đứng trước việc đã rồi, tức là cứ lẳng lặng quyết định làm một mình, làm trước báo cáo sau. Chúng ta không ở trên chiến trường sống chết trong giây phút để phải quyết định tức thì. Nếu có thời gian thì bàn qua với mọi người, nhất là lãnh đạo nhóm, một tí.—Không có ngạc nhiên.

5. Làm việc nhóm luôn luôn chậm hơn làm một mình: Vì ta không thể quyết định một mình và cần bàn lại với mọi người. Con voi thì nhất định phải chậm hơn con khỉ. Nhưng voi thì mạnh hơn. Kiên nhẫn một tí cho sức mạnh.

6. Trung thành: Nếu cả nhóm bị phàn nàn và chống đối, đừng nói: “Tui đã nói trước rồi. Mấy người đó, không ai thèm nghe.”

Kẻ sĩ đứng cùng chiến hữu trong chiến thắng lẫn trong thất bại.

Bây giờ, suy lại câu nói lúc đầu, “Một người Việt thì hay hơn một người Nhật, nhưng ba người Việt thì không bằng ba người Nhật.” Câu này chỉ đúng trong thời bình. Trong thời chiến tranh, người Việt rất giỏi teamwork, đánh đâu thắng đó.

Tại sao?

Tại vì trong chiến tranh ta cận kề cái chết, chỉ phải lo sống hoặc chết, và quốc gia thắng hay thua, “cái tôi” chẳng hiện diện một tí nào trong suy tư của ta cả.

Cho nên nói rằng người Việt chúng ta làm việc nhóm tồi, thì chỉ đúng một nửa. Hãy mang khả năng làm việc nhóm bách chiến bách thắng trong chiến tranh của ta vào thời bình—dẹp cái tôi, chỉ vì sự nghiệp của nhóm, của thành phố, của quốc gia, của dân tộc…

Dân Việt ta có khả năng bách chiến bách thắng—thời chiến cũng như thời bình. Ta đừng bao giờ quên điều đó.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Khởi sự một tổ chức phi lợi nhuận ở Mỹ

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu với các bạn một số bước căn bản để có thể thành lập một tổ chức phi lợi nhuận (non-profit organization) ở Mỹ.

Tóm tắt sứ mệnh

Cách tốt nhất để thực sự nắm rõ bạn muốn làm gì khi bắt đầu một tổ chức phi lợi nhuận (viết tắt là NPO) (hay kể cả một công ty thương mãi) là viết một bản vắn tắt vể sứ mệnh thật cơ bản về tổ chức của mình. Đây là sao bắc đẩu để mình cà các cộng sự viên đi theo.

Tóm tắt sứ mệnh mô tả mục tiêu chung của tổ chức và trả lời câu hỏi “Vì sao tổ chức này tồn tại?”

1. Tóm lược sứ mệnh có thể có nhiều dạng, độ dài khác nhau, có thể vài câu đến vài trang nhưng thường là nửa trang giấy

2. Khi viết sứ mệnh, bạn cố gắng mô tả NPO mới của mình sẽ làm gì:

a. Các lợi ích và dịch vụ chính dành cho những “người người thừa hưởng” (tương tự như khách hàng của một công ty).

b. Các nhóm “người thừa hưởng” sẽ hưởng lợi từ những dịch vụ này.

c. Các giá trị tinh thần sẽ dẫn hướng cho NPO của bạn hoạt động.

d. Bạn thích người khác nhìn nhận tổ chức của mình như thế nào.

NPO của bạn thuộc hình thức nào?

1. Bạn có thể thành lập một NPO chỉ qua hợp tác với bạn bè, ví dụ như thành lập nhóm tự giúp đỡ (self-help group). Trong trường hợp này, NPO của bạn là không chính thức (nhưng vẫn hợp pháp).

2. Bạn có thể thành lập NPO như một tổ chức hợp pháp riêng rẽ để a) sở hữu tài sản và có tài khoản ngân hàng riêng, b) bảo vệ bạn khỏi các nghĩa vụ nợ từ hoạt động của tổ chức.

3. Nếu bạn muốn NPO được miễn thuế liên bang (và có thể là một vài loại thuế khác), bạn nên nộp lên cơ quan thuế IRS để được là tổ chức được phép miễn thuế (hình thức tổ chức này phổ biến nhất là thuộc phân loại 501(c) (3) – tổ chức phi lợi nhuận từ thiện). Chú ý là được miễn thuế khác với được giảm trừ thuế.

4. Vì thế bạn có thể khởi động một NPO hoat động hợp pháp, và được miễn thuế.

Các tổ chức “tìm tiền” chuyên nghiệp cho bạn

Ban có thể nhờ một tổ chức tìm tiền chuyên nghiệp (fund-raising organization) giúp bạn kiếm tiền để hoạt động, trong trường hợp tổ chức của bạn:

– không có đủ nguồn lực để chi trả chi phí khởi sự và các phí nộp hồ sơ thành lập (chi phí này khoảng từ $500 đến $5,000, đặc biệt là các chi phí luật sư để hoàn thành các hồ sơ xin miễn thuế và hồ sơ cho tổ chức từ thiện)

– không có đủ kĩ năng để lên kế hoạch, tổ chức, và bắt đầu quản trị một tổ chức mới

Ở Mỹ, các tổ chức fund-raising chuyên nghiệp chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế và các nhà hảo tâm góp quỹ cho bạn, đặc biệt là cách thức mà tổ chức fund-raising thu và chi tiền. Quay trở lại, nhà tài trợ thu phí, thường là phần trăm nào đó (5%-10%), của số tiền doanh thu mà họ thu được cho tổ chức của bạn.

Tuy nhiên, thường thướng các NPO khởi đầu bằng cách vài thành viên trụ cột bỏ một số tiền túi nhỏ lo công việc lúc đầu, và vận động bạn bè cùng làm việc không công. Khi công việc đã phát triển và nhiều người biết đến tổ chức, người ta mới bắt đầu tìm cách quyên góp tiền bạc. Đây là sự trưởng thành tự nhiên của đa số tổ chức từ thiện trên thế giới.

Tuyển dụng các thành viên trong ban quản trị

Bạn cần ít nhất một vài thành viên quản trị để giúp bạn thành lập một NPO mới. Thành viên ban quản trị không nhất thiết phải là những tên tuổi lớn, vì nhiều người cho rằng họ sẽ giúp thu hút được nhiều tiền quyên góp nhưng trên thực tế không như vậy. Tốt nhất thành viên quản trị là người đã từng trong ban quản trị trước đó và có sự hiểu biết sâu sắc về nhu cầu của những “người thừa hưởng” và làm thế nào để đáp ứng các nhu cầu này. Hơn nữa, họ cũng không nên là nhân viên trong tổ chức, không có các quan hệ kinh doanh với tổ chức, và không có bạn bè thân thiết với những người sáng lập, đặc biệt là CEO và chủ tịch hội đồng quản trị.

Ngoài ra một tổ chức mới cần thông qua một vài bước như: tuyển kế toán, tìm đại lý bảo hiểm để bảo hiểm tài sản và các bảo hiểm cho nhân viên, bảo hiểm y tế, đăng kí miễn thuế với địa phương, xin số đăng kí gây quỹ với chính phủ.

Hoàng Khánh Hòa, theo http://www.managementhelp.org

Bài thơ cuối cùng của Hoshin

Thiền sư Hoshin sống ở Trung quốc nhiều năm. Sau đó thiền sư trở về vùng tây bắc Nhật, dạy học trò. Khi thiền sư đã rất già, ông kể một câu chuyện ông đã nghe ở Trung quốc. Câu chuyện thế này:

Vào ngày 25 tháng 12 năm nọ, Tokufu, rất già, nói với đệ tử: “Thầy không sống tới sang năm, vậy các con nên tử tế với thầy năm nay.”

Các đệ tử nghĩ là thiền sư nói đùa, nhưng vì thiền sư là vị thầy tốt bụng nên các đệ tử luân phiên chăm sóc cho thầy mỗi ngày như ngày lễ.

Đến ngày cuối năm, Tokufu nói: “Các con đã tốt với thầy. Thầy sẽ rời các con chiều mai, khi tuyết đã ngừng.”

Các đệ tử cười, và cho rằng thầy đã già nên nói năng lẩm cẩm, bởi vì đêm rất trong và chẳng có tí tuyết nào. Nhưng vào nửa đêm, tuyết bắt đầu rơi, và sáng hôm sau các đệ tử chẳng thấy thầy đâu cả. Họ vào phòng thiền. Thầy đã qua đời ở đó.

Hoshin kể chuyện này và nói với các đệ tử: “Thiền sư không cần phải đoán trước việc ra đi, nhưng thiền sư nào thực sự muốn tiên đoán, ông ta có thể làm được.”

“Thầy làm được không?” ai đó hỏi.

“Được,” thầy sẽ cho các con thấy thầy làm được gì 7 ngày sau.

Chẳng đệ tử nào tin thiền sư, và đa số quên đã luôn cuộc trò chuyện khi thiền sư họp họ lại lần sau đó.

“Bảy ngày trước,” thiền sư nói, “Thầy nói là thầy sẽ rời các con. Theo lệ thường là nên viết một bài thơ từ biệt, nhưng thầy không phải là thi sĩ cũng không giỏi thư pháp. Một trò nào có có thể ghi lại những lời cuối cùng của thầy.”

Các đệ tử cho là thiền sư nói đùa, nhưng một người cũng bắt đầu viết.

“Sẵn sàng chưa?” thiền sư hỏi.

“Dạ, thầy,” người viết trả lời.

Rồi Hoshin đọc:

Tôi đến từ sự sáng
Và về lại sự sáng
Gì đây?

Bài thơ thiếu một câu như lệ thường thơ bốn câu, vì vậy người học trò hỏi: “Thầy, mình còn thiếu một câu.”

Hoshin, với tiếng rống của một sư tử chiến thắng, hét “Kaa!” và từ trần.

Bình:

• Như đã nói trong bài Thông báo về chuyến đi cuối đời của thiền sư Tanzan, tự quyết định về cái chết của mình là một điểm đặc biệt của Phật gia, đánh dấu tự do của con người.

Nhưng trong các truyền thống tâm linh khác thì đây là điều cấm kỵ.

• Tuy nhiên, trong bài có nói cả Tokufu và Hoshin đều rất già, có nghĩa là hai vị đã sống và cống hiến nhiều cho đời. Lại dùng chữ, “tiên đoán” việc chết, có nghĩa là họ không cố tình đi khi chưa đến lúc. Chỉ là, họ biết được khi sinh lực của mình sẽ hết mà thôi.

Nói rõ ra, đây không phải là “tự tử.”

• Phần chính của bài này là bài thơ từ biệt của Hoshin. Các bài thơ từ biệt này là lời dạy cuối cùng của thầy chuyển đến các trò, cho nên nó là tinh túy của thầy.

Và bài thơ này, không thiếu một câu như trong bài có nói. Nó đủ bốn câu. Trong bài, tác giả chỉ dùng kỹ thuật viết, để ta để ý đên câu cuối cùng, mà tác giả cho là rất quan trọng. Đây là bài thơ bốn câu đầy đủ:

Tôi đến từ sự sáng
Và về lại sự sáng
Gì đây?
Kaa!

Hai câu đầu rất rõ là “từ Không tôi đến, trở lại Không tôi đi”–từ Chân Lý Tuyệt Đối tôi đến, trở lại Chân Lý Tuyệt Đối tôi đi.

Nếu nói theo vật lý thì “Từ cát bụi tôi đến, về lại với cát bụi tôi đi.”

Nếu nói theo các tôn giáo thần quyền thì “Từ Thượng đế tôi đến, về lại với Thượng đế tôi đi.”

Câu thứ ba là câu hỏi: Cuộc đời ngay đây, ở giữa đến và đi, là gì?

Câu thứ tư trả lời: Chỉ là một tiếng “Kaa” ngắn ngủi, vang lên và biến mất. Một cái chấm nhỏ xíu trong dòng thời gian vô lượng vô biên, chẳng nghĩa lý gì hết, ngoại trừ là một bằng chứng ngắn ngủi của sự hiện diện của một năng lượng trong một sátna của vũ trụ.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

The Last Poem of Hoshin

The Zen master Hoshin lived in China many years. Then he returned to the northeastern part of Japan, where he taught his disciples. When he was getting very old, he told them a story he had heard in China. This is the story:

One year on the twenty-fifth of December, Tokufu, who was very old, said to his disciples: “I am not going to be alive next year so you fellows should treat me well this year.”

The pupils thought he was joking, but since he was a great-hearted teacher each of them in turn treated him to a feast on succeeding days of the departing year.

On the eve of the new year, Tokufu concluded: “You have been good to me. I shall leave you tomorrow afternoon when the snow has stopped.”

The disciples laughed, thinking he was aging and talking nonsense since the night was clear and without snow. But at midnight snow began to fall, and the next day they did not find their teacher about. They went to the meditation hall. There he had passed on.

Hoshin, who related this story, told his disciples: “It is not necessary for a Zen master to predict his passing, but if he really wishes to do so, he can.”

“Can you?” someone asked.

“Yes,” answered Hoshin. “I will show you what I can do seven days from now.”

None of the disciples believed him, and most of them had even forgotten the conversation when Hoshin next called them together.

“Seven days ago,” he remarked, “I said I was going to leave you. It is customary to write a farewell poem, but I am neither poet nor calligrapher. Let one of you inscribe my last words.”

His followers thought he was joking, but one of them started to write.

“Are you ready?” Hoshin asked.

“Yes, sir,” replied the writer.

Then Hoshin dictated:

I came from brilliancy.
And return to brilliancy.
What is this?

The poem was one line short of the customary four, so the disciple said: “Master, we are one line short.”

Hoshin, with the roar of a conquoring lion, shouted “Kaa!” and was gone.

#10

Dạy kiểu hà tiện

Một bác sĩ trẻ ở Tokyo tên Kusuda gặp một người bạn học chung ở đại học đang học thiền. Chàng bác sĩ trẻ hỏi thiền là gì.

“Tôi không thể nói với anh nó là gì,” người bạn trả lời, “nhưng tôi chắc một điều là, nếu anh hiểu thiền, anh sẽ không sợ chết.”

“Được,” Kusuda nói. “Thôi sẽ thử. Làm sao tôi tìm được một vị thầy?”

“Đến gặp thiền sư Nan-in,” người bạn nói.

Kusuda đến thăm Nan-in. Anh ta mang theo một con dao 2 tấc rưỡi để thử xem thiền sư có sợ chết không.

Khi Nan-in thấy Kusuda ông nói to: “Chào, bạn quý. Khỏe không? Lâu quá không gặp.”

Kusuda lấy làm lạ, mới trả lời: “Chúng ta chưa gặp nhau bao giờ!”

“Phải rồi,” Nan-in trả lời. “Tôi nhầm anh với một người bác sĩ khác đang học thiền ở đây.”

Với phút đầu tiên như vậy, Kusuda mất cơ hội thử thiền sư, vì vậy bất đắc dĩ anh mới hỏi thiền sư cho học thiền.

Nan-in nói: “Thiền không phải là việc khó. Nếu anh là bác sĩ, hãy chữa bệnh với lòng nhân ái.”

Kusuda thăm Nan-in ba lần. Mỗi lần Nan-in đều bảo một điều duy nhất. “Bác sĩ không nên tốn thời giờ ở đây. Đi về và chăm sóc bệnh nhân.”

Kusuda vẫn không rõ là tại sao các lời dạy như thế có thể làm người ta hết sợ chết. Vì vậy trong lần thăm thứ tư, anh phàn nàn: “Bạn tôi nói khi người ta học thiền người ta hết sợ chết. Mỗi lần tôi đến đây thầy chỉ bảo tôi lo cho bệnh nhân của tôi. Chuyện đó tôi biết rồi. Nếu thiền của thầy chỉ có vậy, tôi sẽ không đến đây học thầy nữa.”

Nan-in mỉm cười và vỗ vai chàng bác sĩ. “Tôi đã quá khắt khe với anh. Để tôi chỉ cho anh một công án.” Thiền sư nói cho Kusuda nghe công án Không của Thiền sư Joshu, là công án đầu tiên để làm sáng tỏ trí óc trong sách Vô Môn Quan.

Kusuda suy nghĩ về công án Không trong hai năm. Cuối cùng chàng cảm thấy tâm mình đã vững chải. Nhưng thiền sư bình phẩm: “Anh vẫn chưa vào bên trong.”

Kusuda tiếp tục tập trung tư tưởng thêm một năm rưỡi nữa. Tâm của chàng trở nên lặng. Các vấn đề tan biến. “Không” trở thành chân lý. Anh chăm sóc cho bệnh nhân rất tử tế và, dù là không biết chuyện đó, anh đã thoát khỏi lo âu về sống hay chết.

Và khi anh đến thăm Nan-in, vị thầy chỉ mỉm cười.

Bình:

• Chỉ nhờ hỏi thăm vui vẻ lần gặp nhau đầu tiên mà thiền sư Nan-in vô tình làm tiêu đi ý‎ định thử dữ dằn của Kusuda.

• Tinh yếu của thiền là “Hãy chăm sóc cho bệnh nhân tử tế.” Tức là: (1) Hãy làm những việc hàng ngày (2) với từ tâm (3) đối với người khác.

Vì là tinh yếu cho nên lần nào Nan-in cũng lập đi lập lại bao nhiêu đó.

• Nhưng Kusuda phàn nàn (vì chưa đủ trí tuệ và trực nghiệm để hiểu), cho nên Nan-in mới nói “thầy quá khắt khe”, cho trò xuống cấp thấp hơn một tí, học công án vậy.

• Công án Joshu’s Mu là “Cái không của Triệu Châu.” Joshu là tên tiếng Nhật của thiền sư Trung quốc Triệu Châu. Công án này còn được gọi là “Con chó của Triệu Châu” và như thế này:

Một vị sư hỏi Triệu Châu.
“Con chó có Phật tánh không?”
Triệu Châu trả lời: “Không”

Mu trong tiếng Nhật là Vô trong tiếng Trung, và Không trong tiếng Việt. Mu còn có âm như tiếng sủa của chó.

Nói theo “có” với “không”, thì mọi sinh linh đang ở trong 6 nẻo luân hồi—trời, người, Atula, súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ–đều có thể thành Phật, tức là đều có Phật tánh. Chó là súc sinh, đương nhiên là có Phật tánh.

Nhưng Phật tánh là gì? Là “Không”. Đây không phải là “không có” mà là “Không” của Bát Nhã Tâm Kinh: “Khi Bồ tát Quán-tự-tại thực hành trí tuệ Bát Nhã thâm sâu, thấy rõ [mọi thứ] là Không, ngài liền vượt qua mọi khổ nạn.”

“Không” đây là “Tuyệt Đối”, là căn tánh thật của cả vũ trụ tương đối quanh ta và trong ta.

• Suy tư về “Không”, dù là đi đường vòng, cũng sẽ đưa ta đến đích—yêu thương mọi người và không còn sợ hãi.

• Tóm lại: Đi đường trí óc suy nghĩ phức tạp khoa bảng là đi đường vòng, đường thấp. Đường trực tiếp, đường cao là “Sống bằng từ tâm với mọi người, hàng ngày.” Đó là tinh yếu của Thiền.

Thiền là sống, không phải là lý thuyết.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Stingy in Teaching

A young physician in Tokyo named Kusuda met a college friend who had been studying Zen. The young doctor asked him what Zen was.

“I cannot tell you what it is,” the friend replied, “but one thing is certain. If you understand Zen, you will not be afraid to die.”

“That’s fine,” said Kusuda. “I will try it. Where can I find a teacher?”

“Go to the master Nan-in,” the friend told him.

So Kusuda went to call on Nan-in. He carried a dagger nine and a half inches long to determine whether or not the teacher was afraid to die.

When Nan-in saw Kusuda he exclaimed: “Hello, friend. How are you? We haven’t seen each other for a long time!”

This perplexed Kusuda, who replied: “We have never met before.”

“That’s right,” answered Nan-in. “I mistook you for another physician who is receiving instruction here.”

With such a beginning, Kusuda lost his chance to test the master, so reluctantly he asked if he might receive Zen instruction.

Nan-in said: “Zen is not a difficult task. If you are a physician, treat you patients with kindness. That is Zen.”

Kusuda visited Nan-in three times. Each time Nan-in told him the same thing. “A physician should not waste time around here. Go home and take care of you patients.”

It was not yet clear to Kusuda how such teaching could remove the fear of death. So on his fourth visit he complained: “My friend told me when one learns Zen one loses the fear of death. Each time I come here all you tell me is to take care of my patients. I know that much. If that is your so-called Zen, I am not going to visit you any more.”

Nan-in smiled and patted the doctor. “I have been too strict with you. Let me give you a koan.” He presented Kusuda with Joshu’s Mu to work over, which is the first mind enlightening problem in the book called The Gateless Gate.

Kusuda pondered this problem of Mu (No-Thing) for two years. At length he thought he had reached certainty of mind. But his teacher commented: “You are not in yet.”

Kusuda continued in concentration for another year and a half. His mind became placid. Problems dissolved. No-Thing became the truth. He served his patients well and, without even knowing it, he was free from concern over life and death.

Then when he visited Nan-in, his old teacher just smiled.

#17