Tag Archives: Thiền

Shoun và mẹ

Shoun là một vị thầy về thiền Tào Động. Khi còn là học trò, bố của Shoun qua đời, Shoun phải chăm sóc mẹ.

Mỗi khi vào phòng thiền, Shoun luôn luôn mang mẹ đi theo. Vì có mẹ đi theo, mỗi khi Shoun viếng một tu viện, ông không thể sống chung với các vị sư khác. Vì vậy Shoun xây một nhà nhỏ để lo cho mẹ. Shoun chép lại kinh sách, và thi ca nhà Phật, và nhờ đó nhận được ít tiền mua thực phẩm.

Khi Shoun mua cá cho mẹ, người ta chế giễu ông, vì người tu hành không được ăn cá. Nhưng Shoun không màng. Tuy nhiên, mẹ của Shoun thì buồn, thấy con mình bị cười chê. Cuối cùng bà nói với Shoun: “Mẹ nghĩ là mẹ sẽ thành ni cô. Mẹ cũng có thể ăn chay được.” Bà thành ni cô, và mẹ con nghiên cứu chung với nhau.

Shoun yêu nhạc và là nhạc sĩ giỏi về đàn hạc, Mẹ shoun cũng chơi đàn hạc. Những đêm trăng tròn hai mẹ con chơi đàn với nhau.

Có một đêm một cô gái trẻ đi ngang nhà và nghe nhạc. Cảm xúc quá, cô bèn mời Shoun đến nhà cô đêm hôm sau và đánh đàn. Shoun đồng ‎ý. Vài ngày sau Shoun gặp lại cô ấy ngoài phố và cám ơn lòng hiếu khách của cô. Mọi người cười chê, vì Shoun đã đến nhà một cô gái làng chơi.

Ngày nọ Shoun đi thuyết giảng ở một chùa xa. Vài tháng sau ông trở về nhà và biết mẹ vừa chết. Các bạn không biết tìm ông ở đâu, nên tang lễ đã bắt đầu.

Shoun bước lên, dùng gậy gõ vào quan tài. “Mẹ, con đã về đây,” ông nói.

“Mẹ mừng con đã về,” ông trả lời thế cho mẹ.

“Vâng, con cũng mừng,” Shoun trả lời. Rồi ông nói mới mọi người quanh ông: “Lễ tang đã xong. Các bạn có thể hỏa táng.”

Khi Shoun đã rất già, ông biết ngày cuối đã gần kề. Một buổi sáng, ông gọi các đệ tử lại quanh ông, nói cho họ biết ông sẽ ra đi vào lúc trưa. Thắp nhang trước ảnh mẹ và thầy cũ, ông viết một bài thơ:

Năm mươi sáu năm gắng sống tử tế
Đi đường tôi trong thế giới này
Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết
Trời trong xanh một mảnh trăng đầy

Các đệ tử đứng quanh ông, tụng kinh, và Shoun ra đi khi kinh còn đang tụng.
.

Bình:

• Người ta nghĩ rằng xuất gia là “ra khỏi nhà”, bỏ cha bỏ mẹ đi tu. Nhưng đâu có Phật nào cản con lo cho mẹ từng ngày, ngay cả lúc ngồi thiền là lúc cần yên tĩnh nhất, cũng mang mẹ theo bên cạnh để chăm sóc.

Ngoài gánh nặng tiền bạc và công khó, còn gánh nặng bị người đời cười chê. Mang gánh nặng để lo cho mẹ, đó chính là bằng chứng cụ thể nhất của tình yêu.

• Không chỉ lo về thể chất, mà Shoun còn lo về phát triển tinh thần của mẹ–chơi nhạc cùng mẹ, nghiên cứu Phật pháp cùng mẹ, và mẹ rốt cuộc cũng thành ni cô, mở rộng tâm mẹ trên đường tu học. Còn cái lo nào lớn cho bằng.

• Vì yêu mẹ, nên Shoun kính trọng phụ nữ, kể cả gái làng chơi. Và kính trọng phụ nữ, ngay cả khi người khác cười mình là giao du với người xấu.

• Khi mẹ chết Shoun thay mẹ để nói chuyện với mình, đó là do cảm thấy gần gũi mẹ đến mức thấy có mẹ trong mình, và mẹ nói được lời mẹ qua miệng mình.

• Thực sự thì, trong ta có cha mẹ và tất cả tổ tiên ta.

Bởi vì Shoun biết mẹ đã ở trong Shoun, nên Shoun chẳng buồn gì cả. Nói chuyện với mẹ xong là điềm tĩnh bảo mọi người có thể hỏa táng xác mẹ.

• Cho đến ngày cuối đời, vẫn không quên mẹ và thầy.

• Đến ngày cuối đời, Shoun mới xác nhận là mình đã giác ngộ–Giờ mưa đã ngừng, mây đã hết, trời trong xanh môt mảnh trăng đầy.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Shoun and His Mother

Shoun became a teacher of Soto Zen. When he was still a student his father passed away, leaving him to care for his old mother.

Whenever Shoun went to a meditation hall he always took his mother with him. Since she accompanied him, when he visited monasteries he could not live with the monks. So he would build a little house and care for her there. He would copy sutras, Buddhist verses, and in this manner receive a few coins for food.

When Shoun bought fish for his mother, the people would scoff at him, for a monk is not supposed to eat fish. But Shoun did not mind. His mother, however, was hurt to see the others laugh at her son. Finally she told Shoun: “I think I will become a nun. I can be a vegaterian too.” She did, and they studied together.

Shoun was fond of music and was a master of the harp, which his mother also played. On full-moon nights they used to play together.

One night a young lady passed by their house and heard music. Deeply touched, she invited Shoun to visit her the next evening and play. He accepted the invitation. A few days later he met the young lady on the street and thanked her for her hospitality. Others laughed at him. He had visited the house of a woman of the streets.

One day Shoun left for a distant temple to deliver a lecture. A few months afterwards he returned home to find his mother dead. Friends had not known where to reach him, so the funeral was then in progress.

Shoun walked up and hit the coffin with his staff. “Mother, your son has returned,” he said.

“I am glad to see you have returned, son,” he answered for his mother.

“Yes, I am glad too,” Shoun responded. Then he announced to the people about him: “The funeral ceremony is over. You may bury the body.”

When Shoun was old he knew his end was approaching. He asked his disciples to gather around him in the morning, telling them he was going to pass on at noon. Burning incense before the picture of his mother and his old teacher, he wrote a poem:

For fifty-six years I lived as best I could,
Making my way in this world.
Now the rain has ended, the clouds are clearing,
The blue sky has a full moon.

His disciples gathered about him, reciting a sutra, and Shoun passed on during the invocation.

#15

Ông Tàu Vui Tính

Ai đi trong các Phố Tàu ở Mỹ đều thấy ảnh tượng một ông mập mang một bao vải. Thương nhân Trung Hoa gọi ông ấy là Ông Tàu Vui Tính hay Ông Phật Cười.

Ông Hotei này sống thời nhà Đường. Ông chẳng muốn ai gọi mình là thiền sư hoặc tụ tập học trò đông đúc quanh mình. Thay vì vậy, ông đi đọc đường phố với một bao lớn trong đó ông mang các món quà như kẹo, trái cây, bánh ngọt. Đây là quà ông cho các em bé thường chơi đùa với ông. Ông tạo ra lớp vườn trẻ trên đường phố.

Lúc nào gặp một thiền nhân ông cũng xòe tay và nói: “Cho tôi một xu.”

Có một lần ông đang sửa soạn chơi/làm-việc, một thiền sư khác đi ngang và hỏi: “Yếu tính của thiền là gì?”

Hotei vất ngay bao vải xuống đất, trả lời thầm lặng.

“Vậy,” vị thiền sư hỏi tiếp, “thế nào là đạt được Thiền?”

Ông Tàu Vui Tính lập tức xách bao mang lên vai và đi tiếp.
.

Bình:

• Hotei chính là Phật Di Lặc, và có nhiều tên khác nhau như Phật Mập, Phật Cười, Phật Vui, Phật Tình Yêu, Phật Phát Tài…

Theo kinh sách thì Phật Di Lặc là Phật tương lai, Phật cuối cùng của thế giới ta bà này, có lẽ phải khoảng 30 ngàn năm nữa mới đến.

Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian thì Bố Đại Hòa Thượng thời nhà Đường là hóa thân của Phật Di Lặc, như trong truyện này.

• Yếu tính của Thiền là gì?

Là không vướng mắc, không vướng bận, không chấp. Như Hotei vất bao xuống đất.

• Thế nào là đạt được Thiền?

Là sống, là làm mọi điều mình vẫn làm thường ngày, với tâm không vướng mắc. Như Hotei mang bao quà đi chơi/dạy con nít.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Happy Chinaman

Anyone walking about Chinatowns in America will observe statues of a stout fellow carrying a linen sack. Chinese merchants call him Happy Chinaman or Laughing Buddha.

This Hotei lived in the T’ang dynasty. He had no desire to call himself a Zen master or to gather many disciples around him. Instead he walked the streets with a big sack into which he would put gifts of candy, fruit, or doughnuts. These he would give to children who gathered around him in play. He established a kindergarten of the streets.

Whenever he met a Zen devotee he would extend his hand and say: “Give me one penny.”

Once as he was about to play-work another Zen master happened along and inquired: “What is the significance of Zen?”

Hotei immediately plopped his sack down on the ground in silent answer.

“Then,” asked the other, “what is the actualization of Zen?”

At once the Happy Chinaman swung the sack over his shoulder and continued on his way.

#12

Không trộm được mặt trăng

Thiền sư Ryokan sống cuộc đời đơn giản nhất trong một căn chòi nhỏ dưới chân núi. Buổi tối nọ một tên trộm vào chòi chỉ để khám phá ra là chẳng có gì trong đó để trộm.

Ryokan trở về, bắt gặp tên trộm, “Có lẽ anh đã đi một quãng đường dài để thăm tôi,” thiền sư nói với tên trộm, “và anh không nên về không. Vậy hãy nhận áo quần của tôi làm quà tặng.”

Tên trộm sửng sốt. Hắn nhận áo quần và lẩn đi.

Ryokan ngồi trần truồng, ngắm trăng. “Tội nghiệp,” thiền sư nghĩ thầm, “Ước gì mình có thể cho anh ta mặt trăng đẹp đẽ này.”

Bình:

• Gặp trộm thì la hét, đánh đập, chưởi bới. Đó là phản ứng của đại đa số người. Đại đa số được “lập trình” như thế, và các phản ứng như vậy chỉ là lập trình máy móc như robot. “Phản ứng” là bị động. “Phản ứng theo lập trình” là nô lệ của lập trình.

Thiền sư hoàn toàn chủ động tâm mình. Xử với mọi người như khách quý, dù hắn là ai. Đó là một tâm thức hoàn toàn tự do, hoàn toàn do chính mình làm chủ.

Thiền sư cũng chẳng buồn hỏi “Tại sao anh làm thế?” để nghe giải thích hợp lý như là “Con tôi đang bị bệnh, cần tiền mua thuốc.” Mọi người là khách quý của thiền sư, thế thôi—không điều kiện, không ràng buộc. Một tâm thức hoàn toàn tự do.

• Cũng như vị linh mục trong Les Miserables của Victor Hugo, dùng tình yêu và ân cần mà xử với kẻ trộm, có thể làm cho người đó sửng sốt đến độ sẽ không muốn làm sai nữa và chỉ muốn làm điều thiện.

• Còn cái đáng giá hơn cả bộ áo quần của thiền sư cả muôn nghìn lần—cái đẹp hiền dịu của ánh trăng và những phút giây hạnh phút nhìn ngắm nó. Đó mới là quà quý để tặng khách. Nhưng đương nhiên là không được.

• Thực ra, anh trộm cũng đã có mặt trăng rồi, và cũng đã có thể ngắm trăng sung sướng rồi. Nhưng nếu anh không biết ngắm trăng thì đành chịu. Người khác không thể cho anh mặt trăng và sự ngắm trăng.

• Mặt trăng là biểu tượng của tâm tĩnh lặng, tâm trong sáng, tâm giác ngộ, tâm Phật—ai cũng đã có hết rồi. Thấy được hay không, hưởng nó được hay không, là do chính mình. Chẳng ai có thể giúp mình làm được điều đó.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

The Moon Cannot Be Stolen

Ryokan, a Zen master, lived the simplest kind of life in a little hut at the foot of a mountain. One evening a thief visited the hut only to discover there was nothing in it to steal.

Ryokan returned and caught him. “You may have come a long way to visit me,” he told the prowler, “and you shoud not return emptyhanded. Please take my clothes as a gift.”

The thief was bewildered. He took the clothes and slunk away.

Ryokan sat naked, watching the moon. “Poor fellow, ” he mused, “I wish I could give him this beautiful moon.”

#9

Sóng Lớn

Vào đầu thời Minh Trị Thiên Hoàng có một võ sĩ đánh vật tên là O-nami, tức là Sóng Lớn.

O-nami rất mạnh và giỏi về nghệ thuật đánh vật. Trong những trận đấu riêng, O-nami thắng cả thầy của mình, nhưng khi ra trước đám đông O-nami lại quá rụt rè đến nỗi chính học trò của anh cũng vật anh được.

O-name nghĩ là mình nên tìm một thiền sư giúp đở. Hakuju, một thiền sư lang thang, đang dừng chân tại một chùa gần đó, nên O-nami đến gặp và kể về khó khăn lớn của mình.

“Sóng Lớn là tên của anh,” thiền sư tư vấn, “vậy thì ở lại chùa tối nay. Tưởng tượng anh là những ngọn sóng lớn đó. Anh không còn là võ sĩ đánh vật hay sợ nữa. Anh là những đợt sóng vĩ đại quét sạch tất cả những gì đứng trước mặt, nuốt sạch tất cả những gì sóng đi qua. Tưởng tượng thế và anh sẽ là võ sĩ đánh vật siêu đẳng nhất nước.”

Vị thầy lui về. O-nami ngồi thiền cố gắng tưởng tượng mình là sóng. Anh nghĩ đến rất nhiều chuyện. Rồi dần dần cảm giác là sóng tăng thêm. Càng về đêm những lọn sóng càng lớn hơn. Sóng cuốn trôi những cánh hoa trong các lọ hoa. Ngay cả tượng Phật trên bàn thờ cũng bị ngập nước. Trước khi trời hừng đông, cả ngôi chùa chẳng còn là gì nữa ngoại trừ sóng lên sóng xuống của đại dương.

Sáng ra vị thầy thấy O-nami vẫn còn thiền định, với nét cười thoáng hiện trên mặt. Thiền sư vỗ vai chàng võ sĩ. “Bây giờ chẳng còn điều gì có thể làm phiền anh,” thầy nói. “Anh là những đợt sóng đó. Anh sẽ quét sạch mọi thứ trước mặt anh.”

Ngày đó O-nami thi đấu và thắng. Từ đấy, không còn ai ở Nhật có thể thắng O-nami.

Bình:

• Tất cả các võ sư đều biết rằng, khi đấu, nếu tài và sức chỉ hơn nhau một 8 một 10, thì quyết tâm và bình tĩnh quyết định thắng bại đến 70%, 20% là may rủi, và 10% là tài và sức.

Đa số mọi phấn đấu của ta về mọi vấn đề trên đời cũng đều như thế.

• O-nami ra trước đám đông bị “cái lo” về đám đông làm tư tưởng không tập trung được—Không biết họ có cười mình mập quá không? Hay là họ chê mình đấu dở?

• Thiền sư chỉ O-nami cách tập trung tư tưởng vào MỘT điều duy nhất—hình ảnh các đợt sóng. Đây là bước căn bản đầu tiên của thiền định–tập trung vào MỘT điều duy nhất: hơi thở, hay bước đi, hay các hành động rửa bát, hoặc quét nhà, v.v… Tư tưởng tập trung vào một điều sẽ không chạy tán loạn.

• Dùng hình ảnh Sóng Lớn ở đây để tập trung tư tưởng còn có thêm hai điều lợi. Thứ nhất, đây là tên của O-nami, rất quen thuộc với anh, dễ tập trung tư tưởng. Thư hai, đây là hình ảnh mạnh mẽ chiến thắng. Tốt cho võ sĩ xông trận. Vị thiền sư này đúng là thầy rất giỏi về thiền định, nên cho bài học một công hai ba chuyện.

• Ngồi thiền thường là như thế: Ban đầu cứ “nghĩ đến rất nhiều chuyện”, rồi tư tưởng mới tập trung vào hình ảnh mình đang “quán” từ từ, càng lâu càng mạnh và càng rõ.

• Ảnh hưởng đổi đen thành trắng trong chỉ một đêm như ở đây, thì hơi hiếm. Thông thường ta cần nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm… tùy theo vấn đề, mức độ, và cơ duyên.

• Việc O-nami “quán” mình thành sóng đánh trôi hoa trên bàn thờ và nhận chìm luôn cả tượng Phật là một căn bản triết l‎ý rất quan trọng của Phật học: Phật ở trong ta, không có Phật ở ngoài. Câu của ngài Lâm Tế “phùng Phật sát Phật” (gặp Phật giết Phật) có nghĩa là thế: Không có Phật ngoài ta. (Nếu có vị Phật sống đi ngoài đường thì điều đó cũng chẳng quan trọng và ăn nhập gì tới mình cả).

Phật sống còn không có ngoài ta, huống chi là tượng Phật. Tượng để thờ tự chỉ là tượng gỗ giúp ta tập trung tư tưởng thôi, chẳng nghĩa lý gì cả. Thiền tổ Đơn Hà bảo một vị sư chẻ tượng Phật làm củi sưởi ấm, là để đánh đổ cái “chấp” vào tượng của sư.

Đừng hướng ý ra tượng ảnh hay Phật ở ngoài. Phật là tâm ta. Hướng vào tâm ta để tâm thanh tịnh thành Phật.

• Giác ngộ như là một cơn sóng thần dánh dạt tất cả vướng mắc trong tâm–hoa trên bàn thờ, tượng Phật, chùa chiền, đền đài lăng tẩm, tất cả thế giới, tất cả vũ trụ…

Không một mảy may vướng mắc sót lại. Tâm rỗng lặng hoàn toàn.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Great Waves

In the early days of the Meiji era there lived a well-known wrestler called O-nami, Great Waves.

O-nami was immensly strong and knew the art of wresting. In his private bouts he defeated even his teacher, but in public was so bashful that his own pupils threw him.

O-nami felt he should go to a Zen master for help. Hakuju, a wandering teacher, was stopping in a little temple nearby, so O-nami went to see him and told him of his great trouble.

“Great Waves is your name,” the teacher advised, “so stay in this temple tonight. Imagine that you are those billows. You are no longer a wrestler who is afraid. You are those huge waves sweeping everything before them, swallowing all in their path. Do this and you will be the greatest wrestler in the land.”

The teacher retired. O-nami sat in meditation trying to imagine himself as waves. He thought of many different things. Then gradually he turned more and more to the feeling of waves. As the night advanced the waves became larger and larger. They swept away the flowers in their vases. Even the Buddha in the shrine was inundated. Before dawn the temple was nothing but the ebb and flow of an immense sea.

In the morning the teacher found O-nami meditating, a faint smile on his face. He patted the wrestler’s shoulder. “Now nothing can disturb you,” he said. “You are those waves. lYou will sweep everything before you.”

The same day O-nami entered the wrestling contests and won. After that, no one in Japan was able to defeat him.

#8

Thông báo

Vào ngày cuối cùng của đời mình, thiền sư Tanzan viết 60 bưu thiếp, nhờ một người trợ lý gởi đi. Rồi thiền sư qua đời.

Các tờ bưu thiếp viết:

Tôi đang rời xa thế giới này.
Đây là thông báo cuối cùng của tôi.

    Tanzan
    27 tháng 7 năm 1892

Bình:

• Theo truyền thống Phật gia, con người có thể chủ động về sự chết của mình. Chọn ngày giờ đi và cách đi. Hai cách thường dùng nhất là thiền định nhịn ăn, và tự thiêu… và theo truyền thuyết có thể có những cách ít người biết được.

Chủ động về cái chết của chính mình được xem như là một sự kiện lớn đánh dấu tự do của con người. Ta không chủ động được sanh, nhưng ít ra ta cũng chủ động tử.

Trong các truyền thống khác, như Thiên chúa giáo chẳng hạn, con người không có quyền tự kết liễu đời mình—sinh và tử là quyền của thượng đế.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

Announcement

Tanzan wrote sixty postal cards on the last day of his life, and asked an attendant to mail them. Then he passed away.

The cards read:

I am departing from this world.
This is my last announcement.

    Tanzan
    July 27, 1892

Không có từ tâm

Một người phụ nữ ở Trung Quốc đã cấp dưỡng một vị sư hơn 20 năm. Bà đã làm một chòi nhỏ cho sư và lo việc ăn uống khi sư thiền định. Cuối cùng bà thắc mắc là không biết vị sư đã tiến bộ được gì trong suốt bao nhiêu năm.

Để tìm câu trả lời, bà nhờ một cô gái đầy ham muốn giúp một tay. “Vào ôm ông,” bà bảo cô gái, “rồi hỏi đột ngột: ‘Làm gì bây giờ?’ ”

Cô gái vào gặp sư và, chẳng nề hà gì, đến vuốt ve sư, hỏi sư phải làm thế nào về việc đó.

“Một cây mọc trên tảng đá trong mùa đông,” vị sư trả lời đầy thi vị. “Chẳng nơi đâu có hơi ấm.”

Cô gái trở về và báo cáo lại điều sư nói.

“Nghĩ đến việc tôi nuôi ông này cả 20 năm!” bà than một cách giận dữ. “Ông ta chẳng tỏ vẻ gì quan tâm đến nhu cầu của cô, chẳng hề muốn giải thích tình trạng của cô. Ông ta không cần phải đáp lại ham muốn, nhưng ít ra ông ta cũng phải tỏ lộ được một tí từ tâm.”

Bà liền đi ngay đến chòi của vị sư và đốt nó.

Bình:

* Đoạn nhà sư nói thế này:

Cô gái vào gặp sư và, chẳng nề hà gì, đến vuốt ve sư, hỏi sư phải làm thế nào về việc đó.

“Một cây mọc trên tảng đá trong mùa đông,” vị sư trả lời đầy thi vị. “Chẳng nơi đâu có hơi ấm.”

Ý nhà sư nói, Tôi như là một cây mọc trên đá trong mùa đông, rất lạnh lùng, chẳng có hơi ấm nào nơi tôi, chẳng có xúc cảm nào nơi tôi, cô đừng mất công vô ích.

Đây là thái độ mà ta gọi là “con tim chai đá” chẳng còn một tí cảm xúc nào hết. Và đây là lầm lỗi rất nhiều người có về Thiền, kể cả một số thiền sư. Tức là họ tập “thiền” để chỉ làm cho con tim không còn bị xúc động bởi tất cả mọi điều trên đời.

Nhưng nếu thế thì “tâm từ bi” của Bồ tát làm sao mà có được?

Bồ tát có tâm từ bi, cảm xúc được từng nỗi đau rất nhỏ của con người. Vì vậy mà Bồ tát luôn luôn hộ trì, độ người qua khổ nạn.

Tâm Thiền là tâm cực kỳ nhậy cảm, nhậy cảm với những nỗi đau nỗi khổ dù là rất nhỏ của sinh linh.

Ở đây ta có một cô gái muốn một nhà sư (dù là bên ngoài). Trong bài có nói đây là một cô gái “đầy ham muốn”. Đó là một cái khổ. Thích một nhà sư là một điều rất khổ cho một cô gái. Nhà sư không thích cô gái theo kiểu nam nữ, nhưng ít ra phải cảm xúc được cái khổ của cô, để mà có một tí từ tâm. Biểu lộ từ tâm đó với cô ta bằng cách nào thì tùy theo trường hợp, nhưng có lẽ không phải là cách kiêu kỳ, chẳng nói một chữ về cô ta, mà chỉ tự ví mình là cây mọc trên tảng đá giữa mùa đông. Một lối trả lời rất nhắm vào “cái tôi” thay vì lo lắng cho người kia.

Ở đây ta thấy sự liên hệ giữa tâm chai đá và cái tôi (ngã mạn). Người có tâm chai đá chỉ quan tâm đến họ và chẳng quan tâm đến ai khác.

Bồ tát không quan tâm đến mình, mà quan tâm đến người khác. Đó là Thiền thật sự.

* Người ta thường nhầm lẫn tâm tĩnh lặng của Thiền và tâm chai đá. Tâm tĩnh lặng là mặt nước hồ thu tĩnh lặng, không phải là một tảng đá chết lặng.

Một viên sỏi rất nhỏ cũng làm mặt hồ gợn sóng. Tâm tĩnh lặng rất nhậy cảm với mọi cảm xúc ở đời, nhậy cảm hơn tâm trung bình rất nhiều. Nhưng Tâm tĩnh lặng có thể tự kiểm soát mình rất tốt, cho nên dùng các xúc cảm đó để làm điều thiện, làm thăng hoa cuộc đời.

Mặt khác, chạy ồ ạt theo xúc cảm buồn vui giận ghét của mình không phải là nhậy cảm, mà là không chỉ huy được cảm xúc và là nô lệ cho cảm xúc.

* Bà lão nổi giận vì tốn công nuôi ông sư này 20 năm mà ông ta chẳng hiểu gì về Thiền, về tĩnh lặng, và từ tâm cả. Sự nổi giận của bà lão và con số 20 năm là để nhấn mạnh điều là có rất nhiều vị sư bị lạc về điểm này cả đời họ.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

No Loving – Kindness

There was an old woman in China who had supported a monk for over twenty years. She had built a little hut for him and fed him while he was meditating. Finally she wondered just what progress he had made in all this time.

To find out, she obtained the help of a girl rich in desire. “Go and embrace him,” she told her, “and then ask him suddenly: ‘What now?'”

The girl called upon the monk and without much ado caressed him, asking him what he was going to do about it.

“An old tree grows on a cold rock in winter,” replied the monk somewhat poetically. “Nowhere is there any warmth.”

The girl returned and related what he had said.

“To think I fed that fellow for twenty years!” exclaimed the old woman in anger. “He showed no consideration for your need, no disposition to explain your condition. He need not have responded to passion, but at least he could have evidenced some compassion.”

She at once went to the hut of the monk and burned it down.

Nếu yêu, hãy yêu công khai

Hai mươi nhà sư và một ni cô tên Eshun học thiền với một thiền sư.

Eshun rất đẹp dù là đầu của ni cô đã cạo và áo chùng rất thường. Vài vị sư thầm yêu nàng. Một vị viết cho nàng một lá thư tỏ tình, xin được gặp riêng nàng.

Eshun không trả lời. Ngày hôm sau thiền sư giảng bài cho cả lớp, và khi thầy giảng xong, Eshun đứng dậy. Nhìn người đã viết thơ tỏ tình cho mình, Eshun nói: “Nếu thực sự anh yêu tôi rất nhiều, hãy đến đây và ôm tôi.”

Bình:

• Không phải chỉ là tình yêu mà là tất cả những chuyện khác. Thường là, nếu không có gì sai trái thì chẳng có lý do gì phải giấu giếm. Nếu có giấu giếm, thường là có chuyện không tốt. Mỗi bí mật là một chấn song tù hãm. Nếu ta có nhiều bí mật trong đời quá, ta ở tù vĩnh viễn.

• Có lẽ ni cô đã nói chuyện với thầy và thầy ra lệnh ni cô phải làm thế. Vì nếu ni cô tự ‎ý làm, thì một là làm mất trật tự lớp học và hai là bất nhẫn. Dù không yêu, cũng cần có từ tâm.

Nhưng thầy ra lệnh thì được.

• Các thiền sư nổi tiếng là dịu dàng, nhưng đối với thiền sinh, tức là những người sẽ thành thầy dạy Thiền sau này, các thầy đôi khi có cách giáo dục rất khắc nghiệt.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

If You Love, Love Openly

Twenty monks and one nun, who was named Eshun, were practicing meditation with a certain Zen master.

Eshun was very pretty even though her head was shaved and her dress plain. Several monks secretly fell in love with her. One of them wrote her a love letter, insisting upon a private meeting.

Eshun did not reply. The following day the master gave a lecture to the group, and when it was over, Eshun arose. Addressing the one who had written her, she said: “If you really love me so much, come and embrace me now.”

#5

Vâng lời

Các buổi thuyết giảng của thiền sư Bankei thu hút không chỉ thiền sinh mà đủ mọi hạng người của mọi giáo phái. Thiền sư chẳng bao giờ nhắc đến kinh kệ hay dùng các lý luận khoa bảng, mà chỉ nói trực tiếp từ quả tim đến thẳng quả tim của người nghe.

Một nhà sư của giáo phái Nichiren bực tức vì đám đông đến nghe thiền sư Bankei và vì một số tín đồ của nhà sư đã bỏ sư mà đi nghe Bankei giảng. Vị sư Nichiren tự ái, đi đến chùa, nhất định phải tranh luận với Bankei.

“Ê, thiền sư!” vị sư Nichiren gọi. “Đợi một tí. Ai kính trọng ông sẽ vâng theo lởi ông, nhưng người như tôi không kính trọng ông. Ông có thể làm tôi vâng lời ông không?”

“Đến bên cạnh tôi và tôi sẽ chỉ cho ông,” Bankei nói.

Nhà sư Nichiren hãnh diện bước qua đám đông đến cạnh thiền sư.

Bankei smiled. “Qua bên trái tôi.”

Vị sư làm theo.

“Không,” Bankei nói, “chúng ta nói chuyện dễ hơn nếu anh đứng bên phải. Bước qua đây.”

Nhà sư hãnh diện bước sang bên phải.

“Anh thấy không” Bankei nhận xét, “anh đang vâng lời tôi và tôi nghĩ rằng anh là một người rất hiền dịu. Bây giờ, anh ngồi xuống đây và nghe.”

Bình:

• Sân hận và kiêu căng làm vị sư Nichiren mù mắt, đầu óc hết nhậy bén và không thấy những gì đang xảy đến cho mình.

• Ở mức độ cao hơn: Khi tâm mình chấp vào một điều gì đó—như vị sư Nichiren quyết tâm chứng minh trước đám đông là thiền sư Bankei không điều khiển được ông– mình dễ bị mù mắt. Chấp trước làm ta thành si mê.

• Một tâm tĩnh và một tâm động. Tĩnh chỉ huy động, chứ động không chỉ huy tĩnh. Tướng ngồi trong trướng, quân chạy bên ngoài. Tướng chỉ huy quân, quân không chỉ huy tướng.

• Thời Đông Châu Liệt Quốc, Quỷ Cốc Tử, thầy binh pháp của Tôn Tẩn và Bàng Quyên, cũng bị Tôn Tẩn thắng bằng trí. Quỷ Cốc Tử ngồi trên ghế và hỏi hai đệ tử làm cách nào cho ông rời ghế mà không đụng vào người ông. Bàng Quyên nói sẽ đốt lửa dưới ghế. Thầy cho là kế được. Tôn Tẩn nói, “Con không làm cho thầy rời ghế được, nhưng nếu thầy đứng dậy con sẽ có cách làm thầy phải ngồi xuống ghế.” Quỷ Cốc Tử đứng dậy, và trúng kế học trò. (Hai học trò, mỗi người một tâm ý).

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Obedience

The master Bankei’s talks were attended not only by Zen students but by persons of all ranks and sects. He never quoted sutras nor indulged in scholastic dissertations. Instead, his words were spoken directly from his heart to the hearts of his listeners.

His large audiences angered a priest of the Nichiren sect because the adherents had left to hear about Zen. The self-centered Nichiren priest came to the temple, determined to debate with Bankei.

“Hey, Zen teacher!” he called out. “Wait a minute. Whoever respects you will obey what you say, but a man like myself does not respect you. Can you make me obey you?”

“Come up beside me and I will show you,” said Bankei.

Proudly the priest pushed his way through the crowd to the teacher.

Bankei smiled. “Come over to my left side.”

The priest obeyed.

“No,” said Bankei, “we may talk better if you are on the right side. Step over here.”

The priest proudly stepped over to the right

“You see,” observed Bankei, “you are obeying me and I think you are a very gentle person. Now sit down and listen.”

#4

Vậy à

Thiền sư Hakuin được láng giềng ca tụng là sống một cuộc đời tinh khiết.

Gần nơi thiền sư ở có một cô gái đẹp con của ông bà chủ tiệm thực phẩm. Đột nhiên bố mẹ cô gái khám phá là cô đang có thai.

Bố mẹ cô rất giận. Cô chẳng thú nhận ai là bố đứa bé, nhưng sau nhiều áp lực, cuối cùng cô khai tên thiền sư Hakuin.

Cực kỳ giận dữ, bố mẹ cô đến gặp thiền sư. “Vậy à.” thiền sư chỉ nói vậy.

Sau khi đứa bé chào đời, nó được mang đến cho Hakuin. Đến giờ này thiền sư đã hoàn toàn mất hết tăm tiếng, nhưng ngài chẳng thấy phiền toái gì, và ngài lo cho đứa bé rất tốt. Thiền sư xin hàng xóm sữa và các thứ mà đứa bé cần.

Một năm sau cô gái mẹ đứa bé chịu hết nổi. Cô thú thật với bố mẹ rằng bố thật của đứa bé là một cậu làm việc trong chợ cá.

Bố mẹ cô gái đi gặp Hakuin ngay và xin lỗi, năn nỉ kể lể dài dòng, và xin đứa bé lại.

Hakuin bằng lòng. Và khi giao đứa bé lại, thiền sư chỉ nói “Vậy à.”

Bình:

Tâm tĩnh lặng. Có tăm tiếng, không vui. Mất tăm tiếng, không buồn . Gặp bất công, không sân hận. Hết bất công, không mừng rỡ.

Sống tùy duyên. Duyên mang bé đến thì nuôi. Duyên đưa bé đi thì thôi. Chẳng có gì phải thắc mắc.

“Tâm không” như bầu trời trong xanh. Mây đến tự nhiên và mây đi tự nhiên.

• Nhưng tại sao thiền sư không giải thích tối thiểu là một câu “tôi không phải là cha đứa bé?”

Có thể vì đính chính cũng vô ích–chẳng qua cũng chỉ là lời người này chọi lời người kia. Bé đã có duyên đến với ta thì ta nuôi nấng và vui chơi với bé.

• Một năm sau mẹ em bé tự nhiên đổi ý, khai sự thật, hay cô ta đã được sự tĩnh lặng của Hakuin chuyển hóa?

Tĩnh lặng có sức mạnh hay không?

Tĩnh lặng có lời nói hay không?

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Is That So?

The Zen master Hakuin was praised by his neighbors as one living a pure life.

Cối Xay và Kiến - tranh của thiền sư Hakuin

A beautiful Japanese girl whose parents owned a food store lived near him. Suddenly, without any warning, her parents discovered she was with child.

This made her parents very angry. She would not confess who the man was, but after much harassment at last named Hakuin.

In great anger the parents went to the master. “Is that so?” was all he would say.

After the child was born it was brought to Hakuin. By this time he had lost his reputation, which did not trouble him, but he took very good care of the child. He obtained milk from his neighbors and everything else the little one needed.

A year later the girl-mother could stand it no longer. She told her parents the truth – that the real father of the child was a young man who worked in the fishmarket.

The mother and father of the girl at once went to Hakuin to ask his forgiveness, to apologize at length, and to get the child back again.

Hakuin was willing. In yielding the child, all he said was: “Is that so?”

#3

Nhặt được kim cương giữa lối bùn

Thiền sư Gudo là thầy của Thiên hoàng. Dù vậy, ngài thường đi xa một mình như là một hành khất lang thang. Ngày nọ trên đường đến Edo, trung tâm văn hóa chính trị của Nhật thời đó, Gudo đến gần một làng nhỏ tên Takenada. Trời đã tối và mưa rất lớn. Gudo ướt sũng cả người. Đôi dép rơm của ngài đã rã nát. Đến một căn nhà gần làng ngài thấy có bốn năm đôi dép trên cửa sổ và quyết định mua vài đôi khô.

Một người đàn bà mang dép ra cho ngài và, thấy ngài ướt sũng, bèn mời ngài về nhà chị trú qua đêm. Gudo nhận lời, cám ơn chị. Ngài vào nhà, tụng một bài kinh trước bàn thờ gia đình. Sau đó ngài được giới thiệu đến mẹ và các con của chị. Thấy cả nhà có vẻ trầm uất, Gudo hỏi có chuyện gì không ổn.

“Chồng con là người mê cờ bạc and say sưa,” chị nói. “Khi anh ấy thắng, anh uống say và trở nên dữ dằn. Khi thua, anh vay tiền của người khác. Đôi khi say quá mức, anh không về nhà luôn. Con làm gì được bây giờ?”

“Tôi sẽ giúp anh ấy,” Gudo nói. “Tôi có tiền đây. Chị mua dùm tôi môt bình rượu lớn và ít đồ ăn. Xong rồi chị có thể đi nghỉ. Tôi sẽ thiền định trước bàn thờ.”

Khi anh chồng về nhà lúc nửa đêm, say mèm, anh rống: ‘Ê, vợ, tôi đây. Có gì cho tôi ăn không?”

“Tôi có chút ít cho anh,” Gudo nói. “Tôi bị kẹt mưa và vợ anh rất tử tế, hỏi tôi ở lại đây qua đêm. Để trả ơn tôi đã mua một ít rượu và cá, vậy anh ăn luôn một thể.”

Anh chồng vui vẻ. Uống một hơi hết hủ rượu và nằm lăn xuống sàn. Gudo ngồi thiền cạnh anh ta.

Đến sáng anh chồng thức dậy và quên mất mọi sự đêm hôm trước. “Ông là ai? Ông tới từ đâu?” anh ta hỏi Gudo, người vẫn đang ngồi thiền.

“Tôi là Gudo ở Kyoto và tôi đang trên đường đi Edo,” thiền sư trả lời.

Anh chồng thấy rất xấu hổ. Anh lính qu‎‎ýnh xin lỗi vị thầy của Thiên hoàng.

Gudo mỉm cười. “Mọi sự trên đời đều vô thường,” ngài giải thích. “Cuộc đời rất ngắn. Nếu anh cứ tiếp tục đánh bạc và say sưa, anh sẽ chẳng còn tí thời gian nào để làm được việcgì khác, và anh sẽ làm gia đình anh đau khổ nữa.”

Đầu óc của người chồng bỗng thức tỉnh như từ trong một giấc mơ. “Thầy nói rất phải,” anh nói. “Làm sao con có thể trả ơn thầy cho những lời dạy vi diệu này! Để con tiễn thầy đi một đoạn và mang đồ cho thầy.”

“Được, nếu anh muốn vậy,” Gudo đồng ý ‎.

Hai người ra đi. Được ba dặm, Gudo bảo anh chồng đi về. “Thêm năm dặm nữa thôi,” anh kèo nài. Họ đi tiếp.

“Anh về được rồi,” Gudo đề nghị.

“Mười dặm nữa,” anh chồng nói.

“Về đi,” Gudo nói khi đã xong mười dặm.

“Con sẽ theo thầy cả đời,” anh chồng tuyên bố.

Các thiền sư Nhật ngày nay đều phát sinh từ dòng của một thiền sư nổi tiếng kế vị Gudo. Đó là thiền sư Mu-nan, người đàn ông không bao giờ quay lại.

Bình:

* Đồ tể buông đao thành Phật. Mỗi người là Phật đang thành. Saul bách hại con Chúa, sau lại trở thành Thánh Paul, cột trụ chính của giáo hội Thiên chúa giáo.

Tôn kính mọi người, như Bồ tát Thường Bất Khinh đã làm. Đừng bao giờ có thành kiến, kỳ thị, và coi thường ai.

* Không có nơi nào là không thể có Phật. Đừng coi thường các vũng bùn thế gian.

* Gudo chỉ tính bảo anh say đừng say nữa, nhưng anh say tỉnh ngộ sâu thẳm đến mức theo tu vĩnh viễn và thành đại thiền sư. Có nghĩa là Gudo không khai sáng cho anh say, mà chính anh say khai sáng mình; Gudo chỉ tạo một tí cơ hội mà thôi.

Tâm của mỗi chúng ta đã sáng từ nguyên thủy, đang bị lu mờ, chỉ cần một tí cơ hội vào đúng lúc là tâm có thể tự tỏa sáng trở lại.

* Nếu các lời Gudo nói mà chỉ đọc trên Internet, hay do người khác nói, thì chưa chắc đã có ảnh hưởng sâu đậm trên anh say đến thế. Sự hiện diện của Gudo, cái từ tốn tĩnh lặng an lạc và nguồn năng lượng toát ra từ người Gudo nhất định là có ảnh hưởng rất lớn trên anh say. Mỗi người chúng ta có một “dáng vẻ”, một bóng dáng nội tâm toát ra bên ngoài như thế.

* Việc anh say Mu-nan gặp đại thiền sư Gudo có phải là duyên kỳ ngộ không? Ta có nên suy gẫm một tí về hai chữ “nhân duyên” không?

* Bạn đã có bao giờ nghe “tiếng gọi” nào mãnh liệt trong lòng bạn như tiếng gọi anh say đi theo Gudo không? Bạn trả lời tiếng gọi đó thế nào?

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Finding a Diamond on a Muddy Road

Gudo was the emperor’s teacher of his time. Nevertheless, he used to travel alone as a wandering mendicant. Once when he was on his was to Edo, the cultural and political center of the shogunate, he approached a little village named Takenaka. It was evening and a heavy rain was falling. Gudo was thoroughly wet. His straw sandals were in pieces. At a farmhouse near the village he noticed four or five pairs of sandals in the window and decided to buy some dry ones.

The woman who offered him the sandals, seeing how wet he was, invited him in to remain for the night at her home. Gudo accepted, thanking her. He entered and recited a sutra before the family shrine. He then was introduced to the woman’s mother, and to her children. Observing that the entire family was depressed, Gudo asked what was wrong.

“My husband is a gambler and a drunkard,” the housewife told him. “When he happens to win he drinks and becomes abusive. When he loses he borrows money from others. Sometimes when he becomes thoroughly drunk he does not come home at all. What can I do?”

“I will help him,” said Gudo. “Here is some money. Get me a gallon of fine wine and something good to eat. Then you may retire. I will meditate before the shrine.”

When the man of the house returned about midnight, quite drunk, he bellowed: “Hey, wife, I am home. Have you something for me to eat?”

“I have something for you,” said Gudo. “I happened to get caught in the rain and your wife kindly asked me to remain here for the night. In return I have bought some wine and fish, so you might as well have them.”

The man was delighted. He drank the wine at once and laid himself down on the floor. Gudo sat in meditation beside him.

In the morning when the husband awoke he had forgotten about the previous night. “Who are you? Where do you come from?” he asked Gudo, who still was meditating.

“I am Gudo of Kyoto and I am going on to Edo,” replied the Zen master.

The man was utterly ashamed. He apologized profusely to the teacher of his emperor.

Gudo smiled. “Everything in this life is impermanent,” he explained. “Life is very brief. If you keep on gambling and drinking, you will have no time left to accomplish anything else, and you will cause your family to suffer too.”

The perception of the husband awoke as if from a dream. “You are right,” he declared. “How can I ever repay you for this wonderful teaching! Let me see you off and carry your things a little way.”

“If you wish,” assented Gudo.

The two started out. After they had gone three miles Gudo told him to return. “Just another five miles,” he begged Gudo. They continued on.

“You may return now,” suggested Gudo.

“After another ten miles,” the man replied.

“Return now,” said Gudo, when the ten miles had been passed.

“I am going to follow you all the rest of my life,” declared the man.

Modern Zen teachers in Japan spring from the lineage of a famous master who was the successor of Gudo. His name was Mu-nan, the man who never turned back.

#2

Tách trà

Nan-in, một thiền sư thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), tiếp một giáo sư đại học đến để hỏi về Thiền.

Nan-in rót trà. Thiền sư rót đầy tách của giáo sư, và cứ tiếp tục rót.

Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Tràn ra ngoài rồi, không thêm được nữa!”

“Như là tách trà này,” Nan-in nói, “ông đầy ý kiến và phỏng đoán. Làm sao tôi có thể chỉ Thiền cho ông nếu ông không đổ sạch tách của ông trước?”

Bình

Câu chuyện này không nhất thiết chỉ đúng cho học Thiền. Muốn tìm hiểu bất kỳ điều gì ờ đời–một tôn giáo, một người, một nhóm người, một nền văn hóa, một dân tộc, một lịch sử, một vụ kiện, v.v… chúng ta phải đổ sạch tách thành kiến, giả định, phỏng đoán và kết luận trong đầu–một cái tách trống rỗng, một tờ giấy trắng tinh–thì chúng ta mới có thể học hỏi được.

Bạn đang bắt đầu vào cuộc hành trình qua 101 Truyện Thiền để tìm hiểu Thiền là gì. Đây là truyện đầu tiên. Bạn cần đổ sạch tách của bạn, để bước vào và đi qua cuộc hành trình này.

Bạn đã nghe, đọc, biết và hiểu gì về Thiền trước kia? Xin bạn đổ sạch. Để tâm và trí trống rỗng cho cuộc hành trình.

Tâm rỗng lặng, nhớ nhé.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

A Cup of Tea

Nan-in, a Japanese master during the Meiji era (1868-1912), received a university professor who came to inquire about Zen.

Nan-in served tea. He poured his visitor’s cup full, and then kept on pouring.

The professor watched the overflow until he no longer could restrain himself. “It is overfull. No more will go in!”

“Like this cup,” Nan-in said, “you are full of your own opinions and speculations. How can I show you Zen unless you first empty your cup?”

#1

Không có gì là rác cả

Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc.

Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất:

– Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.

Soko trả lời:

– Con xin hết lòng tin tưởng

Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:

– Theo ta.

Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh:

– Quét dọn vườn.

Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình.

Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét… quét… và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi:

– Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?

Bất ngờ, đại sư quát lên:

– Rác ! người nói gì? Không có gì là rác cả !

Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo:

– Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây.

Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo:

– Mở rộng miệng bao ra.

Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:

– Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm.

Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ:

– Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu?

Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai:

– Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào những chỗ đó.

Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa.

Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đât, từ tốn trám vào.

Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.

(There is no trash by Soko Morinaga)

Ẩn Danh

Thân như điện ảnh

Chào các bạn

Lý Thái Tổ

Hôm  nay chúng ta bàn đến một bài thiền thi của thiền sư Vạn Hạnh, dạy học trò, đã đăng trước đây trong PPS Thiền Thi (Lý Trần)Thiền sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, sinh vào khoảng năm 932, người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là làng Đại Đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh).  Ngài xuất giá ở chùa Lục Tổ, là học trò của Thiền Ông.  Ngài thuộc thế hệ thứ 7 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi của chùa Pháp Vân.

Thiền Sư Vạn Hạnh đã từng giúp vua Lê Đại Hành trị quốc, nhưng khi thấy vua Lê Long Đĩnh không còn là minh quân, thiền sư Vạn Hạnh đã cùng với Đào Cam Mộc sắp xếp việc triều chính và đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua hiệu Lý Thái Tổ năm 1009.

Vào ngày rằm, tháng 5, năm Ất sửu, Thuận Thiên 16 (1025), ở chùa Lục Tổ, trước lúc qua đời, thiền sư đã gọi học trò đến dặn dò trong bài Thị đệ tử sau:

Thị đệ tử

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

    Quốc sư Vạn Hạnh
    (Nguyễn Vạn Hạnh ?-1018)

Việt dịch:

Dạy học trò

Thân như điện chớp, có thành không
Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong
Suy thịnh vào tay, lòng không sợ
Thịnh suy như sương bám cỏ đồng

    TĐH dịch

Thân như điện chớp có thành không

Thời xưa người ta gọi ánh chớp trên trời là điện.  Thân ta như điện chớp tức là có đó và biến mất ngay, có thành không.  Tức là  nói đến cái phù du tạm bợ của thân này.

“Có thành không” trong bản chữ Hán là “hữu hoàn vô”, tức là “có trở về không.”   Trở về, như vậy có nghĩa là, trước là không, sau mới thành có, sau đó lại trở về không.

Tức là, “không” đây chẳng có nghĩa là “không có” theo nghĩa triệt tiêu, zero.  “Không” đây là tên của bản tính nguyên thủy, bản tính đầu tiên, của tất cả mọi thứ trong vũ trụ.   Vì vậy, ta nên viết hoa cho dễ hiểu–Không

Người ta hay dùng hình ảnh “nước và sóng” để diễn tả “Không và có”.   Nước là bản tính nguyên thủy, sóng là hiện tượng bề mặt.  Nước thì luôn ở đó, nhưng mỗi con sóng thì chỉ hiện ra vài mươi giây là biến mất.  Sóng tan lại “trở về” nước.  Thân ta tan biến, lại trở về Không.

Như vậy khi chết đi, cái thân như ánh chớp này lại trở về bản tính nguyên thủy của mình là “Không”.  Chết chẳng phải là hết, mà là trở về bản tính nguyên thủy—Không.

Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong

Có sinh thì có tử.  “Thành, Trụ, Hoại, Không” là bốn thời kỳ sống của vạn vật—sinh ra, đứng vững, hư hại, tan biến.   

Cây cỏ mùa xuân nẩy sinh mầm sống, hạ là thời sống mạnh, thu là vào giai đoạn héo úa,  đông là chết.

Con người có sinh thì có tử, cũng là lẽ tự nhiên.  Tử có nghĩa là thân này tan biến đi để trở về Không.

Vậy thì việc gì mà sợ chết?  Việc gì mà các đệ tử phải sợ, phải buồn việc thầy chết?

Suy thịnh vào tay, lòng không sợ. Thịnh suy như sương bám cỏ đồng. 

Khi xuống khi lên, khi thắng khi thua, khi thành khi bại, khi suy khi thịnh, cũng là lẽ tự nhiên.  Cả một đời người cũng chỉ là một ánh chớp, thì bao nhiêu suy thịnh lên xuống trong đời đó còn nhỏ và nhanh hơn cả một ánh chớp.  Mong manh phù du như giọt sương trên đầu cỏ, sẽ tan biến ngay dưới những ánh mặt trời đầu tiên.   Có gì mà phải quan trọng hóa chúng?  Có gì mà phải sợ?

Sống chết cũng chỉ là một tí lên xuống suy thịnh, như sóng lên sóng xuống, của vòng luân lưu “có hoàn Không, Không sinh có”, mà thôi.  Có gì mà phải sợ?


Chúng ta cần ghi chú thêm ở đây rằng, “không sợ” là một đức hạnh rất quan trọng trong đường tu Phật.  Người Giác Ngộ  có tâm tĩnh lặng, không sợ, không có bất kỳ nỗi sợ nào gây sóng gió trong tâm.

Trong 6 đường tu của Bồ tát (lục độ ba-la-mật), đường đầu tiên là bố thí—bố thí tiền (tài thí), bố thí Phật pháp (pháp thí), và bố thí tính không-sợ (vô úy thí).  Trong ba loại bố thí này, thì bố thí cao quí nhất là “vô úy thí”, tức là “bố thí tính không-sợ,” là  mang cho người ta sự can đảm và đức bình tĩnh.

Tóm lại, bài thơ này, nhắn nhủ đệ tử trước khi chết, rằng sống chết là lẽ tự nhiên.  Thân này cũng chỉ phù du như ánh chớp.   Đang có và sẽ trở về Không.  Cũng chỉ là  thịnh suy của sóng lên sóng xuống, sóng sinh và sóng tan, trên mặt biển.  Chẳng có gì phải lo sợ.

Binh thản đối diện cái chết.
Bình thản đối diện thịnh suy thắng bại ở đời.
Bình thản đối diện cuộc đời.

Không sợ.
Không sợ thắng bại,  thịnh suy, được mất, sống chết.

Tâm tĩnh lặng.

Chúc các bạn một ngày vui,

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Cư trần lạc đạo

Chào các bạn,

Trần Nhân Tông (1258-1308) là vua Đại Việt thứ ba của nhà Trần. Trước đó là Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông.

Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, lên núi Yên Tử tu thiền, và tập hợp ba dòng thiền tại Việt Nam lúc đó là dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), dòng Vô Ngôn Thông, và dòng Thảo Đường, thành Thiền phái Trúc Lâm, còn tồn tại cho đến ngày nay với Trúc Lâm Thiền Viện ở Đà Lạt do thiền sư Thích Thanh Từ chủ trì.

Hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu một bài thiền thi ngắn nhưng rất sâu sắc của vua Trần Nhân Tông, là bài Cư trần lạc đạo, vừa đăng gần đây trong slideshow Thiền Thi.

Cư trần lạc đạo

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu báo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

    Trần Nhân Tông
    (Trần Khâm 1258-1308)


Sống đời vui đạo

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Đói thì ăn no mệt ngủ liền
Trong nhà có của, đừng tìm nữa
Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền

    TĐH dịch

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên. Sống đời vui đạo. Không phải là “trốn đời vui đạo” theo kiểu “Lan và Điệp” như mọi người thường lầm tưởng. Đời và đạo là sống và vui.

“Đời đạo là sống vui. Đạo đời là vui sống.”

Có “sống đời” thì mới “vui đạo” được. Vì đời là đạo và đạo là đời. Ngoài đời không có đạo, ngoài đạo không có đời. Như thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác nói trong Chứng Đạo Ca :

Vô minh thực tính tức phật tính
Huyễn hóa không thân tức pháp thân

Giải thích:

Bản tính thực của vô minh (si mê) chính là tính phật
“Thân không thực” huyền ảo này chính là thân (thực) của tất cả mọi thứ

Đây cũng chính là “sắc bất dị không, không bất dị sắc” (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc) của Bát Nhã Tâm Kinh.

• Muốn “sống đời vui đạo” thì phải “tùy duyên” Chữ “duyên” là chữ bao gồm toàn bộ tư tưởng Phật học.

“Duyên” là nhân quả. Những gì xảy ra bây giờ là kết quả của tất cả mọi nguyên nhân (mọi nhân duyên) trước đó—một tích tắc trước cũng như vô lượng kiếp trước—và là nguyên nhân của những gì sau đó—một tích tắc sau cũng như vô lượng kiếp sau.

(Chỉ cần hiểu hết được lý‎ lẽ của chữ duyên—thập nhị nhân duyên, mười hai bước nhân duyên của cuộc đời—là đã có thể giác ngộ thành Bích Chi Phật)

“Tùy duyên” là “theo duyên”. Nghĩa là chuyện gì xảy đến cũng có l‎ý do của nó, cứ thuận theo đó mà sống–không cần phải chống lại nó, không cần phải phàn nàn về nó, không cần phải lo âu về nó, không cần phải stress về nó, như là:

Đói thì ăn no, mệt ngủ liền.

Chẳng ai phàn nàn tại sao đói. Chẳng ai thắc mắc tại sao mệt. Chẳng ai đau khổ mỗi khi đói bụng hay buồn ngủ.

Vậy thì, bệnh thì tìm thuốc chữa, cần tiền thì đi làm kiếm tiền, cần thi đậu thì học, cần hết stress thì giải stress…

Việc gì phải làm thì làm, chẳng lý do gì phải stress, phải phàn nàn, phải trách móc, phải giận dữ, phải đau khổ, phải than thân trách phận, phải tiêu cực.

Trong nhà có của, đừng tìm nữa.

Cái gì là báu vật vậy? USD? Hột xoàn mười mấy cara?

Không. Báu vật đó là cái tất cả mọi người trong thiên hạ đi tìm: Hạnh phúc.

Hạnh phúc: Nhà Phật gọi là Niết Bàn—hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn an lạc, thành người tĩnh thức, thành Phật.

Nhưng Niết Bàn không nằm ngoài ta—Niết Bàn đã có sẵn trong tâm ta. Phật cũng không nằm ngoài ta, Phật đã nằm sẵn trong tâm. Mỗi người chúng ta là Phật đang thành, là Niết Bàn sắp hiện.

Đừng tìm Phật bên ngoài, đừng tìm Niết Bàn bên ngoài. Trong nhà có của, đừng tìm nữa.

Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền.

Nhìn cảnh thì thấy cảnh, đừng “chú giải” thêm vào cảnh đó. Như là nhìn“mưa rơi trên mái hiên” thì thấy “mưa rơi trên mái hiên”, chứ đừng chú giải thêm là “mưa rơi trên mái hiên buồn tênh” hay “mưa rơi trên mái hiên như những bước nhảy nhót của người yêu.”

Phụ chú tình cảm chủ quan vào “cảnh” ta thấy, là có tâm ý.

Chỉ nhìn cảnh, thấy cảnh, nhưng không phụ chú, không tam quốc diễn nghĩa thêm vào, gọi là “không tâm ý”, tức là “vô tâm.”

“Nhìn cảnh vô tâm” tức là nhìn người chửi mình mà không nổi giận; nhìn bệnh tật đến với mình mà không sợ hãi; nhìn nguy hiểm trước mắt mà không kinh khiếp; nhìn đống vàng mà không hoa mắt; nhìn danh vị mà không ham hố; nhìn quyền lực mà không say mê; nhìn túi quần không một xu teng mà không mặc cảm; nhìn thân thể tật nguyền mà không tủi thân, nhìn thế lực địa vị trong tay mà không kiêu mạn…

Điều gì đến thì đến, điều gì phải làm thì làm. Đến thì đến, nhìn thì nhìn, làm thì làm, nhưng tâm luôn bình lặng, luôn thoải mái, luôn an lạc.

Đó là vô tâm.

Và đó là Hạnh phúc, là Niết Bàn, là Phật tính.

Đối cảnh vô tâm. Nhìn cuộc đời với con tim hoàn toàn tĩnh lặng.

Như thế thì không còn tham lan, sân hận, si mê, kiêu mạn, sợ hãi, làm cho tâm bị mù lòa nữa.

Lúc đó tự nhiên ta thấy được của báu đã có sẵn trong nhà—cái tâm tĩnh lặng của mình, Phật tính của mình, Niết Bàn của mình.

“Đối cảnh vô tâm” là Phật, là Niết Bàn, là an lạc, là Hạnh phúc.

Thế thì đâu cần phải hỏi chi đến thiền, hay tu, hay pháp?

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Thực hành từ tâm

compassion

    Yêu láng giềng như yêu chính mình

      Jesus of Nazareth

    Tâm từ khi được khéo tu,
    Làm cho trói buộc bị mau yếu dần.
    Không còn dấu vết tham sân,
    Niết bàn hiển lộ thênh thang giữa đời.

      Kinh Từ Tâm

Chào các bạn,

Từ tâm, từ bi, lòng từ, bác ái, nhân ái… tất cả đều nói đến yêu người. Chúng ta đều thấy, mọi vị thầy lớn của thế giới, dù dùng ngôn ngữ nào, loại l‎ý luận nào, ở vùng địa lý nào, vào thời khoảng nào… đều đặt trọng tâm thuyết giảng của mình vào một điểm—yêu người.

Và đương nhiên khỏi cần thầy nào dạy, chúng ta cũng biết là thế giới này sẽ thành thiên đàng nếu mọi người yêu nhau. Tình yêu là cái nền của vũ trụ, trên đó mọi sự, mọi thứ, và mọi người, đứng vững, cùng với nhau. Thiếu tình yêu, tất cả đều rời rã và tan biến.

Trong bài này chúng ta sẽ lượt qua nền tảng l‎ý thuyết căn bản của “yêu người” của ba trường phái—Thiên chúa giáo, Phật giáo, và chủ nghĩa lợi ích (không tôn giáo). Sau đó chúng ta sẽ nói đến cách thực hành “lòng từ” của Đại Sư Phật Âm, là một phương cách rất khoa học, mọi trường phái để có thể dùng được.

I. Căn Bản của Yêu Người

1. Yêu người trong Thiên chúa giáo:

Mother Mary
Chúa Giêsu nói: “Yêu Chúa, Thượng đế của bạn, với cả trái tim, cả linh hồn, cả khối óc của bạn. Đây là điều răn đầu và quan trọng nhất. Và điều răn thứ hai như thế này: Yêu láng giềng của bạn như yêu chính bạn.” Matthews 22:37-38.

Câu nói đó được gọi là Luật Vàng (The Golden Rule). Người Thiên chúa giáo yêu người vì Chúa bảo thế. Đây là luật từ trời. Thực ra luật này đã có tối thiểu là từ thời Moses, trước Chúa Giêsu khoảng 1500 năm. Leviticus 19:18. Giêsu chỉ lập lại một cách rất ngắn gọn mà thôi.

Và Luật Vàng có hai vế: Vế đầu là yêu chúa. Vế sau mới là yêu người. Yêu người vì yêu chúa, và vì chúa bảo “yêu người.”

Ở đây, lòng tin vào chúa rất quan trọng. Nếu không tin chúa (vế đầu), thì chẳng lý do gì phải nghe lệnh chúa “yêu người” (ở vế sau).

Và Luật Vàng dạy yêu người—chứ không nói thêm là người tốt hay xấu, có học hay không có học, du côn hay tử tế, thiện hay ác, thân hay sơ, bạn hay thù… “Yêu người” ở đây là yêu tất cả mọi người, kể cả người xấu, người tội lỗi, người ức hiếp, kẻ thù ta… Cho nên, tình yêu trong Thiên chúa giáo gọi là “Tình yêu vô điều kiện” (unconditional love).

2. Yêu người trong Phật giáo
kwanyin
Nền tảng triết lý‎ sâu thẳm nhất của “yêu người” trong tư tưởng Phật giáo là câu này: “ Tất cả pháp là không .” Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Vô Tận Tạng .

Tất cả mọi thứ, mọi người, mọi vật (tức là “tất cả pháp”) đều là Một, và cái Một đó không thể diễn tã được bằng từ nào cho đúng, nên gọi là “không”. “Không” đây không có nghĩa là “không có”.

Vì tất cả đều là một, như tất cả ngọn sóng đều là một đại dương, nên người và ta là một. Người là ta và ta là người. Yêu nhau là chuyện đương nhiên. Yêu người cũng là yêu mình thôi.

Ở một mức suy tư thấp hơn, có tính cách thực hành, Kinh Từ Tâm nói ta yêu người vì:

Tâm từ khi được khéo tu,
Làm cho trói buộc bị mau yếu dần.
Không còn dấu vết tham sân,
Niết bàn hiển lộ thênh thang giữa đời.

Tức là yêu người làm tim ta có thể thoát mọi rằng buộc tối tăm–như tham lam, sân hận, si mê–và có được con tim tĩnh lặng để đến được Niết Bàn—Nirvana, Hoàn Toàn Tĩnh Lặng.

Kinh Từ Tâm cũng nói rất rõ là yêu người là yêu tất cả chúng sinh, không phân biệt gần xa tốt xấu, như là Tình yêu vô điều kiện trong Thiên chúa giáo.

Thế Tôn thuyết giảng những lời,
Liên quan tu tập nên người từ tâm,
Là người rất đỗi ân cần,
Thương yêu trải khắp kẻ gần người xa.
Tấm lòng nhân ái bao la,
Thật là thuần khiết, thật là cao thâm.
Hướng về tất cả chúng sinh,
Người từ tâm trọn quên mình mà thương.

    Kinh Từ Tâm

3. Yêu người trong chủ nghĩa lợi ích (utilitarianism)
compassion2
Những người không tin vào truyền thống tâm linh nào, thì suy nghĩ theo chủ nghĩa lợi ích để xây dựng căn bản cho “yêu người”. Hệ thống đạo đức của chủ nghĩa lợi ích đặt trên căn bản rằng: “Mục đích của đạo đức là tạo nên một thế giới tốt hơn.”

Và “đạo đức là để tạo ra hậu quả tốt, chứ không cần biết đến ‎ý định tốt.” Điều này rất khác với các truyền thống tâm linh, trong đó tâm ý (intention) của ta có một vai trò rất lớn (dù là không có tính cách quyết định) trong việc xét đoán một hành động là thiện hay ác, tốt hay xấu.

Kim chỉ nam cho tư duy và hành động của người theo chủ nghĩa lợi ích là “Ta nên làm bất kỳ điều gì có lợi nhất cho con người, tức làm cho thế giới sung sướng hơn, hạnh phúc hơn, lý tưởng hơn, bình đẳng hơn, v.v….”

Với kim chỉ nam như thế này, yêu người đương nhiên là có giá trị khi nó làm cho mọi người cùng vui vẻ hòa đồng cho thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng khi phải giết người để thế giới tốt đẹp hơn thì cũng nên làm, và gạt bỏ tình yêu cá nhân sang một bên.

Như vậy ta thấy, trong các truyền thống tâm linh, tình yêu con người vô điều kiện–của mỗi cá nhân đến mỗi cá nhân khác trong xã hội–là chỉ đạo cho đời sống cá nhân và xã hội. Tình yêu và cảm xúc tình yêu là kim chỉ nam cho mọi sinh hoạt cá nhân và xã hội.

Nhưng trong chủ nghĩa lợi ích thì yêu người chỉ là một trong những con số trong con toán. Nếu yêu người mà được việc cho thế giới thì yêu, nếu người làm phiền thế giới thì đánh người. Đây cũng là căn bản suy tư cho nhiều cuộc cách mạng xã hội đẩm máu ta đã thấy trong thế kỷ 20 (và vẫn còn xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới, dù là dưới hình thức chiến tranh tôn giáo “lệch lạc” ngày nay).

Điều này không có nghĩa là các truyền thống tâm linh không sống chung được với chủ nghĩa lợi ích. Trong đa số vấn đề ở đời, chủ nghĩa lợi ích và các truyền thống tâm linh sẽ có cùng đáp số. Tuy nhiên thỉnh thoảng sẽ có những vấn đề mà kết quả sẽ khác nhau lớn, tùy theo ta chú trọng đến tình yêu hay lợi ích. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này trong đời sống cá nhân, và cũng thấy lịch sử cận đại thế giới đã xảy ra những chuyện gì.

II. Thực Hành Yêu Người
compassion3
Khi yêu ai, tự khắc ta biết phải làm gì. Vì vậy, các trường phái tâm linh chú trọng vào dạy ta có con tim yêu ái, hơn là chú tâm vào dạy qui tắc hành động. Nói chung thì mọi chúng ta đều biết yêu người như thế nào: Nói năng vui vẻ, mỉm cười, đừng trộm của người, đừng ức hiếp người, nghĩ tốt về người và không nên nghĩ xấu về người, thấy cái xấu của người thì biết nhưng không dùng nó để ghét, tha thứ, kẻ thù khi ngã ngựa thì cũng cứu giúp, v.v… Khi yêu tự khắc ta biết phải hành động thế nào.

Tuy nhiên vài trăm năm trước, Đại sư Phật Âm (Bhadantacariya Buddhaghosa), viết quyển cẩm nang quan trọng nhất trong Phật giáo Nguyên Thủy, Visuddhimagga, mà Tỳ kheo Nanamoli đã dịch từ tiếng Pali sang Anh ngữ là The Path of Purification (Con Đường Thanh Tịnh), có chỉ rõ phương cách luyện tập từ tâm, mọi người đều có thể dùng, dù mình nằm trong trường phái nào. Tóm gọn như sau:

Chúng ta thực tập lòng từ (yêu người) từng bước một, bằng cách chia mọi người thành 4 nhóm: Chính ta, người ta rất yêu mến, người ta không thương không ghét, người ta ghét hay thù.

Và thực hành qua 3 (hoặc 4) bước chính như sau:

1. Trước hết ta “khởi lòng từ”: bằng cách hướng lòng từ về chính mình—tôi mong hạnh phúc và không đau khổ; tôi mong không có thù hận, không đau đớn, không lo lắng, và sống hạnh phúc.

2. Sau đó ta “hướng lòng từ”: bằng cách nhớ lại những gì làm ta tăng thêm thương mến (như các món quà hay lời nói dịu dàng), những gì làm ta tăng kính trọng (như đạo đức hay trí tuệ), mà ta đã thấy trong một người nào đó, ví dụ như một vị thầy giáo của ta. Rồi ta hướng lòng từ của ta về người đó: “Tôi mong thầy được hạnh phúc và không đau khổ.” Cứ định tâm như vậy cho đến khi ta cảm thấy đầy ắp lòng từ trong tâm ta.

3. Sau đó ta từ từ “phá bỏ rào cản” giữa các nhóm người. Từ vị thầy giáo, ta hướng lòng từ về một người bạn rất thân, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.

Xong rồi ta lại hướng lòng từ về một người không thương không ghét, cứ như là bạn thân của mình, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.

Xong rồi ta lại hướng lòng từ về một người ta thù, cứ như người ta không thương không ghét, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.
compassion4
4. Tuy nhiên, khi đến “kẻ thù” có thể ta gặp khó khăn, vì đôi khi lòng ta có quá nhiều sân hận làm ta không thể có lòng từ với người này được. Đại sư Phật Âm dạy ta phải biết cách Dập Tắt Sân Hận để lòng từ có thể nẩy nở, theo phương pháp sau:

• Khi bị sân hận cản trở, thì hãy nhớ lời Phật dạy:

“Tỳ kheo, nếu có kẻ cướp dùng cái cưa cưa tay cưa chân ngươi, ai mà mang thù hận trong lòng vì điều đó, người đó không mang giáo pháp của ta.”

“Lấy sân hận trả sân hận thì còn tệ hơn là nổi sân hận trước. Đừng dùng sân hận trả sân hận. Hãy thắng cuộc chiến khó thắng.”

Đức Phật nói có 7 điều làm cho kẻ thù của ta rất thỏa mãn và lợi lộc. Kẻ thù ta muốn ta (1) xấu xí, (2) đau khổ, (3) thiếu may mắn, (4) nghèo khổ, (5) không danh tiếng, (6) không bạn bè, (7) không đến được cõi trời hạnh phúc sau khi chết. Khi mà ta sân hận thì kẻ thù của ta sẽ được cả 7 điều ước này.

• Nếu vẫn còn thấy sân hận, thì hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp trong tác phong của người mình đang giận. Người này có thể có vài tác phong đáng ghét, nhưng cũng có vài tác phong cao đẹp. Hãy nghĩ đến những tác phong cao đẹp của họ.

• Nếu vẫn còn thấy giận, thì hãy nhớ (1) nếu kẻ thù bạn đã dùng quyền năng của hắn để làm cho bạn giận, tại sao bây giờ bạn lại cố hành cái đầu của mình, trong khi hắn không còn quyền năng đó nữa. (2) Người ta làm bậy, cho nên bạn giận, tại sao vậy? Chẳng lẽ bạn cũng muốn bắt chước làm bậy hay sao? (3) Có người làm bậy để chọc giận bạn, chẳng lẽ bạn muốn nổi giận đúng ý họ muốn hay sao? (4) Bạn nổi giận thì không chắc là bạn có làm cho kẻ thù đau đớn được không, nhưng chắc chắn là bạn bị đau đớn vì cơn giận đó. (5) Kẻ thù của bạn bị cơn giận làm mù quáng, chẳng lẽ bạn cũng muốn mù theo hay sao? (6) Nếu vì bạn giận dữ mà kẻ thù bạn làm bạn đau đớn, thì hãy bỏ cơn giận đi. Tại sao bạn phải đau khổ không lý do? (8) Những cơn phẫn nộ thường chỉ kéo dài trong giây phút, những ngông cuồng gây ra những hành động tai ác đã qua hết rồi, vậy thì bạn giận cái gì đây? (9) Khi ta muốn gây khổ đau cho một người vắng mặt, thì ta làm ai đau? Bạn đang có mặt và bạn làm chính bạn đau, tại sao bạn nổi giận với người vắng mặt đó?
compassion5
• Nếu buồn giận vẫn chưa hết, thì hãy nhớ rằng mỗi người là sở hữu chủ của hành động của mình. Việc gì tôi phải nổi giận với anh ta? Anh ta làm bậy thì anh ta sẽ nặng nghiệp tội. Tại sao tôi phải nổi giận, để rồi tôi phải mang nghiệp tội?

• Nhưng sau đó nếu vẫn còn buồn giận thì hãy nghĩ đến những lợi lộc mà lòng từ mang lại. Khi ta thành tâm thực tập lòng từ như là nền tảng của đời sống, ta sẽ được nhiều lợi lộc: (1) Thoải mái khi ngủ, (2) thoải mái khi thức, (3) không có ác mộng, (4) được mọi người thương mến, (5) được loài vật thương mến, (6) thánh thần phò hộ, (7) tập trung tư tưởng dễ dàng, (9) mặt nhìn lúc nào cũng thanh tịnh, (10) khi chết không hoảng loạn.

• Nhưng nếu làm vậy mà vẫn còn hờn giận, thì hãy nghĩ đến những thành tố làm nên một con người. Anh ta cũng chỉ là Không, cũng sẽ vào hư vô. Tôi giận cái gì đây? Tôi giận ai đây?

• Nhưng nếu đến lúc này mà vẫn không hết giận, thì hãy dùng quà tặng, hoặc là ta tặng quà cho người ta đang giận, hoặc là nhận quà tặng của người ấy.

• Khi cơn giận đã bắt đầu nguôi, ta phải hướng lòng từ về người này, cứ như là chính ta, là người thân của ta, người ta không thương không ghét, người ta có thù hận. Và ta phải lập đi lập lại thực tập lòng từ, phá bỏ rào cản, cho đến lúc trong tâm ta bốn nhóm người đều bình đẳng như nhau: ta, người thân của ta, người không thương không ghét, người có thù hận.

Và, các bạn, dĩ nhiên là môn thực hành nào cũng đòi hỏi nhiều năm tháng để thuần thục. Điều quan trọng là, cũng như học đàn, học vẽ hay học võ, luyện tập thường xuyên hàng ngày là cách duy nhất để giỏi. Và nếu thỉnh thoảng có đánh đàn sai nốt thì cũng nhớ rằng bao nhiêu nghìn học trò khác, bao nhiêu nghìn vị thầy thượng đẳng của thế giới, cũng lâu lâu bị sai nốt như bạn vậy. 🙂

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Yêu mình, Yêu người, Yêu người, tin người, Người và Tôi

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com