Chúa nhật này,12.4.2009, là lễ Phục Sinh (Easter), ngày lễ quan trọng nhất trong Thiên Chúa Giáo (Công giáo—Catholicism, Chính thống giáo–Orthodox, và các giáo phái Tin lành—Protestantism).
Dù là người ta không mừng lễ Phục Sinh lớn và vui như Lễ Giáng Sinh (Christmas, 25 tháng 12), trên phương diện thần học, lễ Phục Sinh quan trọng hơn lễ Giáng Sinh, vì Thiên Chúa Giáo được xây dựng nên một điểm cực kỳ quan trọng—Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá và chết, và ba ngày sau người sống lại. Phục sinh là sống lại. Lễ Phục sinh là lễ kỷ niệm sự sống lại của chúa Giêsu. Nếu không có sự sống lại, không có lễ Phục Sinh, không có Thiên Chúa Giáo.
Lễ Phục Sinh không có ngày nhất định trên lịch hàng năm. Nó là ngày chúa nhật thứ nhất từ 14 ngày sau ngày xuân phân, tức là ngày chính thức của mùa xuân ở Âu Mỹ. Xem ra có sự cố tình định ngày lễ Phục Sinh cùng lúc với sự sống lại của mùa xuân.
Trước lễ Phục Sinh 40 ngày là Mùa Chay hay Mùa Thương Khó (Lent), bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro (Ash Wednesday); ngày đó các linh mục (thầy tế lễ) rắc một tí tro trên đầu, hay bôi một tí tro lên trán, giáo dân, như là nhắc nhở đến sự chết—Ta là bụi đất và sẽ trở về cùng bụi đất. Mùa chay là mùa của ăn chay, cầu nguyện, sám hối, bố thí và hãm mình.
Tuần trước Phục Sinh là Tuần Thánh (Holy Week), bắt đầu bằng chúa nhật lễ Lá (Palm Sunday, 5 tháng 4), kỷ niệm ngày chúa Giêsu đi vào thành Jerusalem và được hàng nghìn dân Do thái tiếp đón bằng cách lót lá trên đường chúa đi và phất lá trên tay.
Ngày thứ năm trước Phục Sinh (9 tháng 4), là lễ Vượt Qua (Passover), tức là lễ kỷ niêm ngày dân Do thái được thoát ách nô lệ ở Ai Cập, có lẽ ngày nay là biểu tượng của dân chúa thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi nhờ sự chết của chúa Giêsu.
Ngày thứ sáu (10 tháng 4) là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday), tức là ngày chúa chết.
Và chúa nhật (12 tháng 4) là Phục Sinh.
Sau lễ Phục Sinh 40 ngày là mùa Phục Sinh (Easter Season). Ngày xưa, mùa Phục Sinh chỉ có 40 ngày, từ Phục Sinh đến ngày Lễ Thăng Thiên, tức là ngày chúa Giêsu về trời.
Nhưng ngày nay Mùa Phục Sinh kéo dài 50 ngày, chấm dứt bằng ngày Pentacost (ngày thứ 50), tức là ngày Chúa Thánh Thần (Thánh Linh) đến với các đệ tử của chúa Giêsu. Ngày Pentacost (ngày lễ Chúa Thánh Thần, hay lễ Ngũ Tuần) là ngày chúa nhật 7 tuần sau Phục Sinh (7 X 7 =49, xem như 50).
Ở Âu Mỹ, người ta có truyền thống tô điểm trứng (gà, vịt, v.v..) với nhiều màu sắc sặc sở rất đẹp để trang trí cho lễ Phục Sinh, gọi là trứng Phục sinh (Easter eggs). Trò chơi Easter Egg Hunt (săn tìm trứng Phục sinh) thường được các nhà thờ tổ chức trong ngày Phục Sinh, trong đó người tổ chức đem trứng Phục sinh dấu quanh sân để mọi người săn tìm. Chúng ta có thể nhận thấy trứng là biểu tượng của tái sinh.
Thỏ Phục sinh (Easter Bunny) là thỏ với đủ mầu sắc sặc sở cũng là một biểu tượng của Phục Sinh. Có lẽ vì thỏ nổi tiếng là đẻ nhiều.
Nếu các bạn quá nhức đầu vì đủ thứ ngày nói trên, hãy đánh một giấc ngủ dài, rồi sẽ phục sinh hôm sau 🙂 Biểu tượng của Phục sinh là sự tái sinh thường xuyên trong ta, con người cũ chết đi và con người mới ra đời, ta luôn luôn trưởng thành, đổi mới, hay hơn, và tốt hơn. Đó cũng là sát-na vô thường, thay đổi không ngừng, của nhà Phật.
Sáng nay (10/4), lễ hội Hoa Anh Đào đã khai mạc rất hoành tráng tại Hà Nôi bằng một điệu múa truyền thống của Nhật – Yosakoi, được trình diễn bởi hơn 500 diễn viên không chuyên. Nhân dip lễ hội Hoa Anh Đào, mình cũng muốn giới thiệu với các bạn đôi nét về điệu múa này (bài giới thiệu về Yosakoi mình nhận được sáng nay!)
Yosakoi – là một loại hình nghệ thuật hiện đại đặc trưng của Nhật Bản được khai sinh từ tỉnh Kochi vào năm 1954, xuất phát từ một điệu múa truyền thống về mùa hè của Nhật. ‘Yosakoi’ là phương ngữ của Kochi, nghĩa là ‘Đêm nay mời bạn đến’. Điệu múa này là sự kết hợp giữa các động tác múa truyền thống, nền nhạc hiện đại cùng với dụng cụ múa đặc sắc Naruko tạo nên một Yosakoi rất sôi động và mạnh mẽ. Các điệu múa thường được dàn dựng cho những đội múa đông người. Ai cũng có thể tham gia múa Yosakoi, bất kể tuổi tác hay giới tính. Đây cũng là sự kiện nổi bật trong các kỳ lễ hội ở Nhật. Điệu múa đi kèm với các bài dân ca của Kochi với cái tên Yosakoi-Buchi.
Trang phục mặc khi biểu diễn Yosakoi rất phong phú, trong đó loại áo khoác truyền thống happi và áo yukata phối màu rực rỡ là hai thứ thường được sử dụng nhất. Các đội múa cũng thường tự thiết kế trang phục dựa trên các sự kiện lịch sử, theo xu thế thời trang thịnh hành hay theo y phục dân tộc.
Từ năm 1954, Yosakoi đã phát triển mạnh ở Nhật Bản với lễ hội hàng năm của các đội trên toàn quốc. Không những thế, sức mạnh của điệu múa đã vượt qua ngoài biên giới Nhật Bản và rất được yêu thích trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
Năm qua trong lễ hội hoa anh đào được tổ chức ở Việt Nam, tiết mục diễu hành Yosakoi là 1 trong những tiết mục được đón xem nhiệt tình nhất. Tất cả các đội, khuôn mặt tươi cười cùng với những điệu múa Yosakoi sôi động đã làm nên một ngày hội giao lưu văn hóa tuyệt vời.
Beautiful Dreamer là bản nhạc rất nổi tiếng, do Stephen Foster viết trước khi ông chết năm 1864, lúc 37 tuổi. Stephen Foster viết tổng cộng khoảng 200 bản nhạc và được xem là “cha đẻ của âm nhạc Mỹ quốc”.
Bing Crosby (1903-1977) là một ca sĩ rất nổi tiếng của Mỹ, với rất nhiều tài, kể cả khiêu vũ. Chúng ta có video Bing Crosby hát bài Beautiful Dreamer dưới đây.
Và The Beatles cũng có bản Beautiful Dreamer, chuyển từ nhạc nhẹ nguyên thủy sang nhạc kích động. Chúng ta cũng có 2 video bản này của The Beatles, theo sau video của Bing Crosby. Video 1 có hình ảnh rõ ràng, vì vậy nhiều người thích xem. Video 2 hình rất mờ, nhưng là phim quay The Beatles hát bản Beautiful Dreamer có lẽ khi còn ở Liverpool, lúc chưa ai biết The Beatles là ai.
Chúc các bạn một ngày vui !
Hoành
.
Người nằm mơ rất đẹp
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, hãy thức dậy với anh,
Ánh sao và sương khuya đang đợi chờ em;
Ồn ào thế giới cộc cằn nghe cả ngày,
Đã được ánh trăng ru ngủ, đi mất hết rồi !
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, nữ hoàng của bài nhạc của anh,
Hãy nghe anh theo đuổi em bằng âm điệu dịu dàng;
Những lo lắng của đám đông trong đời đã rời xa.
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, hãy thức dậy với anh !
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, hãy thức dậy với anh !
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, ngoài khơi
Ngư nhân đang hát bài truyện hoang sơ
Trên dòng suối nhỏ hơi nước đã đọng về
Đợi lúc dần tan khi ngày sáng đến.
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, hãy chiếu sáng tim anh,
Như đầu ngày chiếu sáng suối con và biển cả;
Rồi tất cả đoàn mây sầu muộn sẽ lìa xa.
Hỡi người nằm mơ rất đẹp, hãy thức dậy với anh !
Trần Đinh Hoành dịch
.
Beautiful Dreamer
Beautiful dreamer, wake unto me,
Starlight and dewdrops are waiting for thee;
Sounds of the rude world heard in the day,
Lull’d by the moonlight have all pass’d away!
Beautiful dreamer, queen of my song,
List while I woo thee with soft melody;
Gone are the cares of life’s busy throng.
Beautiful dreamer, out on the sea,
Mermaids are chaunting the wild lorelie;
Over the streamlet vapors are borne,
Waiting to fade at the bright coming morn.
Beautiful dreamer, beam on my heart,
E’en as the morn on the streamlet and sea;
Then will all clouds of sorrow depart,
Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ bao trùm khoảng 5.000 năm. Và như một hệ quả tất yếu, nó hết sức phức tạp và phong phú. Nghệ thuật Ấn Độ giàu có như chính các tôn giáo mà nó thể hiện, trong đó múa cổ điển được xem là tinh hoa, là đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn Ấn Độ.
Odissi là một trong bảy điệu múa cổ điển của Ấn Độ (Bharatnatyam, Kathak, Kathakali, Manipuri, Kuchipudi, Mohinyiattam và Odissi). Vũ điệu này có nguồn gốc từ Bang Orissa – phía Đông Ấn độ.
Vũ điệu Odissi được xem là một trong những vũ điệu cổ xưa nhất còn tồn tại (dựa vào các bằng chứng về khảo cổ học). Điệu múa Odissi được đề cập rất nhiều trong những câu chữ khắc trên bia đá, hoặc được chạm trổ trên những công trình điêu khắc ở các đền đài Hindu Brahmeswara, và đền Mặt trời ở Konark.
Theo luận thuyết Natya Sashtra, điệu múa Odissi đã có từ thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên. Odissi hiện nay là kết quả của một quá trình dài, tổng hợp và biên tập lại từ những điệu múa truyền thống của bang Orissa như Mahari, Gotipua và Bhandanritya. (Mahari là vũ nữ đền đài, bản sao của vũ nữ Devadasi ở phía Nam. Gotipua là nam giới trong trang phục nữ và múa giống vũ nữ Mahari. Theo qui định, sau 18 tuổi, những vũ nữ, vũ nam này không được phép vào đền thờ).
Sau thế kỷ thứ 17, vũ điệu Odissi bị sút giảm uy tín đáng kể. Có một dạo, các vũ nữ này bị mọi người khinh rẻ và coi thường. Vì thế, vào thời điểm này, không ai dám theo học múa Odissi. Tuy nhiên, đến năm 1950, vũ điệu Odissi được hồi sinh nhờ vào công của ông Kalicharan Pattanayaka.
Odissi rất giống điệu múa Bharatnatyam nổi tiếng ở Tamil Nadu (miền Nam Ấn Độ), với những động tác múa độc đáo được thể hiện chủ yếu ở hông, chân và nét mặt. Điệu múa biểu cảm với những đường cong của cơ thể, những chuyển động của mắt, các bước nhảy và xoay tròn kèm theo nhiều kiểu di chuyển bàn tay. Điều này tạo cho Odissi một nét khác biệt, độc đáo với những ngôn từ rất riêng.
Vũ điệu Odissi thể hiện một cách đầy đủ truyền thuyết về Thần Krishna – sự hóa thân lần thứ 8 của thần Vishnu (thần bảo hộ trong Ấn độ giáo và Bà La Môn giáo, đã giáng trần nhiều lần để cứu độ). Điệu múa Odissi nhẹ nhàng, trữ tình miêu tả khung cảnh của Orissa và triết lý liên quan đến vị thần được yêu chuộng nhất – thần Jagannath (hình thái khác của thần Krishna).
Do not stand at my grave and weep, là bài thơ của Mary Frye. Năm 2001, tiểu thuyết gia kiêm nhà soạn nhạc người Nhật, Arai Mitsuru, đã dịch sang tiếng Nhật, và phổ nhạc cho bài thơ này. Lúc đầu, ông chỉ phát hành 30 dĩa đơn để tặng cho bạn bè thân quen. Ngày 28/8/2003 bài hát tiếng Nhật này được đăng trên báo Asahi và bắt đầu gây được tiếng vang. Năm 2005, bài hát này được biểu diễn trong buổi hòa nhạc từ thiện, kỷ niệm 10 năm trận động đất thế kỷ ở Hanshin – Osaka. Năm 2006, ca sĩ Akikawa Masafumi xuất bản đĩa đơn bài hát này và gây được sự chú ý đặc biệt trên toàn nước Nhật. Ngày 22/1/2007, bài hát này đứng đầu trong bảng xếp hạng đĩa đơn hay nhất trong lịch sử nhạc cổ điển ở Nhật. Ngay khi giành được vị trí đầu bảng, tuần đầu tiên đã bán được 29,094 đĩa, tuần thứ hai (29/1/2007), 89,994 đĩa và tuần tiếp theo (5/2/2007), 101,532 đĩa.
Sau phần dịch tiếng việt của chị Loan Subaru, là lời nguyên thủy tiếng Anh, và link đến video bài hát do Akikawa Masafumi trình bày.
Mến,
Hoành
. Đừng đứng trước mộ tôi và than khóc
Đừng đứng trước mộ tôi và than khóc;
Tôi không ở đó. Tôi không ngủ.
Tôi là ngàn cơn gió thổi qua.
Tôi là kim cương lấp lánh trên tuyết.
Tôi là nắng ánh trên cánh đồng lúa chín.
Tôi là cơn mưa thu dịu dàng.
Khi bạn thức giấc trong sớm mai tĩnh lặng,
Tôi là nét vút cao rất nhanh
Của bầy chim lặng lẽ lượn vòng
Tôi là ánh sao đêm dịu dàng.
Đừng đứng trước mộ tôi và than khóc;
Tôi không ở đó. Tôi không chết.
Loan Subaru dịch
.
Do not stand at my grave and weep
Do not stand at my grave and weep;
I am not there. I do not sleep.
I am a thousand winds that blow.
I am the diamond glints on snow.
I am the sunlight on ripened grain.
I am the gentle autumn rain.
When you awaken in the morning’s hush
I am the swift uplifting rush
Of quiet birds in circled flight.
I am the soft stars that shine at night.
Do not stand at my grave and cry;
I am not there. I did not die.
Hôm nay, mùng 10 tháng 3 âm lịch là Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, mặc dù nghiều nơi đã mừng Giỗ tổ vài ngày trước đây. Nhiểu nơi trong nước và trên thế giới (tại những thành phố đông người Việt) tổ chức Giỗ tổ, tuy nhiên nơi chính vẫn là Đền Hùng ở Phú Thọ, vì vậy ngày này còn gọi là Lễ hội Đền Hùng.
Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích – xã Hy Cương – huyện Lâm Thao – tỉnh Phú Thọ, cách trung tâm thành phố Việt Trì 7 km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Đền Hùng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia, được xây dựng trên núi Hùng – thuộc đất Phong Châu – vốn là đất kế đô của Nhà nước Văn Lang 4.000 năm trước đây. Toàn bộ Khu di tích có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng hài hoà trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ. Chúng ta có thể đọc thêm chi tiết về Đền Hùng tại đây.
Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, và có một đặc thù riêng là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên – Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới” . “Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)… Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng năm”.
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong. Bàn thờ tổ, Đại sứ quán VN, Washington DC
Tại Đại sứ quán Việt Nam tại Washington DC, USA, có một bàn thờ tổ do sứ quán đặt đặc biệt tại Phú Thọ, do các nghệ nhân chuyên làmcác thiết bị thờ tự trong Đền Hùng. Chở qua Washington DC và ráp lại. Toàn thể bàn thờ rất lớn không dùng một chiếc đinh nào. Kiến trúc và lắp ráp hoàn toàn theo công thức cổ truyền. Sứ quán thường xuyên tổ chức Giỗ tổ, liên hoan Tết cũng như các lễ hội khác thường xuyên trong phòng lớn có bàn thờ tổ.
Đền Itsukushima (tên tiếng Nhật: 厳島神社) là ngôi đền Thần Giáo, nằm trên đảo Itsukushima (Miyajima) ở thành phố Hatsukaichi, tỉnh Hiroshima. Thực ra ở Nhật Bản có tới 500 ngôi đền mang tên Itsukushima, nhưng đền nói trên là ngôi đền chính. Năm 1996, đền này được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Trong đền có nhiều kiến trúc và công trình nghệ thuật được Nhật Bản xếp vào hạng quốc bảo, tài sản văn hóa quan trọng, tài sản vật thể được xếp hạng, v.v…
Đền Itsukushima được xây dựng để thờ phụng ba vị thần biển: thần Ichikishima, thần Tagori và thần Tagitsu, được tin là đang ngự bên trong ngôi chính điện của đền. Ngôi đền đầu tiên được xây dựng vào thế kỷ thứ 6 (năm 593) và đã bị tàn phá nhiều lần. Kiến trúc hiện tại của ngôi đền có từ năm 1168. Năm 1871, đền này được xếp vào hàng đền miếu cấp quốc gia. Năm 1911 lại được thăng hạng thành đền miếu hoàng gia.
Cổng đền khi thủy triều lên
Một trong những điểm hấp dẫn nhất của đền nổi Itsukushima là chiếc cổng tuyệt đệp O-torri, đứng sừng sững trên mặt biển, hướng thẳng tới đền thờ Itsukushima và cũng là biểu tượng của đảo Miyajima. Chiếc cổng O-torii hiện tại là chiếc được xây dựng năm 1875, lần xây dựng thứ tám tính từ thời Heian (794-1192). Cổng cao 16 mét trên mặt biển, bộ mái dài 24 mét, và những cây cột chính, làm từ những cây gỗ nguyên, có đường kính 1 mét. Cổng O-torii tự đứng vững bằng kết cấu khung của mình, không hề có bộ phận nào chôn dưới mặt đất. Khi thủy triều lên, cổng Torrii bập bền trên biển, khi thủy triều xuống, cổng được bị bùn bao phủ và mọi người có thể đi vào đền mà không cần tàu, thuyền.
Theo ý nghĩa nguyên thủy, torii là cái giàn cho gà đậu. Nó được đặt trước các đền chùa để ghi nhớ truyền thuyết Thần đạo về Thái Dương Thần nữ – Amaterasu. Thần Amaterasu tức giận em trai mình là thần Bão. Do đó, thần lánh vào Thiên Nham động (Amano Iwato), không thèm soi sáng mặt đất nữa, làm cho tám vạn thần linh cũng điêu đứng. Thần Tư Tưởng Omoikane bèn nghĩ ra một kế. Thần dựng trước cửa hang một giàn cho gà đậu và để một con gà trống vào đó, bên cạnh gắn một tấm gương tròn. Khi gà trống cất tiếng gáy, theo thói quen, Amaterasu thức dậy. Nhìn ra ngòai nàng thấy trong chiếc gương tròn hình bóng mình, song lại tưởng đó là một mỹ nhân xa lạ. Điều ấy khơi gợi tính tò mò của phái nữ nên thần bèn ra khỏi hang để xem ai là kẻ dám cả gan cạnh tranh sắc đẹp với mình. Ngay lập tức cả thế gian lại được chiếu sáng và cuộc sống trở lại rộn ràng.
Cổng đền khi thủy triều xuống
Đền nổi Itsukushima là một trong những ví dụ khác thường nhất về kiến trúc tôn giáo trên thế giới. Tòan bộ quần thể bao gồm ngôi đền chính, nhiều đền thờ nhỏ khác bố trí bao quanh, một sân khấu kịch Noh, một phòng tấu nhạc và nhiều cây cầu cùng hành lang nối liền các khu vực khác nhau trong đền. Tổng chiều dài các hành lang lên đến 300 mét. Xây dựng trên bãi đất ven biển và dập dềnh trên mặt biển khi triều lên. Công trình hoàn toàn không sử dụng một chiếc đinh kim lọai nào trong khi xây dựng và những kẻ hở giữa các tấm sàn được tính tóan khéo léo sao cho có thể giảm bớt áp lực của triều cường khi có bão lớn. Một vài tấm gỗ cổ được dùng để làm ván sàn có kích thước tới 1,5 mét rộng và trên 10 mét dài, và những tấm gỗ khổng lồ này đã được vận chuyển vượt hàng trăm dặm từ miền Bắc Nhật Bản để tới Miyajima. Một trong những cây cầu nổi tiếng dẫn tới đền thờ là cầu Soribashi – Cầu Đại diện Hòang gia. Được xây năm 1557, cầu dành riêng cho những đại thần quý tộc đại diện cho Thiên hòang tới viếng đền. Chỉ vào những dịp đó, các bậc thang mới được lắp vào. Ngoài ra, cầu và lối vào đền không bao giờ được sử dụng.
Loan Subaru
Ngày giỗ tổ Hùng Vương là ngày lễ thiêng liêng nhất cho dân Việt. Mọi ngày lễ khác của dân tộc đều từ ngày này mà ra. Và đối với sử sách thì các vua Hùng và thời Hồng Bàng là một huyền thoại, một cái gì u linh, vừa bí ẩn vừa linh thiêng. Đó là cách con người thời cổ đại nói về mình, về nguồn gốc của mình, và về nguồn gốc vũ trụ. Đó là một suy tư mà trong đó cảm xúc và trực giác đóng vai trò quan trọng hơn lý luận, và thời gian không đi đường thẳng—quá khứ, hiện tại, tương lai—mà đi theo hình tròn–quá khứ của mình cũng chính là tương lai của mình, gốc rễ của mình cũng là cành lá của mình, điểm khởi hành của tổ tiên cũng là điểm đến của con cháu trong mai hậu.
Vì vậy, đối với một dân tộc, huyền sử của dân tộc không phải chỉ là chuyện thần tiên cho trẻ em, mà là nền tảng tinh thần xuyên thời gian, ở trên đó dân tộc hiểu được tổ tiên mình nghĩ gì và cảm xúc gì, và hiện tại mình muốn gì và đang đi đâu.
Hôm nay, nhân ngày quốc tổ, chúng ta sẽ dành một ít thời gian, thăm viếng lại những huyền thoại u linh đó, để gợi ý cho mọi người suy tư. Mỗi huyền thoại nói đến một số vấn đề, và nếu vào kỹ một tí, chúng ta phải cần một bài rất dài cho mỗi huyền thoại. Hôm nay chúng ta chỉ lướt rất nhanh qua một số huyền thoại trong phạm vi chỉ một bài để gợi ý cho các bạn về đọc lại các huyền thoại kỹ lưỡng và suy gẫm sâu xa hơn.
1. Âu cơ và Lạc Long Quân, tiên rồng. Tại sao ta không nói rồng tiên, mà lại nói tiên rồng? Phải chăng đây là một bằng chứng của chế độ mẫu hệ xưa kia,biểu hiện trong sự kiện các vị vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (khác với huyền thoại tiền sử) là Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Theo quyển Concise History of the World của National Geographic (USA), thì Hai Bà Trưng là hai vị lãnh đạo phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thế giới. Ngày nay, một số bộ lạc dân tộc tại Việt Nam vẫn còn theo chế độ mẫu hệ. Phải chăng một số các bộ lạc này chính là vài nhánh tổ tiên ta còn sót lại?
Tiên và rồng tương khắc nhưng tương hợp. Đây rất rõ là phản ánh của triết lý âm dương có tự ngàn xưa–âm dương tương khắc, nhưng cũng tương sinh—tiên rồng, non nước, cao thấp. Ngoài ra, trên phương diện lịch sử, có thể đây là cuộc gặp gở giữa hai nhóm dân—một từ phương Bắc (miền nam sông Dương Tử) đi xuống và một nhóm có sẳn ở phương Nam?
Và 100 đứa con.Người Mường cũng có truyền thuyết trăm con. 100 đương nhiên là chỉ số nhiều, nói đến phát triển và sinh sôi nẩy nở–đến 80 triệu ngày nay! Và 100 cũng là tổng số của các số trong Lạc Thư của dịch học, ám chỉ toàn thể.
Nhưng tại sao sinh ra trứng mà không sinh con ngay? Theo các hình khắc trên trống đồng Đông Sơn thì vật tổ ta là chim, mà chim thì đẻ trứng. Âu Cơ là tiên, tiên cũng là chim, dịu dàng bay bỗng. Đặc biệt, rồng cũng là linh vật có thể bay. Như vậy rõ ràng , chim, rồng và bay, rất linh thiêng đối với tổ tiên ta. Chim không cần manh mẽ như voi, dũng mãnh như hổ, nhưng chim yêu tự do, chim muốn có cả bầu trời. Chim là tự do, là sáng tạo, là khai phá.
Và dĩ nhiên là 100 con còn nói rất rõ ý niệm anh chị em và bình đẳng. Vợ chồng thì ly dị được, nhưng anh chị em thì không ly dị được. Sống hay chết, thích hay không thích, thì cũng vẫn là anh chị em. Đây là ý nguyện đoàn kết và bình đẳng rất rõ. Cho nên nếu anh chị em , vì bất kỳ lý do gì mà gọi nhau là kẻ thù, thì đó là cái tội cực kỳ nặng nề đối với tổ tiên và dân tộc.
2. Mười tám đời vua hùng vương. Con số 18 này rất đặc biệt. Các trống đồng Đông Sơn có 18 vành khắc và mỗi vành có 18 con chim. Đời vua Hùng Vương thứ 6 không truyền ngôi cho con trưởng mà cho Lang Liêu, con thứ 18, người tìm ra bánh dày bánh chưng. Vòng trong của thành Cổ Loa có 18 cái u hỏa hồi. Tục rước nõn nường cùa dân gian xưa ở miền trung du và đồng bằng Bắc bộ, rước 18 cái nõn và 18 cái nường (tượng trưng cho thịnh vượng).
Truyền thuyết Mường, cũng nói 100 con chia ra 50 người con về miền đồng bằng trở thành tổ tiên người kinh; 47 người đi lên miền núi, họ là tổ tiên của các dân tộc miền núi, còn lại 3 người sinh ra từ những trứng đầu tiên: Tá Cài, Tá Cần, và Dạ Kịt. Sau khi anh cả là Tá Cài bị rắn cắn chết, các mường mời Tá Cần lên ngôi vua. Tá Cần lấy bà Chu Bà Chương sinh được 18 con: 9 con trai và 9 con gái. Họ trở thành lang (thủ lĩnh) và chia nhau đi coi giữ các bản Mường.
Con số 18 rất rõ là 2 lần 9. Số 9 là số lớn nhất trong Hà Đồ của dịch học. Và là số mạnh nhất, vì đó là số thái dương. Cho nên 9 là lớn và mạnh. Và hai lần chín là tăng lên đến mức đa số của 9. Số 9 của văn hóa ta, xem ra giống như số 7 trong nền văn minh Do thái cổ, với 7 ngày tạo nên thế giới và tuần 7 ngày ta có ngày nay.
3. Tăng thưởng theo công sức. Điểm quan trọng rất đáng chú ý là khái niệm về tăng thưởng tùy theo công sức (meritology) đã nằm sâu trong tâm thức người Việt, cho nên người con nào tài giỏi thì được nối ngôi vua, chứ không nhất thiết là con trưởng. Vì vậy Lang Liêu là con thứ 18 vẫn được nối ngôi cha. “Tăng thưởng tùy theo công sức” là nền tảng của ý niệm dân chủ ngày nay.
4. Bánh dày bánh chưng: là biểu tượng cha mẹ, trời đất, trời tròn đất vuông, trời dương đất âm. Đây lại cũng là khái niệm âm dương rất căn bản trong dịch học. Đồng tiền xu của người Việt khi xưa gọi là đồng âm dương vì nó tròn và có lỗ vuông chính giữa.
Điều rất quan trọng mà nhiều người không nắm được là âm dương là triết lý bình đẳng, không phải là dương thì tốt âm thì xấu, đàn ông (dương) thì tốt, đàn bà (âm) thì xấu như các quí vị không hiểu nguyên lý âm dương nói bậy bạ. Nếu các bạn nhìn vòng thái cực (mà các võ sinh Thái Cực Đạo mang trên áo, hay trên lá cờ Hàn quốc) thì âm dương (xanh và đỏ) hòa quyện với nhau như lượn sóng di động rất bình đẳng, nữa vòng là âm nữa vòng là dương. Hai điều khác nhau, như âm dương, như nam nữ, hòa hợp bình đẳng với nhau và cùng chuyển dịch thì tạo ra vũ trụ. Cho nên nếu nói âm dương, là trời đất, là cha mẹ, thì đó là khái niệm hòa hợp bình đẳng.
Và dĩ nhiên nói đến cha mẹ là nói đến hiếu thảo. Hơn nữa, lá chuối và gạo nếp để làm bánh là biểu tượng rất sâu đậm của đời sống nông nghiệp, tức là sức sống chính của nước ta nghìn xưa. Người biết được hiếu thảo và nước non sâu đến như vậy đương nhiên là có cái nhìn của người có thể gánh vác nước nhà.
5. Dưa hấu: Chuyện Mai An Tiêm có lẽ là câu chuyện đầu tiên mang tinh thần Phật học. An tiêm là người nước khác, được vua nhận làm con nuôi, và An Tiêm tin vào tiền kiếp và nhân quả. Như vậy An Tiêm có thể là biểu tượng cho văn minh Phật giáo du nhập vào Việt Nam.
An Tiêm sau này bị đày ra hoang đảo và được đàn chim từ phương Tây bay ngang nhả hột dưa xuống đảo. Phương Tây là phương Ấn độ và Nepal, tức là phương Phật, là phương mà Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong Tây Du Ký. Phương Tây cũng là Tây phương Cực lạc, thế giới tịnh độ của Phật A-di-đà.
Và quả dưa hấu thì rất rõ là biểu tượng của lòng khiêm tốn và sức mạnh bên trong. Dựa hấu xanh vỏ đỏ lòng. Bên ngoài chẳng có gì hấp dẫn cả–sống hay chín thì vỏ vẫn xanh, vẫn chẳng tí mùi vị gì cả. Chỉ khi bổ ra, người ta mới thấy bên trong đỏ, rất đẹp, rất ngọt, và rất mát.
Và dĩ nhiên, khi nói đến lấy cái tâm bên trong làm chính, thì đó là cốt tủy của Phật giáo.
6. Truyện trầu cau có vẻ gì như là sự luyến tiếc về chế độ mẫu hệ và tục lệ nào đó tương tự như tục “nối dây” vẫn còn tồn tại trong một số bộ lạc miền cao ở Việt Nam, trong đó người phụ nữ có quyền lấy em chồng hoặc anh chồng khi chồng chết.
7. Truyện Trọng Thủy Mỵ Châu là truyện nói lên tình cảm mạnh mẽ và hơi lạ lùng của người Việt ta. “Phe ta” là Mỵ Châu và An Dương Vương. Trọng Thủy và Triệu Đà là “phe địch.” Trọng Thủy là gián điệp cho địch, dối vợ, hại cha vợ, hại cả quốc gia nhà vợ. Nhưng dân ta lại rất yêu Trọng Thủy, trong văn hóa và nghệ thuật. Lại còn gọi chàng ta với một cái tên rất đáng yêu , rất đáng kính—Trọng Thủy, người quí trọng thủy chung. Và Mỵ Châu, người phụ nữ bị chồng lường gạt, thì bị xử chết. Tại sao có sự bất công lạ thường này?
Tượng Mỵ Châu (cụt đầu) tại am thờ
Rõ ràng là nhiệm vụ bảo vệ quốc gia được đặt lên hàng đầu trong truyện này—trung thành và bảo vệ quốc gia đến mức tuyệt đối. Trọng Thủy làm đủ mọi thứ tội chỉ vì trung thành với quốc gia của chàng. Trung thành với quốc gia là nhiệm vụ tối cao. Vì nhiệm vụ đó mà mang các tội khác, thì các tội khác có thể được cảm thông.
Dĩ nhiên tội dối vợ, phản vợ , phản cha vợ và tổ quốc của vợ, dù là có lý do chính đáng vẫn là một tội, và tự tìm cái chết để rửa tội thì cũng có thể sạch tội và vẫn được hậu thế ca tụng .
Mỵ châu dù chỉ là nạn nhân của lường gạt, nhưng đã không làm tròn bổn phận đối với quốc gia–bảo vệ bí mật quốc phòng (về nỏ thần) tuyệt đối. Cho nên đã phải tội chém. Dù vậy ai cũng nhận ra được là Mỵ Châu chỉ là nạn nhân của những trò chơi chính trị, vì vậy nàng rất được yêu kính trong nền văn hóa Việt. Nhưng thực sự thì Mỵ Châu chẳng có một công đức gì trong truyện cả. Nàng được yêu và được thờ tự (đến tận ngày nay; am thờ Mỵ Châu nằm trong đền thờ An Dương Vương tại ở Cổ Loa), chỉ vì nàng là nạn nhân.
Yêu mến là một chuyện, nhưng thờ tự? Phải chăng đó là vì người ta quá yêu mến tính thành thật của nàng, dù là thành thật đến mức khờ khạo? Như vậy phải chăng dó là hệ quả của một hệ thống luân lý đặt giá trị rất lớn vào thành thật–thành thật là tính thánh, dù có bị gạt thì vẫn là thánh nhân?
Đằng nào đi nữa thì truyện Trọng Thủy Mỵ Châu nói lên lòng bao dung rất bao la của người Việt. Triệu Đà ban đầu là phe địch, đã giết vua ta. Sau lên cai trị ta, và lại được ta xem như là vua tốt của ta, vì gia đình họ Triệu chống lại nhà Hán ở Trung quốc. Chống lại kẻ ức hiếp ta là anh em, là gia đình ta.
8. Có lẽ huyền thoại hấp dẫn nhất của ta là truyện Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương. Lúc quốc biến, vua cho đi tìm nhân tài trong thiên hạ, tức là vua trông cậy, hỏi nhờ đến dân. Cậu bé 3 tuổi mà không biết nói có nghĩa là dân thì ngày thường xem ra yếu ớt ngu dốt. Tuy nhiên, khi quốc biến, nếu vua (cho sứ giả) đến gặp dân trực tiếp, nghe dân nói, và tin vào lời dân, dù là nói nghe rất điên, như con nít lên ba nói làm ngựa sắt và roi sắt, nhưng cứ làm theo dân, thì dân sẽ biến từ đứa bé câm ba tuổi thành đại dũng sĩ giết giặc. Đó là cái dũng của dân, khởi động được nhờ đức khiêm tốn và lòng tin của vua.
Và xong việc rồi thì dân biến mất, mạnh ai về nhà nấy, như Thánh Gióng về trời, chẳng ai ngồi đó để đòi vua trả công. Tức là, để khởi động sức mạnh của dân thì dùng đức khiêm tốn và lòng tin, chứ không cần phải mị dân bằng lợi lộc.
Các huyền thoại của một dân tộc là những giấc mơ, những ước muốn, những cảm xúc, những khôn ngoan, những suy tư của dân tộc đó. Huyền thoại là một phần chính của cái mà ta có thể gọi là tiềm thức dân tộc. Chúng ta không thể hiểu dân tộc và văn hóa dân tộc nếu ta không suy tư sâu xa một tí về các huyền thoại dân tộc. Trong tương lai, chúng ta sẽ đi sâu vào mỗi huyền thoại trên Đọt Chuối Non. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, các bạn nên đọc thêm và suy tư thêm một tí, và có thể chia sẻ suy tư của các bạn trên trang web này.
Rokia Traoke, người Mali, một quốc gia ở Tây Phi. Gia đình chị thuộc bộ lạc Bamana. Chị hòa trộn truyền thống Bamana và âm hưởng cùng kỹ thuật âm nhạc tân thời, và trở thành một sao âm nhạc ở Âu Châu. Bản “Kounandi” của chị có một âm sắc huyền bí và nhức nhối.
.
April Fools’ Day – ngày nói dối – ngày 1 tháng 4 – là một trong những ngày vui nhộn nhất trong năm trên thế giới. Ở Việt nam ta hay gọi là ngày Cá Tháng 4. Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn gốc của ngày này không rõ ràng. Một số người cho rằng ngày 1/4 là ngày đánh dấu sự chuyển mùa từ Đông sang Xuân tại các quốc gia Âu Mỹ. Còn một số khác lại tin rằng ngày này xuất phát từ việc chấp nhận Công lịch mới.
Thay đổi ngày tân niên
Vào thời xưa, người ta đón mừng tân niên vào ngày 1/4, sau ngày Xuân Phân (20/3 hoặc 21/3). Đến thời trung cổ, nhiều quốc gia Châu Âu tổ chức Lễ Truyền Tin vào ngày 25/3 và xem nó như ngày tân niên. Lễ Truyền Tin là lễ trong Công giáo La Mã (Roman Catholic) và Chính thống giáo (Eastern Orthodox), nhắc lại truyền kỳ Thiên thần Gabriel báo tin cho Maria là bà sẽ thụ thai và sinh con.
Vào năm 1582, Giáo hoàng Gregory 13 ban hành công lịch mới (gọi là lịch Gregory) thay thế lịch cũ Julius. Theo công lịch này, ngày tân niên được chọn là ngày 1/1. Nước Pháp đã đón nhận lịch này và thay đổi ngày đầu năm thành ngày 1/1. Vào thời điểm này, có nhiều người không chấp nhận ngày tân niên 1/1, hoặc cũng có thể họ không biết sự thay đổi đó, nên vẫn tiếp tục chào đón tân niên vào ngày 1/4. Kết quả là họ bị những người khác cười chế nhạo, và phong tục này đã lan rộng khắp Châu Âu.
Tuy nhiên, giả thuyết này cũng chưa xác đáng vì hai lý do:
1) Chưa giải thích được sự lan rộng của ngày nói dối đến các nước Châu Âu khác: Trước năm 1752, lịch Gregory vẫn chưa được chấp nhận ở Anh quốc. Trong khi đó, ngày nói dối hầu như đã hiện diện ở Anh vào thời điểm này.
2) Chưa có bằng chứng lịch sử cụ thể chứng minh cho giả thuyết này. Đó chỉ là phỏng đoán, và sự phỏng đoán này chỉ mới xuất hiện gần đây.
Câu chuyện giữa Hoàng Đế Constantine và anh hề Kugel
Joseph Boskin, giáo sư Sử học trường Đại học Boston (Mỹ) cũng cung cấp một giả thuyết khác về nguồn gốc của ngày nói dối. Theo ông, ngày này xuất hiện vào thời Constantine Đại Đế, khi một nhóm các chú hề của triều đình nói với hoàng đế La Mã rằng: họ có thể điều hành đất nước tốt hơn ông ấy. Hoàng Đế Constantine lấy làm thích thú về việc này và cho phép một chú hề tên là Kugel làm vua một ngày. Vào ngày đó, anh hề Kugel thông qua sắc lệnh cho sự hài hước này, và từ đó, tục lệ này đã trở thành sự kiện hàng năm.
Giả thuyết này được đăng trên nhiều bài báo của Associated Press (AP – thông tấn xã Hoa kỳ, lớn nhất thế giới) vào năm 1983 và gây được nhiều chú ý trong công chúng. Thật ra, đó chỉ là trò đùa bịa đặt của giáo sư Boskin. Hai tuần sau, thông tấn xã AP mới nhận ra họ chính là nạn nhân của trò đùa của vị giáo sư kia.
Sốt đầu xuân
Đáng chú ý là có nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới đều có những ngày vui nhộn vào đầu tháng 4, và kéo dài vài tuần. Những người theo giáo hội La Mã có lễ hội Hilaria vào ngày 25/3 – ngày lễ phục sinh của thần Attis (một vị thần trong thần thoại Hy Lạp). Lịch Ấn giáo thì có ngày Holi và lịch Do Thái có ngày Purim. Nhìn chung, vào thời điểm giao mùa từ Đông sang Xuân, người ta tổ chức những lễ hội vui nhộn để chào đón mùa xuân.
Lễ hội khắp nơi trên thế giới
Ngày nói dối được tổ chức ở khắp các nước phương Tây. Vào dịp này, người ta có thể gửi cho nhau những món quà nghịch ngợm, chơi khăm nhau và cố làm cho mọi người tin vào những điều ngớ ngẩn.
Người Pháp gọi ngày nói dối là ngày Cá tháng 4. Vào ngày này, thỉnh thoảng trẻ em Pháp lại dán hình con cá lên lưng bạn học, và la lên “Cá tháng 4” khi trò chơi khăm bị phát hiện.
Chiến dịch thống kê dân số bắt đầu từ 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009
Có tin là Tổng Cục Thống Kê Việt Nam sẽ khai hỏa mở đầu chiến dịch tổng điều tra dân số và nhà ở bắt đầu từ ngày 1.4.2009. Lần này, ngoài nội dung điều tra về dân số như lần trước (năm 1999), chiến dịch còn mở rộng thêm 3 nội dung mới: điều tra về số lượng người khuyết tật, điều tra về thị trường lao động và về chất lượng nhà ở.
Nhưng … chẳng biết đây là chiến dịch thật hay chỉ là … cá tháng tư của Tổng Cục Thống Kê ??? 😦
Sau đây là video về bản tin đặc biệt của BBC phát ngày 31 tháng 3 năm 2008 về một loài chim cánh cụt, mới được khám phá, bay hàng nghìn dặm, từ Nam cực đến rừng rậm Amazon ở Nam Mỹ.
Ngày hôm nay, mồng 7 tháng 3 âm lịch là ngày chính hội của lễ chùa Thầy, diễn ra hàng năm từ ngày 5 tới ngày 7 tháng 3 âm lịch tại xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
Lịch sử lễ hội
Chùa Thầy, còn gọi là Chùa Láng, là nơi thờ và lưu dấu ấn tu hành của nhà sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh (1072-1127) vào thời Lý. Theo tích kể, thiền sư có oan gia, ông sang Ấn độ đi tu rồi trở về giảng đạo, chữa bệnh cứu người, sáng tạo và tổ chức trò chơi dân gian múa rối nước cho dân chúng. Nhà sư hóa Phật tại nơi đây. Trong Lĩnh Nam Chích Quái có một truyện thần thoại về Từ Đạo Hạnh.
Nhân dân lấy ngày Từ Đạo Hạnh hóa Phật (7 tháng 3 âm lịch) để mở hội chùa Thầy. Cứ đến ngày mồng 5 tới ngày mồng 7 âm lịch hàng năm, nhân dân thập phương tứ xứ lại về trảy hội ở núi Thầy, xã Thầy.
Nhớ ngày mồng bảy tháng Ba
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy.
Từ Đạo Hạnh
Văn hóa lễ hội
Lễ hội chùa Thầy có nét văn hóa rất đặc sắc. Trong ngày hội, các tăng ni phật tử từ các nơi cùng về dự lễ trong những bộ cà sa sang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ gồm hai lễ chính. Lễ tắm tượng và lễ cúng Phật và chạy đàn rất trang nghiêm với phối hợp của nhiều nhạc cụ dân tộc.
Ở hội có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước.
Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong cảnh non nước Sài Sơn hữu tình.
Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
Borobudur là một ngôi đền tháp Phật giáo lớn ở miền trung đảo Java, Indonesia. Ngôi đền tháp này được xây dựng dưới vương triều Sailendra sùng đạo Phật (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9). Ngôi đền này nằm trên đỉnh một quả đồi, giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, phía sau là một dãy núi màu lam, làm nổi bật lên ngôi đền.
Borobudur mang ý nghĩa là “Ngọn núi hình thành từ những ưu điểm của Bồ Tát”. Đền tháp Borobudur, xây dựng trên lưng chừng quả đồi, cách chân đồi 15,5 m, bao gồm 12 tầng to, nhỏ, vuông, tròn xen kẽ, kế tiếp nhau. Toàn bộ ngôi đền cao 42 m. Chiều dài mỗi mặt ở chân đền là 123 m. Nhưng nếu đi hết các bậc thang, các hành lang của 12 tầng để lên đến đỉnh tháp thì phải đến 5 km.
Tầng thứ nhất (từ chân đồi lên) hình vuông, mỗi cạnh hướng về một phương rõ rệt. Giữa mỗi cạnh có một khoảng trống rộng 7,38 m, có hai con sư tử bằng đá chầu hai bên, hình thù khá đồ sộ, miệng chúng khá rộng, lông bờm ở lưng, cổ, ngực dựng lên trông rất dữ tợn, đuôi uốn cong ngược về phía sau. Song, tám con sư tử ở bốn cạnh có con đã được đẽo gọt, chạm trổ hoàn chỉnh, có con còn đang dở dang.
Tầng thứ hai cách tầng thừ nhất 1,52 m, không xây theo dạng hình vuông như ở tầng thứ nhất, mà là hình đa giác 20 cạnh, gần như bao quanh lấy sườn đồi. Tuy nhiên, vẫn có bốn cạnh lớn hướng về bốn phương trời, giữa có bốn tầng cấp. Hai bên tầng cấp có hai lan can uốn cong rất duyên dáng. Cuối lan can là một đầu voi rất to, trong miệng ngoạm một con sư tử; còn đầu lan can kia, là một đàn sư tử, mõm mở rộng, lưng tựa vào tường.
Từ tầng thứ ba trở lên, lại có hình dạng vuông, riêng tầng ba trên cùng có dạng hình tròn. Trên mỗi tầng có xây dựng nhiều đền đài miếu mạo, cái lớn nhất ở giữa, hai bên là những cái bé hơn. Trên cùng của đền tháp là mái tròn hình chuông.
Tất cả các bậc thềm từ tầng một đến tầng chín đều được phủ kín những phù điêu, được chạm trổ rất công phu, mô tả về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các bồ tát và các anh hùng đã giác ngộ Phật pháp, về thiên đàng, về đia ngục…
Ba tầng của Borobudur đại diện cho ba phần trong vũ trụ theo quan niệm của Phật giáo. Tầng thấp nhất là nơi mà tinh thần con người bị xâu xé bởi lòng ham muốn. Tầng giữa: tinh thần con người đã thoát khỏi sự ham muốn nhưng chưa vượt ra khỏi thế giới vật chất. Tầng cao nhất: tinh thần con người dã được giải phóng khỏi những ham muốn trần thế. Vì thế, những tháp lớn ở chính giữa đại diện cho cõi niết bàn thì trống rỗng.
Suốt trong thế kỷ thứ 10 và 11, có một sự chuyển tiếp quyền lực từ miền Trung Java sang phía Ðông Java và các tháp này bị bỏ hoang. Sau nhiều thế kỷ chìm trong quên lãng, chúng bị chôn dưới lớp tro núi lửa và rừng bắt đầu phát triển.
Vào năm 1814, những nhà thám hiểm người Anh do ngài Stamford Raffles dẫn đầu đã phát hiện những pho tượng bị vùi lấp trong các khu rừng trên đồi. Ðến năm 1900 một ủy ban được lập ra để bảo quản Borobudur. Vào năm 1907, ông Thadeus Van Erp – một kỹ sư Hà Lan – được chỉ định lãnh đạo công cuộc phục hồi, nhưng kinh phí hạn chế đã ngăn cản những nỗ lực của Van Erp. Vì thế, Borobudur vẫn ở trong tình trạng hoang phế cho tới năm 1973, UNESCO công nhận Borobudur là một di tích lịch sử thế giới và tài trợ kinh phí cho việc trùng tu Borobudur. Hằng năm, đây là nơi hành hương của Phật tử Indonesia trong dịp lễ Vesak.
Vào thời mà giá một ly kem sundae còn rất rẻ, một cậu bé 10 tuổi vào một cửa hàng café trong khách sạn và ngồi ở một bàn.
Chị tiếp viên đặt một ly nước trước mặt cậu.
“Bao nhiêu tiền một ly kem sundae?”, cậu hỏi.
“Năm mươi xu”, chị tiếp viên trả lời.
Cậu bé nhấc tay ra khỏi túi và nhẩm tính các đồng cắc trên tay. Cậu hỏi: ” Vậy bao nhiêu tiền cho một ly kem thường?”.
Lúc này có thêm nhiều người đang đứng đợi chỗ ngồi và chị tiếp viên mất kiên nhẫn: “Ba mươi lăm xu” chị trả lời cộc lốc.
Cậu bé lại đếm các đồng cắc. Cậu nói, “Cho em ly xem thường”.
Chị tiếp viên mang kem đến, đặt hóa đơn trên bàn và bước đi. Cậu bé ăn kem xong, trả tiền tại quầy và đi.
Khi chị tiếp viên quay lại, chị bắt đầu khóc khi chị lau bàn. Ở đó, nằm gọn bên cạnh chiếc đĩa trống, là hai đồng cắc năm xu và năm đồng cắc một xu. Các bạn xem, cậu bé không thể ăn ly kem sundae vì cậu cần có đủ tiền dư để “boa” chị tiếp viên.
Nguyễn Minh Hiển dịch
.
Always remember those who serve
In the days when an ice cream sundae cost much less, a 10 year old boy entered a hotel coffee shop and sat at a table.
A waitress put a glass of water in front of him.
“How much is an ice cream sundae?” he asked.
“Fifty cents,” replied the waitress.
The little boy pulled his hand out of his pocket and studied the coins in it. “Well, how much is a plain dish of ice cream?” he inquired.
By now more people were waiting for a table and the waitress was growing impatient. “Thirty-five cents, she brusquely replied.”
The little boy again counted his coins. “I’ll have the plain ice cream,” he said.
The waitress brought the ice cream, put the bill on the table and walked away. The boy finished the ice cream, paid the cashier and left.
When the waitress came back, she began to cry as she wiped down the table.There, placed neatly beside the empty dish, were two nickels and five pennies. You see, he couldn’t have the sundae, because he had to have enough left to leave her a tip.
Vào khoảng thời gian này (cuối tháng 3 kéo dài đến đầu tháng 4), khắp nơi trên đất nước Nhật tổ chức lễ hội hoa anh đào, được gọi là Hanami. Và cũng nhân dịp Hà nội dự kiến sẽ tổ chứclễ hội hoa anh đào (diễn ra từ 10/4 – 12/4) để chào mừng 999 năm Thăng Long, xin được giới thiệu đôi nét về lễ hội, nhằm giúp bạn có thêm một chút thông tin về văn hóa đặc sắc này.
Hoa Anh đào
Hanami (花見) là từ ghép giữa hai từ “Hana (花)” và “Mi (見)”, trong đó “Hana” có nghĩa là hoa (hoa anh đào hoặc hoa mơ), “Mi” có nghĩa là xem, ngắm nhìn. Hanami có nghĩa là ngắm nhìn, thưởng lãm hoa anh đào, và được gọi là hội hoa anh đào. Đây là tập quán thưởng thức vẻ đẹp của hoa anh đào, chúc mừng nhau và cảm nhận không khí mùa xuân của người Nhật. Vào những ngày lễ hội này, mọi người thường tụ tập dưới những gốc cây anh đào nở hoa, vừa ngắm hoa, vừa uống rượu. Loại rượu được uống lúc ngắm hoa là “Hanamizake” (kết hợp của hai từ: Hanami và rượu sake)
Hoa Anh đào mọc trên khắp nước Nhật. Ở mỗi địa phương, vào mùa xuân, hoa chỉ nở đồng loạt vào khoảng 2 tuần rồi tàn nên ghi dấu ấn rất đậm trong tâm hồn và trở thành cảm nhận về mùa xuân cho mỗi người dân Nhật bản. Vẻ đẹp cùng với thời gian khai hoa ngắn ngủi của hoa Anh đào thường được ví như sự phù du của kiếp người. Có lẽ vì vậy mà từ xưa tới nay, người ta vẫn nói rằng hoa Anh đào khiến con người trở nên bốc đồng.
Hội hoa Anh đào
Vào tháng 3 hàng năm, nhà khí tượng Nhật Bản thường công bố lịch dự kiến của mùa hoa Anh đào nở ở từng địa phương. “Tuyến hoa nở” là từ chỉ đường nối các vùng có hoa đồng loạt nở trong một ngày. Tùy theo từng loại Anh đào mà giờ hoa nở có thể nhanh hay chậm hơn nhau một chút. Hơn nửa số địa phương ở Nhật bản có thời kỳ hoa nở trùng với năm tài chính mới của công ty hay năm học mới. Riêng các vùng phía nam như Kyusyu, Shikoku, Chugoku, hoa nở từ tháng 3, còn các vùng phía bắc như vùng Đông Bắc hay Hokkaido thì hoa lại nở vào tháng 5.
Ngắm hoa vào ban đêm cũng là một nét đặc biệt của Hanami. Tại công viên Ueno có bố trí một số khu vực phục vụ cho việc ngắm hoa vào buổi đêm.
Mỗi khi có gió lớn thổi qua, vô vàn cánh Anh đào đồng loạt thả mình bay theo gió sẽ tạo nên khung cảnh tựa như tuyết rơi nên còn gọi là “Tuyết hoa Anh đào”. Vẻ đẹp của nó đã góp phần tạo nên cảnh sắc rung động lòng người của mùa hoa Anh đào nở.
Lịch sử
Người ta cho rằng Hanami là lễ hội bắt nguồn giới quí tộc từ thời Nara. Thời Nara, họ ngắm hoa mai mới được đưa về từ Trung Quốc, nhưng đến thời Heian thì chuyển thành ngắm hoa Anh đào. Vào thời Heian, việc ngắm hoa Anh đào chỉ giới hạn ở giới quý tộc, nhưng sau đó lan rộng đến giới võ sĩ đạo Samurai. Đến thời Edo, Hanami trở thành thói quen của dân chúng, khi Tokugawa Yoshimune (*) cho trồng Anh đào rộng khắp ở Edo và khuyến khích Hanami.
* Tokugawa Yoshimune: Tướng quân thứ 8 của dòng họ Tokugawa, người dẫn đầu vụ “cải cách tài chánh Kyoho ” nổi tiếng. Ông bày tỏ lòng cộng cảm với nền kinh tế trong nước bằng cách quyết định không mặc áo quần lụa và thay vào đó mặc vải bông.
Loan Subaru
.
Washington DC, Lễ hội Hoa Anh Đào 4 và 5 tháng 4 năm 2009. Anh Nguyễn Minh Hiển, Đọt Chuối Non admin từ Connecticut, và chị Pham Thị Thanh-An, VNBIZ admin từ Hà Nội, đến Washington DC tham dự Lễ hội, cùng anh Trần Đình Hoành và chị Tuý-Phượng.
Từ bên trái: Chị Tuý Phượng, anh Hoành, chị Thanh An, anh Hiểnanh Minh Hiển và chị Thanh An --National Gallery of Fine Arts anh Hoành -- National Gallery of Fine Arts
Mỗi thứ có một mùa
Và mỗi thời dành cho một mục đích
Ở dưới thiên đường
Giờ là thời chuyển đổi
Lá bắt đầu chuyển màu
Từ xanh sang đỏ và cam
Chim bắt đầu chuyển
Trữ thức ăn cho vụ đông
Với cây lá, chim muông và thú vật
Chuyển đổi đến thật tự nhiên
Nhưng với chúng ta, chuyển đổi không dễ dàng như thế
Phải có quyết tâm
Thì ta mới chuyển đổi
Có nghĩa là từ bỏ những thói cũ
Có nghĩa là công nhận mình sai
Và điều đó chẳng bao giờ dễ
Có nghĩa là mất mặt,
Có nghĩa là bắt đầu lại từ đầu
Và điều này luôn đau đớn
Có nghĩa là nói: “Mình xin lỗi”
Có nghĩa là xác nhận mình có khả năng thay đổi
Và luôn luôn, điều đó thật bẽ bàng
Những điều này thật khó khăn
Nhưng nếu không chuyển đổi, ta sẽ mãi bị vướng bẫy
Trong những con đường ngày hôm qua
Chúa ơi, giúp chúng con chuyển đổi
Từ chai đá sang nhậy cảm
Từ thù địch sang yêu thương
Từ nhỏ nhặt sang đầy mục đích
Từ ghen tị sang bằng lòng
Từ cẩu thả sang kỷ luật
Từ sợ hãi sang tin tưởng
Hãy chuyển đổi chúng con, Chúa ơi, và hướng chúng con về phía Ngài
Làm sống lại cuộc đời chúng con, như mới tự khi đầu
Và hướng chúng con về phía nhau, Chúa ơi,
Bởi trong cô lập, không có sự sống.
Kinh lễ sám hối của Do Thái Nguyễn Minh Hiển dịch
.
A time for turning
To everything there is a season,
And there is an appointed time for every purpose
Under heaven.
Now is the time for turning.
The leaves are beginning to turn
From green to red and orange.
The birds are beginning to turn
To storing their food for the winter
For leaves, birds, and animals
Turning comes instinctively.
But for us turning does not come so easily.
It takes an act of will
For us to make a turn
It means breaking with old habits
It means admitting that we have been wrong;
And this is never easy.
It means losing face;
It means starting all over again;
And this is always painful.
It means saying: ‘I am sorry.’
It means admitting that we have the ability to change;
And this is always embarrassing.
These things are terribly hard to do.
But unless we turn, we will be trapped forever
In yesterday’s ways.
Lord, help us turn–
From callousness to sensitivity,
From hostility to love,
From pettiness to purpose,
From envy to contentment,
From carelessness to discipline,
From fear to faith.
Turn us around, O Lord, and bring us back towards You.
Revive our lives, as at the beginning.
And turn us towards each other, Lord,
For in isolation there is no life.