All posts by qiaosuyuan

Cây và Lá

Phần 1:

Hạnh phúc của Cây là có thể ôm trọn Lá vào trong lòng mình,
Hạnh phúc của Lá là có thể tô điểm cho vẻ đẹp của Cây.
Mà Lá thì sẽ có một ngày nào đó phải lìa cành,
Những chiếc lá mùa thu trải đầy mặt đất,
Lấp kín sự tang thương của mặt đất.
Cây không níu giữ được Lá,
Không nói được lời nào,
TREE AND LEAVE
Chỉ biết lặng lẽ buông Lá.
Nỗi đau của Lá,
Cây không nhìn thấy.
Nỗi buồn của Cây,
Lá không cảm nhận được.
Lá lìa Cây, Lá sẽ không còn hạnh phúc,
Cây rời Lá, Cây chẳng còn vẻ đẹp của mình.
Thời gian luôn dịch chuyển,
Mọi thứ đều thay đổi theo vòng xoắn của nó.
Rồi Cây sẽ có những chiếc Lá mới,
Sẽ không còn nhớ về sự tồn tại của những chiếc lá trước đây.
Lá theo gió cũng bay đến một nơi thật xa,
Sẽ không còn trở về bên Cây.
Kết cục của tình yêu có lẽ cũng như vậy,
Mặc dù đã từng yêu rất sâu đậm,
Nhưng khi một trong hai người không còn nhớ nhung gì về nhau nữa,
Hay khi người mình yêu không còn bên cạnh,
Thì cuối cùng cũng giống như Cây và Lá
Đau thương chỉ là một chút,
Đau đến mức không còn cảm giác thì sẽ có lúc không còn đau được nữa.

Phần 2:

Vào một đêm mùa thu
Lá nói với Cây
Mình phải đi đây
Im lặng…
leave
Một lúc sau, Cây nói
Mình sẽ mãi nhớ về bạn
Gió đêm thổi đến
Cuốn Lá đi theo
Nhưng không cuốn nổi những nỗi niềm của Lá
Những chiếc lá khi rơi thường quên đi quá khứ
Theo gió bay đến thiên đường
Nhưng có những chiếc lá vẫn ngày đêm nhớ đến Cây
Không chịu quên đi
Do đó Lá không đến được thiên đường
Lại trở về bên cạnh Cây
Lá cảm thấy thật hạnh phúc
Lá hỏi Cây
Bạn có còn nhớ mình không
Cây giả bộ không nhớ
Trái tim Lá thấy nhói đau
Lại là một đêm mùa thu
Lá nói với Cây
Hình như đã đến lúc mình phải đi rồi
Lại là sự im lặng…
Rất lâu, Cây mới nói: tôi sẽ không ngăn cản bạn
Nghe Cây nói, trong tích tắc
Lá đã khóc
Gió đêm làm cây rung nhẹ
Cuốn theo lá
tree
Cây không nhìn thấy Lá đã khóc
Đây là lần đầu tiên Lá vì Cây mà khóc
Và cũng là lần cuối cùng
Theo gió Lá bay về thiên đường chọn lựa sự lãng quên
Không còn nhớ Cây là ai
Vì Lá hiểu rằng
Đối với Cây
Lá chỉ là một chiếc lá rất bình thường
Giờ Lá chỉ biết
Bản thân
Là một chiếc lá rơi rụng trong thiên đường
Nhưng
Cuối cùng ai là người sai
Là Cây sai
Sai ở chỗ không nên dễ dàng quên đi mọi thứ như vậy
Hay là Lá đã sai
Sai ở chỗ không nên quyến luyến đến vậy
Sự đau thương của tình yêu
Thường những người đang yêu không để tâm
Yêu càng sâu đậm
Đau càng rõ rệt
Lựa chọn lãng quên
Là cách gửi gắm duy nhất
Sẽ không còn nhớ nhung
Và sẽ không còn đau khổ.

Điều tôi muốn nói với các bạn rằng: Còn có một tình yêu được gọi là vứt bỏ!

Kiều Tố Uyên

(Dịch từ Trung văn)

Yêu không phân đúng sai, Yêu không có quy tắc…

love 4Nếu yêu vì có lý do, thì không nên yêu; nếu yêu vì mục đích nào đó thì cũng không nên yêu; nếu yêu mà có thể dùng lời nói để giải thích, yêu mà hợp tình hợp lý, vậy thì sự phức tạp của tình yêu cũng không còn tồn tại nữa.
Yêu không phải vì được yêu, mà chỉ vì yêu. Bạn không thể vì không được yêu mà đánh mất quyền yêu của mình, vì tình yêu nằm trong trái tim của người đang yêu , chứ không nằm trong mắt của người được yêu.
Tình yêu không có một khuôn mẫu nhất định nào cả. Nhiều người khác nhau vì bạn mà cùng làm một việc, nhưng bạn sẽ cảm thấy sự khác biệt rất lớn. Vì những điều mà chúng ta thường để ý đến là ai làm việc đó cho mình chứ  ít khi để ý đến người đó làm việc gì cho mình.
Yêu là phải để trong lòng, chứ không phải để trên miệng. Càng tránh nhắc đến câu “Tôi yêu bạn rất nhiều” càng tốt, như thế không có nghĩa là bạn không yêu người ta, mà vì bạn yêu quá nhiều, yêu thật lòng nên mới vậy.
Yêu nhiều, nên sợ làm tổn thương đến người mình yêu. Yêu nhiều, nên tự nguyện chịu đựng bị tổn thương. Yêu nhiều, nên mới dễ mắc sai lầm trong khi yêu.
Yêu là không có mục đích. Trong khi yêu , chúng ta thường không nhìn thấy khuyết điểm của đối phương, ưu điểm là ưu điểm và khuyết điểm cũng biến thành ưu điểm. Nhưng khi muốn vứt bỏ, thì tất cả mọi thứ đều biến đổi, sai là sai và đúng cũng biến thành sai 😀
love 8Tình yêu không bị kìm hãm bởi nước mắt, nhưng có thể bị kìm hãm bởi sự cảm động và thương xót.
Nền móng của tình yêu là sự tin tưởng lẫn nhau, yêu mà ghen ghét đố kị tức là bản thân đang nghi ngờ và không hài lòng .
Tình yêu không thể giảng giải bởi sự công bằng, nếu có thể tìm được sự công bằng thì đó không còn là tình yêu nữa. Bạn có thể tình nguyện vì người đó mà làm tất cả mọi điều, nhưng ngược lại bạn không thể yêu cầu người đó vì bạn mà làm bất kì điều gì. Bạn có thể không lỡ lòng rời bỏ người đó, nhưng khi bạn bị người đó bỏ rơi, bạn lại không thể trách rằng tình yêu không có tình.
Tình yêu không phải là một sự ép buộc, không phải là sự sở hữu, tình yêu thật ra rất mềm mại và nhẹ nhàng. Nếu bạn muốn có được người đó, vậy thì bạn nên để cho người đó được tự do: Nếu người đó quay trở lại bên bạn thì người đó là của bạn; Nếu người đó không muốn quay trở lại, thì bạn cũng nên vì tình yêu mà chúc phúc cho người đó được hạnh phúc.
Cuộc tình nào vụt đi một cách vội vàng cũng là cuộc tình đẹp nhưng cuộc tình nào làm cho bạn bị tổn thương càng nhiều thì đó lại là cuộc tình mà bạn đã gửi gắm những tình cảm sâu đậm và thật nhất vào trong đó.
Chúng ta có thể vượt qua được trăm nghìn nỗi đau, có thể chấp nhận sự đổ vỡ, sứt mẻ trong tình cảm nhưng không can tâm quên đi người mà mình đã từng yêu.
love 10Cãi lộn và làm phiền lẫn nhau không phải là cách để duy trì tình yêu. Có những lúc, sự nhẫn nại, âm thầm chịu đựng, giả như không còn yêu nữa…lại là cách tốt để giải quyết vấn đề.
Tình yêu là sự kết nối giữa yêu với yêu và sự phối hợp chặt chẽ giữa tình với tình, không cần lúc nào cũng như hình với bóng bên nhau.

Tình yêu không có nhân quả, tình yêu không có quy tắc, tình yêu không có đúng sai, tình yêu không bao giờ nhạt màu…..:D

Chúc các bạn một ngày nắng đẹp nhá.
Kiều Tố Uyên

Phật thuyết giảng về tình yêu

uyên 1Đá hỏi: Con đang nghĩ xem nên lấy người con yêu làm vợ hay tìm một ai đó yêu con làm vợ?
-Phật cười:Ta nghĩ câu trả lời thực ra nằm trong lòng của con. Con hãy thử nghĩ mà xem, trong những năm gần đây, người làm con vì tình yêu mà chết đi sống lại bao nhiêu lần, người làm con cảm nhận được sự phong phú của cuộc sống, người làm con không ngừng tiến lên phía trước là ai? Là người mà con yêu hay đó là người yêu con?
-Đá cũng cười: Nhưng các bạn của con đều khuyên con nên lấy người con gái nào đó yêu con làm vợ.
-Phật đáp: Nếu đúng thật là như vậy, thì cuộc đời của con có vất vả cũng không vì một mục đích nào hết. Ta biết thói quen của con là không ngừng hoàn thiện bản thân trong quá trình theo đuổi tình yêu. Giờ nếu con không theo đuổi người mình yêu nữa, thì con cũng không có cơ hội để hoàn thiện bản thân nữa đâu.
-Đá đáp lại lờit: Nếu như con đã chinh phục được người mà con yêu rồi thì sao? liệu có thể….
-Phật nói: Vì đó là người mà con yêu nhất, nên nếu làm người đó được hạnh phúc và vui vẻ thì đó là điều mà con sẽ cảm thấy hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mình. Cho nên, để người mà con yêu được hạnh phúc và đầy đủ hơn con sẽ càng ngày càng chăm chỉ hơn. Hạnh phúc và niềm vui là không có giới hạn, do đó sự chăm chỉ của con cũng là không có giới hạn, không bao giờ bị chặn lại cả.
-Đá đáp lời: Vậy thì con sẽ sống rất khổ?
-Phật nói: Đã bao nhiêu năm rồi, con có thấy con khổ không?
-Đá lắc lắc đầu và cười…

.
uyên 5-Đá hỏi: Nếu đã vậy, thì con có nên đối xử tốt một chút với người con gái yêu con không?
-Phật lắc đầu và trả lời: Liệu con có cần sự thương hại từ người con gái mà con yêu không?
-Đá cười tủm: Con nghĩ là con không cần.
-Phật nói: Con hãy nói lý do của con đi.
-Đá trả lời: Về tình yêu con có những yêu cầu hơi nghiêm khắc, con không muốn trong tình yêu của mình tồn tại sự đồng tình và thương hại, con muốn tình yêu mà cô ấy giành cho con xuất phát từ trái tim cô ấy. Mặc dù đồng tình, thương xót, khoan dung và nhường nhịn cũng là một hình thức yêu, những thứ tình cảm đó cũng đem lại cảm giác hạnh phúc, nhưng đối với con đó lại là điều mà con rất kỵ. Nếu trong tình yêu của cô ấy có tồn tại những tình cảm như vậy thì con thà chấp nhận việc cô ấy bỏ mặc con hoặc trực tiếp từ trối con hơn. Vì tình cảm thường theo vết chân thời gian sẽ càng ngày càng sâu đậm, và tuyệt vọng thường đến với ta một cách thực tế hơn là hy vọng, đau vì tuyệt vọng thường chỉ trong một thời gian nhất định còn đau vì hy vọng thì thường là vô hạn.
-Phật cười và nói: Tốt lắm, vậy là con đã nói đúng đáp án của ta rồi đấy.

.

uyên 9 -Đá hỏi: Tại sao trước đây khi yêu người con gái đầu tiên con luôn cảm thấy cô ấy là đẹp nhất trong mắt mình, vậy mà bây giờ khi yêu người con gái thứ hai này con lại thường xuyên phát hiện có rất nhiều người con gái khác còn đẹp hơn cả cô ấy?
-Phật hỏi: Con có chắc rằng con yêu cô ấy không? Và trên thế gian này con là người yêu cô ấy nhiều nhất không?
-Đá không chút ngần ngại gì liền đáp: Tất nhiên rồi ạ.
Phật nói: Ta chúc mừng con. Tình yêu của con dành cho cô ấy là tình yêu đã trưởng thành, lý trí, chân thành và sâu sắc rồi.
-Đá có vẻ kinh ngạc: Dạ?
-Phật liền nói: Con có thể yêu cô ấy nhiều đến vậy ngay cả khi con biết sự thực cô ấy không phải là người đẹp nhất trên thế gian này. Vậy là tình yêu của con đã vượt qua những bề mặt vật chất và cũng vượt qua cả năm tháng…Con đã yêu cả con người của cô ấy, chủ yếu là yêu tấm lòng có một không hai mà cô ấy giành cho con.
-Đá liền đáp lại: Thật vậy, con yêu sự thuần khiết và lương thiện của cô ấy, thương cái tính trẻ con của cô ấy..
-Phật và Đá cùng cười

Kiều Tố Uyên dịch từ Trung Văn

Mười năm nhìn lại

bo me

Mười năm trước chúng ta là những người con,
Mười năm sau chúng ta là những người cha, người mẹ.
Mười năm trước tôi không hiểu thế nào là mái ấm gia đình,
Mười năm sau tôi mới nhận thức được thế nào là một gia đình hạnh phúc.
Mười năm trước tôi khao khát được rời nhà đến một nơi thật xa,
Mười năm sau tôi lại khao khát được từ nơi xa quay trở về nhà.
Mười năm trước tôi thường hay tranh cãi với ba mẹ,
Mười năm sau tôi lại thèm được nghe ba mẹ mắng một lần biết nhường nào.

bo me 1
Mười năm trước tôi cứ nghĩ mình là một cái cây lớn,
Mười năm sau tôi mới hiểu mình chỉ là một ngọn cỏ bé nhỏ.
Mười năm trước tôi chỉ có thể lãng phí duy nhất một thứ là thời gian,
Mười năm sau tôi có thể lãng phí bất cứ thứ gì trừ thời gian.
Mười năm trước chúng ta có thể nói tuổi thanh xuân là vô hối,
Mười năm sau chúng ta chỉ có thể nói tuổi thanh xuân đã không còn.
Mười năm trước chúng ta có thể đùa cợt với cuộc đời,
Mười năm sau chúng ta lại bị cuộc đời đùa cợt lại.

Kiều Tố Uyên dịch từ Trung Văn.

Nàng Dây Leo và chàng Bạch Dương

Trong một khu vườn nhỏ có rất nhiều loài cây và hoa khác nhau. Nằm dưới lớp đất của khu vườn đó là một nàng hạt giống bé nhỏ sống thu mình trong chiếc vỏ đã khá lâu.
seed_germination
Vào một ngày xuân nọ, có một âm thanh rạn nứt từ đâu đó phát ra. Âm thanh này lúc đầu thật nhẹ nhàng rồi vụt tắt rất nhanh, nhưng bỗng dưng lại trội lên và mạnh hơn lần trước, như tiếng trống thúc giục nàng hạt giống hãy nhanh chân theo mình… Từ đó nàng hạt giống ngày đêm nỗ lực vận động để phá vỡ chiếc vỏ dầy và cứng của mình.

Sự chăm chỉ của nàng hạt giống không hề vô ích tẹo nào. Khi mùa xuân đã gần kết thúc, nàng đã kịp cắn rạn chiếc vỏ
để nhô lên một lá mầm.

Giờ nàng hạt giống đã trở thành một nàng dây leo bé nhỏ, nàng dây leo không chờ cho đến khi rễ của mình cắm sâu xuống dưới lòng đất, mà ngay lập tức đi tìm anh chàng hạt giống đã phát ra âm thanh khiến cho nàng phải vội vã đến vậy. Nàng phát hiện ra anh chàng đó cũng nằm trong khu vườn cùng với mình và cách không xa là mấy, nhưng giờ chàng hạt giống đó đã là một anh chàng Bạch Dương đẹp trai, cao lớn hơn mình đến nửa mét rồi, mà chân nàng lúc này lại bị mắc kẹt dưới một bức tường cao lớn.
birch-cutleaf-weeping
Vì để mình có thể lớn nhanh giống chàng, nàng dây leo đã ra sức vươn mình đón nắng và mưa. Mặc cho mưa gió, mặc cho các vết nứt của vỏ cứa vào bàn chân, mặc cho mặt tường chà trầy xước da và thân mình… nàng dây leo không hề than vãn đến một lời mà vẫn ngậm ngùi chịu đựng để mong mình nhanh chóng được cao bằng chàng.

Nàng vốn nổi tiếng là xinh đẹp và ít nói, nên gây được sự chú ý của rất nhiều anh chàng cùng khu vườn, nhưng dù là những lời nịnh hót của hoa hướng dương, hay những lời tỏ tình của cây kiếm lan thì nàng cũng không hề để tâm, thậm chí nàng còn cự tuyêt với họ…

Mùa đông đến, nàng dây leo đã cao được nửa mét, nhưng lúc này chàng Bạch Dương đã cao hơn bức tường mất rồi. Mùa đông này thật là dài và khắc nhiệt, nàng dây leo cố vươn những chiếc rễ gầy yếu của mình về phía Bạch Dương, nhưng vì nàng quá nhỏ bé nên chàng vẫn không hề biết gì về những nỗ lực và sự quan tâm mà nàng giành cho chàng. Không vì thế mà nàng dây leo nản lòng, thậm chí nàng còn mạnh mẽ hơn trước rất nhiều, trong mắt nàng lúc này không còn hình ành của một bức tường to lớn, không còn những cảm giác đau đớn của khe nứt sắc nhọn đang đâm vào thân hình bé nhỏ từ nhiều phía của mình nữa. Nàng cố dồn sức lực của mình vào những chiếc rễ để bò về hướng của chàng.
birch and ivy
Mùa xuân đến, cuối cùng những chiếc rễ gầy guộc của nàng cũng kịp chạm vào chàng, nàng quấn quanh chàng và lúc này Bạch Dương mới phát hiện ra trên thân nàng đầy những vết thương. Cảm động trước tình cảm mà nàng dành cho mình Bạch Dương đã dùng những chiếc rễ của mình một cách nhẹ nhàng và cẩn thận để che những vết thương trên thân nàng, rồi ôm trọn lấy nàng vào trong lòng mình.

Xuân đến rồi xuân đi, những tán lá do chàng phát ra đã che kín nửa khu vườn, chàng Bạch Dương bây giờ đã có thể xem thường tất cả các cây cối, hoa cỏ trong vườn. Nhìn vào thân hình cường tráng của chàng, rồi nhìn lại mình, nàng thấy nản lòng, buồn chán vì nghĩ rằng mình vĩnh viễn không thể cao lớn để sánh vai cùng chàng.

Bạch Dương ý thức được những tâm tư buồn chán của nàng, vì vậy chàng càng dồn tình thương yêu của mình vào những chiếc rễ để ôm lấy nàng chặt hơn. Được chàng tiếp sức và che chở, birchandivy3nàng mỗi ngày một cao hơn và to hơn, giờ nàng đã cao hơn chiếc tường và đã có thể cùng chàng lắng nghe tiếng líu ríu cười nói của làn gió, có thể cùng chàng ngồi đếm những đám mây trên bầu trời…

Vào một đêm nọ, cuồng phong bỗng nổi lên, những đợt cười dữ tợn của gió hướng về tấm thân gầy guộc của nàng, khiến cho nàng phải lắc lư và da thịt của nàng không ngừng cọ xát với bức tường, toàn thân nàng lại đầy những vết trầy xước. Sót xa khi thấy người mình thương yêu phải chịu đau đớn, chàng Bạch Dương đã cố làm giảm những đau đớn ấy bằng cách nghiêng hẳn người về phía của nàng, tập chung hết sức của mình vào những chiếc rễ để cuốn lấy nàng, để tiếp sức và cùng nàng chống chọi với những cơn gió lốc.

Những chiếc rễ của chàng giờ đây cuốn chi chít trên thân nàng, đến nỗi không thể phân biệt được đâu là rễ của chàng và đâu là rễ của nàng, chàng và nàng đã nhập làm một để cùng nhau chống lại cơn cuồng phong.

Cũng trong chính cái đêm mưa bão ấy, trong cái giây phút mà chàng và nàng đang phải đấu tranh từng giờ từng phút để chống trọi lại với sự giận giữ của gió, thì toàn bộ khu vườn bỗng tràn ngập một mùi hương thơm lạ lùng. Mùi hương này đã làm chàng thức tỉnh, chàng vội vàng đánh thức nàng để hai người cùng có thể tận hưởng giây phút lãng mạn này. Nhưng, Bạch Dương đã đứng lặng người khi trước mắt chàng lúc này là nụ cười đầy âu yếm của nàng, và tấm thân gầy guộc của nàng lại là vô số những nụ hoa bé bằng hạt gạo đang chứa đầy những mùi hương kỳ lạ đó.
IvyFlowers
Chàng lặng lẽ nhìn nàng, cảm động trước sắc đẹp của nàng, trước những vết nứt trên thân thể của nàng. Chỉ có chàng mới hiểu được rằng, nàng đã phải trả một cái giá đắt như thế nào cho ngày hôm nay, cho cái giờ phút thiêng liêng này. Và chàng thấy yêu những vết sẹo trên người nàng hơn bao giờ hết, chính những vết sẹo ấy là bằng chứng cho tình yêu mà nàng giành cho chàng.

Khi trời rạng sáng, người chủ nhà bước vào khu vườn của mình và đứng trước hai cái cây kỳ lạ này, họ nói với nhau: “cái cây dây leo này hoa của nó thật là thơm, chúng ta để lại đi, chỉ chặt cây Bạch Dương này thôi.”

Khi người chủ nhà dùng chiếc cuốc để rỡ bỏ rễ của hai cái cây, họ cảm thấy rất kì quặc vì làm thế nào cũng không thể tách chúng ra khỏi nhau.birchandivy2 Người chủ nhà đã không hiểu được rằng, đó chính là kết quả mà chàng Bạch Dương và nàng dây leo đã cố gắng vun đắp gây dựng. Trong tích tắc Bạch Dương đã bị người chủ nhà dùng chiếc quốc chặt ngang thân, khi chàng ngã đổ xuống toàn bộ cánh hoa của nàng dây leo đã trút xuống như một cơn mưa rào.

Qua vài ngày sau, người chủ nhà phát hiện nàng dây leo cũng chết theo, toàn thân nàng ngã nghiêng về phía gốc cây Bạch Dương còn sót lại trên mặt đất. Nhưng điều đó cũng không làm cho người chủ nhà hiểu nổi chuyện gì đang diễn ra trong khu vườn của mình, chỉ bạn và tôi là hiểu vì sao mà nàng dây leo lại chết phải không?

Chúc các bạn một ngày được yêu nhé,

Kiều Tố Uyên
(dịch từ Trung văn)

Lễ Vu Lan tại Trung Quốc

“Lễ Vu Lan” quen gọi là “Lễ ma quỷ”, vào 15/7 âm lịch, tương truyền là ngày quỷ môn quan mở cửa, nếu theo đạo giáo là ngày “中元节” tức “Lễ Trung Nguyên”, là ngày địa quan xá tội, và trong Phật giáo gọi là ngày “Lễ Vu Lan”, trong truyền thuyết thì lễ này được tính bắt đầu từ 1/7 âm lịch trở đi, trong những ngày này các du hồn, dã quỷ bắt đầu được phóng thích ra ngoài, họ có thể rời khỏi âm phủ để trở về trần gian một khoảng thời gian, để tiếp nhận những vật phẩm của người trần gian, đến 30/7 âm lịch thì quỷ môn quan lại bị đóng cửa và kì hạn của lễ ma quỷ cũng kết thúc tại đây. Thường người dân Trung Quốc không thích làm những việc trọng đại vào tháng này, đặc biệt là viêc cưới xin.
vulanchina
Nguồn gốc lễ Vu Lan

Truyền thuyết thứ nhất

Tương truyền phật tổ “释迦牟尼” tức “Thích Ca Mâu Ni” khi còn sống có thu nhập 10 đồ nhi, trong đó có một đồ nhi mang tên Mục Liên. vì mồ côi cha mẹ từ nhỏ nên Mục Liên thường hay quải niệm, tưởng nhớ đến mẹ của mình, do đó đã dùng phép “thiên nhãn thông” để xem cuộc sống dưới âm phủ của mẹ mình như thế nào, khi phát hiện ra mẹ mình phải chịu kiếp ma đói, không có gì để ăn, để uống, tình cảnh rất kham khổ… Mục Liên đã rất đau lòng, cố vận dụng pháp lực để đem đồ ăn chuyển xuống âm phủ cho mẹ mình, nhưng cứ mỗi khi thức ăn được đưa lên miệng liền lập tức biến thành than.
hungryghosts
Mục Liên thấy vậy càng sót mẹ hơn, liền đem câu chuyện kể với Thích Ca Mâu Ni, phật tổ sau khi nghe xong đã giảng giải cho Mục Liên hiểu rằng, vì khi còn sống mẹ của Mục Liên đã gây ra không ít những chuyện xấu nên khi chết đã bị đọa làm kiếp ma đói, dù có làm ma đói vạn kiếp cũng khó xóa được tội lỗi của bản thân, do đó một mình Mục Liên không thể giúp mẹ
mình hóa giải được tôi lỗi đó, mà phải cần tập chung lực lượng của rất nhiều người. Mục Liên nghe xong đã đi khắp nơi để mời các cao tăng cử hành đại lễ tế bái để giải thoát tội cho mẹ mình.

Về sau, câu chuyện này đã được lưu truyền cho các thế hệ sau và dần dần biến thành một phong tục của dân gian. Cứ mỗi năm đến tháng 7 âm lịch người dân đều giết gà vịt, thắp hương, đốt quần áo.. để cúng bái cho linh hồn của các ma đói, để hóa giải oán khí cho họ, để tránh khỏi bị ma đói hãm hại…. và dần dần đã hình thành nên phong tục của lễ ma quỷ.

Lễ hội ma quỷ
Lễ hội ma quỷ

Trong thư thượng có lưu lại rằng, trong ngày 15/7 âm lịch này, người dân thường dựng tọa pháp sư và thí cô đài ở đầu làng. Ở dưới chân của tọa pháp sư có bầy vương bồ tát cho các quỷ hồn dưới địa ngục, phía dưới bầy một đĩa đào tủ và gạo sống. Trên thí cô đài thì đặt 3 miếng linh bài và chiêu hồn phiên. Đến quá trưa, các hộ gia đình đem các đồ cúng bái (thường là cả con lợn, con gà, con dê hay ngan ngỗng…đã được chế biến chín, hoa quả, tiền vàng…) đem bầy đặt lên trên thí cô đài. Người chủ sự sẽ cắm lên mỗi đồ cúng một lá cờ giấy ba cạnh được làm bằng các màu sắc khác nhau, như màu xanh lam, hồng, xanh lục… phía trên những lá cờ này thường ghi “Vu Lan thịnh hội” hoặc “Cam lộ môn khai”… Nghi thức của buổi lễ rất trang nghiêm, sau khi tiếng chuông ngân lên các tăng nhân cùng tụng niệm các chủng chú ngữ và chân ngôn. Sau đó tiến hành nghi thức phân phát lương thực, đem đĩa đào tử và gạo sống tung ra bốn phía , lặp đi lặp lại khoảng 3 lần.
hungryghostfestival
Loại nghi thức này được gọi là “phóng diễm khẩu”. Vào thời nhà Thanh văn nhân Vương Khải Thái đã từng có câu thơ: “đạo trường phổ độ thỏa u hồn , nguyên hữu vu lan cổ ý tồn . Khước quái hồng tiên thiếp môn thủ, nhục san tửu hải khánh trung nguyên “, tức miêu tả phong tục tập quán vào ngày lễ Vu Lan của người dân phía đông nam duyên hải TQ.

Cho đến nay người phía Bắc Trung Quốc vào ngày 15/7 vẫn thường có phong tục đốt tiền giấy để tưởng nhớ đến tổ tiên của mình. Mặc dù phương thức cúng bái có vẻ đơn giản hơn nhiều so với trước nhưng vẫn giữ được những ý nghĩa cơ bản của ngày lễ ma quỷ.
vulanfestival
Trong ngày lễ Vũ Lan, người dân của từng vùng có thể thông qua nhiều hình thức khác nhau để thể hiện tấm lòng hiếu thuận của mình với tổ tiên , có nơi thì đốt tiền giấy, có nơi thả đèn hoa đăng…nhưng dù dưới hình thức nào đi nữa thì ta cũng có thể thấy lễ Vu Lan xuất phát từ tâm linh và truyền thống hiếu thảo của thế hệ con cháu đối với tổ tiên cội nguồn của mình.

Truyền thuyết thứ hai

Liên quan đến lai lịch của của ngày lễ Vu Lan hiện có rất nhiều truyền thuyết khác nhau, ví dụ như truyền thuyết “Địa Tạng Bồ Tát” ngày nay gọi là truyền thuyết “Diêm Vương gia”. Mẹ của Diêm Vương khi sống vì gây nhiều tai họa nên sau khi qua đời đã bị nhốt trong lao phòng và chịu sự giày vò của mười tám tầng địa ngục. hungryghostĐịa Tạng Bồ Tát là một người con hiếu thuận, khi tận mắt nhìn thấy cảnh mẹ của mình phải chịu tội, Địa Tạng Bồ Tát cảm thấy rất đau lòng và quyết tâm tìm
mọi cách để cứu giúp mẹ mình. Trong ngày 15 tháng 7 âm lịch nhân tiện cơ hội xuống thăm mẹ, Địa Tạng Bồ Tát đã tìm cách mở khóa để mẹ chạy thoát, nhưng Địa Tạng Bồ Tát không ngờ rằng khi cửa vừa được hé mở toàn bộ số quỷ trong ngục đã chạy thoát về trần gian và gây tội ác cho dân chúng, chủ yếu là về quê cướp tiền bạc về âm phủ để tiêu hoặc để
biếu xén người quản ngục,mong được sớm trở về trần gian…. Do đó, trong dân gian từ lâu đã có tư tưởng là:”七月半,鬼乱窜” tức “thất nguyệt bán, quỷ lọa thoán”, nghĩa là vào ngày 15/7 âm lịch ma quỷ hay gây rối. Từ đó ngày này được gọi là “Lễ ma quỷ”

Trong ngày lễ ma quỷ này, người dân thường đốt tiền giấy, đồ mã để cung cấp phẩm vật cho vong linh người thân dưới âm phủ.

Thường người Hoa coi ngày 15/7 âm lịch là ngày lễ chính cho Lễ Vu Lan, vì đó là ngày mở cửa của quỷ môn, vào ngày này âm khí rất nặng, do đó vào tối ngày 15/7 nên tránh đi ra ngoài để tráng gặp quỷ. Ngoài ra tốt nhất không nên đứng gần ao hồ hay ven biển..để tránh ngã xuống lại thành vật thế thân cho ma nước. Cũng không nên nói những câu nói không có lợi hay đắc tội với linh giới để tránh gây nên âm linh.

Kiều Tố Uyên
Hồ Nam, Trung Quốc

Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần một và hai

Chào các bạn,

Trong bài viết Lâm Tắc Từ và các chính sách diệt trừ thuốc phiện của Hổ Môn, chắc các bạn vẫn còn nhớ về những thắng lợi
của Lâm Tắc Từ và những tổn thất nặng lề của các thương nhân Anh trong việc buôn bán thuốc phiện tại cửa khẩu Hổ Môn chứ. Hôm nay mình sẽ giới thiệu tiếp với các bạn về những phản ứng từ bên phía chính phủ Anh trước vụ việc này nhé:
CTNP1
6/1840 Anh quốc đã phái 48 chiếc thuyền chiến được trang bị 540 khẩu súng đại bác đến ven biển Quảng Đông, phát động chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc lần thứ 1.

Dưới sự chỉ đạo của chính phủ Anh, Viễn Chính Quân đã phong tỏa cửa khẩu Quảng Châu, Hạ Môn (nay thuộc Phúc Kiến)…, ngăn chặn các hoạt động buôn bán thương mại với các nước trên thế giới của TQ. Vì Lâm Tắc Từ và người dân Hổ Môn Quảng Châu đã có sự chuẩn bị đề phòng nghiêm ngặt ngay từ đầu nên quân Anh chỉ có thể xâm phạm ven các hải cảng
trên phía bắc TQ, đến tháng 7 quân Anh chính thức công kích vào Chiết Giang và định quân tại đây, coi đây là cứ điểm tiến quân đầu tiên của mình.
ctnp2
Trước tình hình đó hoàng đế Đạo Quang tỏ ra sợ hãi, liền ra lệnh cho tổng đốc Kỳ Thiện với vai trò đại thần khâm sai đến gặp quân Anh để đàm phán, với mục đích đề nghị quân Anh rút quân về Quảng Châu và hứa sẽ có những hình phạt đích đáng để trừng trị Lâm Tắc Từ. Sau khi Quân Anh rút về Quảng Châu, Lâm Tắc Từ lập tức bị bãi chức thành dân thường.

1/1841, quân Anh tỏ ra không thỏa mãn với những đàm phán trên và triển khai lực lượng chiếm lĩnh Hồng Kông. Chính phủ TQ bị ép buộc phải tuyên chiến, đồng thời phái đại thần Dịch San đến Quảng Châu để chỉ huy.
ctnp3
Tháng 2, quân Anh tấn công mạnh vào pháo đài Hổ Môn, đề đốc Quan Thiên Bồi mặc dù không có quân cứu viện vẫn anh dũng chiến đấu đến cùng. Sau khi Pháo đài Hổ Môn đã bị quân Anh thâu tóm, Quan Thiên Bồi và các tướng sĩ của mình đã
dùng dao để quyết chiến với quân địch, nhưng cuối cùng tất cả đều hy sinh một cách anh dũng. Tháng 5, quân Anh tấn công sâu vào thành phố Quảng Châu, Đại thần Dịch San vì sợ chết nên lập tức giơ cờ trắng đầu hàng.

Sau khi công kích vào Quảng Châu quân Anh đã có rất nhiều hành động độc ác và thủ đoạn, đồng thời còn kích động nhân dân TQ phản động lại triều đình Thanh. Trước tình hình đó rất nhiều người dân Quảng Châu đã tự tập hợp lại thành một tổ chức để chống chọi với quân xâm lược, bảo vệ quê hương, đem lại cho quân Anh không ít phiền toái.
ctnp4
Chính phủ Anh cho rằng những chiến công mà Nghĩa Luật đạt được tại đất Quảng Châu là quá ít nên đã thay Nghĩa Luật bằng tướng Henry Pottinger (đại diện cho đặc quyền của Anh tại TQ). Henry Pottinger đã dẫn theo 37 tàu chiến, cùng với 2500 lục quân rời khỏi Hồng Kông, công phá Hạ Môn của Phúc Kiến, sau đó 1/10 tiến vào Chiết Giang công phá Định Hải,
10/10 xâm nhập Trấn Hải (nay thuộc Ninh Ba), 13/10 chiếm lĩnh Ninh Ba. Vì lúc này quân Anh binh lực không còn đủ mạnh nên quyết định tạm dừng chân tại đây, chờ quân tiếp viện từ phía chính phủ Anh.

Trong lần mở rộng xâm chiếm này của quân Anh thì Cát Vân Phi được coi là đại biểu cho quân dân yêu nước đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do vũ khí quá lạc hậu và thiếu thốn, lại công thêm sự thối nát của triều đại lúc bấy giờ do đó các cuộc chỉ huy đều không được thuận lợi, dẫn đến những thất bại liên tiếp trước quân xâm lược Anh.
ctnp5
6/1842 quân Anh tiếp tục tấn công vào khẩu Ngô Tùng của Thượng Hải, lão tướng Trần Hóa Thành (gần 70 tuổi) đã chỉ huy quân dân tiếp trận, mặc dù bị trọng thương nhưng vẫn cố giương cờ chỉ huy quân của mình cho đến khi chết. Ngô Tùng sau khi đã bị chiếm lĩnh, quân Anh tiếp tục xâm nhập vào các khu vực ven sông Trường Giang, đến tháng 8 thì đánh vào Nam Kinh. Trước sự tấn công như vũ bão của quân Anh triều đình Thanh hoang mang lo sợ và trong một thời gian rất ngắn đã đầu hàng. Và đồng ý ký kết hiệp ước Nam Kinh (bán quyền lợi của dân tộc Trung Hoa), nội dung bao gồm: Triều đình nhà Thanh phải bồi thường 2100 vạn ngân lượng cho chính phủ Anh, nhượng đảo Hồng Kông, khu vực mới mở rộng của
Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải…

Đây được coi là điều ước không bình đẳng mà quân ngoại quốc đã ép buộc Trung Quốc phải ký kết. Trung Quốc từ đây trở thành một đất nước nửa thuộc địa nửa phong kiến.

Liệu chính phủ Anh có thỏa mãn với hiệp ước Nam Kinh thôi không? Liệu người dân TQ có chống đỡ nổi sự chèn ép, áp bức của quân Anh không?…

Mời các bạn theo dõi trong phần giới thiệu sau của mình nhé.

Chúc các bạn một ngày vui.

Kiều Tố Uyên

Kiến trúc nhà vào thời cổ của người Hoa

Vì Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn bao la, lại là một đất nước nhiều dân tộc, mỗi một vùng miền điều kiện khí hậu và thói quen trong cuộc sống sinh hoạt đều không giống nhau. Do đó, phương thức và phong cách xây dựng nhà ở của từng vùng, từng dân tôc cũng mang những nét đặc sắc riêng, hình thành lên phong cách muôn màu muôn vẻ của một quốc gia đại dân tộc.

Trong các kiểu định cư của người Trung Quốc, thì nổi bật nhất là Tứ Hợp Viện của Bắc Kinh, Dao Động của cao nguyên Hoàng Thổ nằm về phía Tây Bắc của Trung Quốc, hay “Mông Cổ Bao” của thảo nguyên Nội Mông Cổ, và các kiến trúc Thổ Lầu của dòng họ Khách Gia tại Phúc Kiến và Quảng Đông.

Tứ hợp viện
Tứ hợp viện

Bắc Kinh Tứ Hợp Viện

Trong các ngõ phố dù lớn hay nhỏ tại Bắc Kinh bạn luôn có thể tìm được các kiểu nhà có kiến trúc sân sướng được bao quanh bốn phía bởi các gian phòng, đây được gọi là Tứ Hợp Viện. Đại Môn của Tứ Hợp Viện thường được đặt tại góc Đông Nam hoặc góc Tây Bắc.

Trong Tứ Hợp Viện thì Bắc phòng được coi là Chính phòng. Chính phòng thường được xây dựng trên nền gạch đá, có quy mô lớn hơn các gian phòng khác, dùng làm nơi ở cho chủ nhân.

Hai bên của chính phòng là các dãy Chái phòng (gồm đông phòng và tây phòng) là nơi ở của bậc con cháu.

Nam phòng thì dành cho bậc tôi tớ và các gian chứa vật dụng sinh hoạt. Giữa Chính phòng và Chái phòng thường có hành lang thông nhau để phục vụ cho việc đi lại và nghi ngơi. Tại Bắc Kinh có rất nhiều Tứ Hợp Viện với các quy mô lớn nhỏ khác nhau, nhưng dù là lớn hay nhỏ thì đều được xây dựng theo một quy cách chung là lấy sân sướng làm trung tâm và bốn mặt là các gian phòng.

Tứ Hợp Viện có cấu trúc đơn giản là chỉ có một vườn nhỏ, còn những Tứ hợp Viện phức tạp thường được xây dựng từ hai đến ba sân vườn trở lên. Nơi ở của quan lại thời xưa thường được xây dựng với quy mô rất lớn, được hợp thành bởi nhiều Tứ Hợp Viện và sân vườn khác nhau. Bao quanh Tứ Hợp Viện là các bức tường được xây dựng khá cao và dầy, các cửa sổ của Tứ Hợp Viện thường tránh đặt đối diện với các cửa sổ của Tứ Hợp Viện gần đó. Không gian của Viện được tách biệt hẳn với cuộc sống bên ngoài và rất yên tĩnh, rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi.

Dao động (mặt ngoài)
Dao động (mặt ngoài)

Dao Động
Dao động (mặt trong)
Dao động (mặt trong)

Dao động

Khúc trên của sông Hoàng Hà là dải cao nguyên Hoàng Thổ, những người sống tại cao nguyên Hoàng Thổ thường lợi dụng những tầng đất với tính năng vừa sâu vừa dầy, hình lập thể ….để xây dựng kiểu nhà rất đặc biệt với cái tên Dao Động.

Dao Động lại phân thành nhiều loại khác nhau ví dụ như: Thổ Dao, Thạch Dao, Chuyên Dao… Thổ Dao là loại Dao Động được đào khoét từ các sườn núi, loại dao Động này mùa đông thì ấm mùa hè thì mát mẻ, bảo nhiệt và cách âm hiệu quả rất tốt. Còn Thạch Dao và Chuyên Dao có kiến trúc rất kiên cố và mỹ quan, đầu tiên là dùng các tảng đá lớn hoặc các viên gạch với kích cỡ lớn đem xếp thành động nhô trên mặt đất, sau đó dùng hoàng thổ đắp một lớp thật dầy lên trên.

Vì xây dựng Dao Động không cần các nguyên vật liệu như sắt thép, xi măng, do đó giá thành xây dựng rất thấp. Cùng với sự tiến bộ của xã hội, con người đã không ngừng cải tạo trong kiến trúc xây dựng Dao Động, do đó tại cao nguyên Hoàng Thổ các kiểu nhà Dao Động với tính năng mùa đông thì ấm mùa hè thì mát đã càng ngày càng đẹp và phổ biến hơn trước.

Khách gia thổ lầu
Khách gia thổ lầu

Khách Gia Thổ Lầu

Thổ Lầu là kiến trúc nhà ở rất phổ biến tại Quảng Đông và Phúc Kiến, tổ tiên của người Khách Gia là những người dân tộc Hán, cách đây khoảng 1900 năm đã di cư từ khúc dưới của sông Hoàng Hà đến phía Nam sinh sống.

Vì để tránh những quấy nhiễu và bảo vệ an toàn cho đại gia đình, người Khách Gia đã sáng tạo ra loại nhà ở với kiến trúc rất đồ sộ gọi là Thổ Lầu. Một tòa Thổ Lầu có thể chứa cả một dòng họ gồm mấy chục hộ gia đình, mấy trăm người.

Thổ Lầu có kiến trúc hình tròn, cũng có kiến trúc hình vuông… Trong đó, đặc sắc nhất vẫn là kiến túc Thổ Lầu hình tròn, do hai đến ba vòng hợp thành, vòng ngoài cao khoảng 10 mét, có khoảng 100 đến 200 gian phòng, đây là khu dành để ở, vòng thứ hai có hai tầng, thường bố trí phòng khách tại đây, ở giữa là Tổ Đường, có thể dung nạp khoảng vài trăm người cùng tham gia các hoạt động chung của dòng họ. Trong Thổ Lầu có giêng nước, phòng tắm, nhà vệ sinh…có thể coi đây là một thành phố nhỏ.

Khách Gia Thổ Lầu có quy mô to lớn và rất đặc biệt. Về mặt thiết kế và sáng tạo đều rất khoa học, tính thực tiễn cao.. được mệnh danh là “土宫殿” tức “Thủ Cung Điện”, được các các kiến trúc sư trong và ngoài nước đánh giá rất cao.

Kiều Tố Uyên
Hồ Nam, Trung Quốc

Tam Quốc – Nhị Tấn – Nam Bắc Triều

Hôm nay mình chọn viết về chủ đề này vì sau khi theo dõi chương trình Nhịp Cầu Hán Ngữ được tổ chức tại thành phố Trường Sa TQ vào tháng 7 vừa rồi, có rất nhiều bạn trẻ đã gặp vướng mắc trong phần hiểu biết về giai đoạn nội chiến, chia rẽ và dung hòa của các dân tộc,các nước phong kiến vào thời kì Tam Quốc-Nhị Tấn-Nam Bắc Triều. Bài viết này mình chủ yếu cung cấp các cột mốc thời gian, và tóm tắt sự thiết lập, chia rẽ của các triều đại. Lần thi thứ 8 vừa rồi có rất nhiều câu hỏi liên quan đến mảng thời gian, vì vậy bạn nào có ý định tham gia nhịp cầu Hán Ngữ vào năm 2010 nên lưu ý một chút nhé, mong rằng đội tuyển Việt Nam sẽ dành được kết quả tốt hơn trong năm tới.

Tam Quốc:  Trên cùng (màu lá cỏ)--Ngụy; Duới bên trái (màu nâu)--Thục; Dưới bên phải (màu lục)--Ngô
Tam Quốc: Trên cùng (màu lá cỏ)--Ngụy; Duới bên trái (màu nâu)--Thục; Dưới bên phải (màu lục)--Ngô

Tam Quốc-Nhị Tấn-Nam Bắc Triều hay còn gọi là Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, bắt đầu từ năm 220 Tào Phi lên ngôi đế vương đến năm 589 Tùy diệt Trần thống nhất toàn quốc, kết thúc 360 năm chia rẽ và cai trị của các lãnh chúa.

Năm 220 Tào Phi thiết lập Ngụy quốc, năm 221 Lưu Bị thiết lập Thục quốc, năm 222 Tôn Quyền thiết lập Ngô quốc, hình thành lên Ngụy, Thục, Ngô tam quốc độc lập chia rẽ . Đô thành của tam quốc phân biêt nằm tại Lạc Dương, Thành Đô, và Nam Kinh.

Tào Tháo (bố Tào Phi, vua đầu tiên của nước Ngụy)
Tào Tháo (bố Tào Phi, vua đầu tiên của nước Ngụy)

Năm 263, Ngụy quốc diệt Thục quốc.

Năm 265 đại thần của Ngụy quốc Tư Mã Viêm cướp đoạt chính quyền nước Ngụy và lên ngôi hoàng đế, thiết lập Tấn triều, định đô thành tại Lạc Dương, và trong lịch sử gọi giai đoạn này là Tây Tấn.

Đến năm 280, Tư Mã Viêm diệt Ngô quốc, kết thúc thời kì chia cắt của tam quốc. Mặc dù thời kỳ này tương đối ngắn nhưng lại được đánh giá là thời kỳ đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Tây Tấn chỉ thống nhất tam quốc trong một thời gian ngắn, đến năm 316 Tây Tấn bị một dân tộc thiểu số tiêu diệt, Trung Quốc lại lâm vào giai đoạn chia cắt mới.

Tượng Lưu Bị (nước Thục) tại đền thờ ở Tứ Xuyên
Tượng Lưu Bị (nước Thục) tại đền thờ ở Tứ Xuyên

Năm 317, Tư Mã Nhuế của Tấn Vương Thất lên ngôi, thiết lập Đông Tấn Vương Triều, thành đô đóng tại Nam Kinh. Đồng thời, một vài dân tộc thiểu số di chuyển đến lưu vực sông Hoàng Hà cũng lần lượt thiết lập những vương quốc nhỏ riêng của mình. Thời kỳ phân cắt, chia rẽ kéo dài hơn 130 năm của các dân tộc phía Bắc trong lịch sử gọi là thời kỳ “thập lục quốc“.

Năm 439, chính quyền Bắc Ngụy do một vài dân tộc thiểu số thiết lập đã thống nhất toàn phía Bắc. Về sau, đế vương Lý Văn của Bắc Ngụy đã tiến hành cải cách, quy định các dân tộc thiểu số phải học hỏi các chế độ, ngôn ngữ, cách ăn mặc…của dân tộc Hán, thúc đẩy sự dung hòa giữa các dân tộc phía Bắc. Nhưng được một thời gian thì chính quyền Bắc Ngụy lại bị chia rẽ thành Đông NgụyTây Ngụy, tiếp theo đó là Bắc Tề thay thế Đông Ngụy, Bắc Chu thay thế Tây Ngụy. Trong lịch sử đã gộp 5 triều đại của phía Bắc trên thành Bắc Triều.

Tôn Quyền (nước Ngô)
Tôn Quyền (nước Ngô)

Sau thời Đông Tấn Vương Triều, phía Nam vào những năm 420 đến năm 589 trong khoảng 170 năm trở lại đã trải qua bốn triều đại thống trị là: Tống, Tề, Lương, Trần, thành đô của các triều đại này đều đóng tại Nam Kinh, và lịch sử gọi giai đoạn này là Nam Triều.

Vì Nam Triều và Bắc Triều cùng tồn tại vào một thời kỳ nên lịch sử gọi đây là thời kỳ Nam Bắc Triều.

Vào thời kỳ Tam quốc về các mảng chính trị, kinh tế, ngoại giao… mỗi cường quốc đều có những nét đặc sắc riêng, đồng thời xuất hiện các chính trị gia kiệt xuất như Tào Tháo, Gia Cát Lượng…

Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị
Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị

Thời kỳ Tam Quốc-Nhị Tấn-Nam Bắc Triều cũng xuất hiện rất nhiều các tư tưởng gia, quân sự gia, văn học gia, họa gia, thư pháp gia, các nhà khoa học nổi tiếng… như: Lưu Bị, Lưu Thiên, Tào Tháo, Tào Phi, Tư Mã Siêu….

Kiều Tố Uyên
Hồ Nam, Trung Quốc

Nguồn gốc của môn chơi thả diều

Có thể nói, các môn giải trí dân gian là một trong những yếu tố mang tính văn hóa truyền thống cao đẹp của mọi dân tộc. Sự tồn tại của nó đã đem lại cho con người những khoảnh khắc thăng hoa, giúp người già như trẻ lại, người lao động trở nên yêu đời hơn sau những giờ làm việc căng thẳng, và góp phần quan trọng trong việc giúp cho trẻ em có những giây phút thư giãn. Hôm nay mình muốn giới thiệu với các bạn đôi chút về nguồn gốc của trò chơi thả diều nhé:
dieu1
Thú thả diều có nguồn gốc từ nghệ thuật làm mo vào thời cổ đại của người Trung Quốc. Nghe nói, chiếc diều đầu tiên xuất hiện là vào thời kỳ Xuân Thu (cách đây khoảng hơn 2000 năm) do người thợ có tên Lỗ Ban dùng gỗ chế tạo thành, thời đó cũng đã có sự xuất hiện của diều được làm bằng trúc và đến thời nhà Hán thì có sự xuất hiện của Diều được làm bằng giấy, được gọi là “纸鸢” tức “chỉ diên” (diều hình chim diều hâu), nhưng không được phổ biến rộng rãi cho lắm, do nghành giấy lúc này mới bắt đầu hình thành.

Vào thời cổ đại, cứ mỗi dịp tết Thanh Minh đến, sau khi đã làm lễ cúng bái tổ tiên, người dân Trung Quốc đều có phong tục thả diều. Người xưa cho rằng, thả diều có thể xua đuổi tà khí và những điều rủi ro, xúi quẩy. Họ ghi hết tên những loại bệnh dịch nguy hiểm lên trên thân diều, sau khi đã thả cho diều bay thật cao sẽ dùng kéo cắt đứt dây. Họ muốn nhờ gió đưa diều đến chân trời góc biển và đem theo những loại bệnh dịch này cách xa con người, tránh cho con cháu của họ thoát khỏi bệnh tật…Không những vậy diều còn được các nhà sư dùng với ý nghĩa cầu sự yên bình tốt lành, do đó mỗi lần diều rơi các nhà sư đều làm lễ cúng bái để xua đuổi tà khí và cầu an. Hay diều còn được coi là vật dâng hiến các đấng thần linh của vua và các quần thần trong những đêm trăng sáng….
dieu2
Cùng với sự phát triển của thời đại, ý nghĩa của việc thả diều cũng dần dần thay đổi. Trong lịch sử, diều đã từng được dùng trong quân sự, hay để đưa tin tức…, có rất nhiều sử sách tư liệu đều nhắc đến việc khi quân của Hạng Vũ bị quân của Lưu Bang bao vây,tướng quân Hàn Tín (thời nhà Hán) đã dùng diều được làm bằng da trâu để thả lên trời, dựa vào độ dài của dây diều để ước tính khoảng cách đến Vị Ương Cung (nơi đang bắt giữ quân của Hạng Vũ)…

Đến giai đoạn giữa của nhà Đường (nền kinh tế lúc này phát triển phồn vinh ổn định), từ chức năng dùng trong quân sự diều đã được dùng trong việc giải trí, tiêu khiển…. Đồng thời cùng với sự phát triển của nghành giấy, nguyên liệu chế tạo diều từ gỗ, trúc, da trâu…cũng dần chuyển biến hoàn toàn sang chất liệu giấy. Diều đã dần dần đi sâu vào cuộc sống của người dân, và góp phần làm đa dạng, phong phú cho cuộc sống của họ.
dieu3
Đến thời nhà Tống, diều được lưu truyền càng ngày càng rộng rãi hơn, trở thành trò chơi phổ thông của trẻ con. Đồng thời do nhu cầu của xã hội về diều càng ngày càng cao, nên việc chế tạo diều đã trở thành một ngành nghề được người dân công nhận.

Đến thời kì Minh Thanh, diều phát triển đến mức tột đỉnh. Từ kích cỡ, hình thức, kỹ thuật chế tạo, cách buộc dây lèo, nghệ thật hình họa, nghệ thuật âm thanh… đều tiến bộ vượt bậc so với các thời đại trước. Thời này đã bắt đầu dùng bản gỗ niên hoa để in các hình họa trên giấy làm thân diều, các nguyên liệu giấy thì rất đa dạng gồm: giấy thiếp, giấy chạm nổi, giấy tiễn…về âm thanh cũng có chuyển biến lớn, ở các thời đại trước chỉ dùng dây lèo mỏng gắn trên đầu diều, nhờ gió thổi sẽ phát ra âm thanh nghe giống tiếng đàn cổ, nhưng đến thời này thì người dân ở khu vực ven biển còn buộc thêm hồ lô…làm thành còi trên thân diều, khi thả diều sẽ phát ra âm thanh rất vui nhộn và to, cách đó vài mét đều có thể nghe thấy. Vào thời Minh Thanh cũng có rất nhiều văn học gia, họa gia đều lấy diều làm đề tài để sáng tác tác phẩm của mình, ví dụ như họa gia Từ Vị (Công nguyên 1521-1593) đã vẽ hơn 30 bức họa chuyên về diều và hiện các tác phẩm của ông vẫn còn được lưu giữ tại bảo tàng lịch sử Trung Quốc.
dieu4
Tại Bắc Kinh, Thiên Tân, Sơn Đông, Tô Giang, Quảng Đông Dương Giang…là những nơi có nhiều xưởng sản xuất diều nổi tiếng của Trung Quốc. Các loại diều được chế tạo rất đa dạng, gồm có các loại hình họa về động vật như: gia cầm, sâu bọ, cá.. trong đó thường gặp nhất là hình chim yến, bướm, chuồn chuồn…cũng có các loại diều về các nhân vật thần thoại như Tôn Ngộ Không, hay các loại diều dạng chuỗi dài như hình con rết, hình rồng…Chế tạo diều, cần phải có nghệ thuật rất tinh xảo, người thả diều cũng cần phải có kỹ xảo riêng, có như vậy mới làm cho diều bay một cách vững trãi và tự do trên trời.

Thả diều hiện nay được coi là một hoạt động thể thao có lợi cho sức khỏe. Người dân Trung Quốc không chỉ coi thả diều là một hoạt động thể thao giải trí, mà còn dùng diều để treo trên tường, coi như một nghệ thuật trang trí và để thưởng thức. Hiên nay, diều của Trung Quốc đã được vận chuyển đến Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, Âu Mỹ…và nhận được sự chào đón,ưa thích của rất nhiều người dân trên thế giới. Mấy năm gần đây, tại Sơn Đông hàng năm đều tổ chức lễ hội thả diều và có sự tham gia của rất nhiều nước trên thế giới, do đó, có thể coi Trung Quốc là quê hương và xứ sở của diều.

Kiều Tố Uyên
Hồ Nam, Trung Quốc

Văn hóa Đỉnh và Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh

Trong xã hội nguyên thủy (cách đây khoảng 7000 năm về trước) đã có sự xuất hiện của Đỉnh được làm bằng gốm sứ, nhưng vào thời đó Đỉnh chỉ được coi là một dụng cụ để đựng đồ ăn phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân Trung Quốc.

Đỉnh Thanh Đồng
Đỉnh Thanh Đồng

Đến thời kỳ Tây Chu và nhà Thương Đỉnh được cải tiến một các vượt bậc và phát triển thành “神器” tức “thần khí”: đồ thờ cúng Thiên đế và tổ tiên (lúc này Đỉnh được chuyển sang làm bằng đồng và gọi là Đỉnh Thanh Đồng). Mặt trong của Đỉnh được bao phủ bởi một lớp màu thần bí và uy nghiêm, do đó vào thời này Đỉnh chuyển thành vật tượng trưng cho vương quyền,cho danh phận của giai cấp quý tộc. Trong tiếng hán tồn tại một vài ngôn từ có quan hệ mật thiết với Đỉnh và biểu đạt ý nghĩa tương tự, ví dụ như: “问鼎” tức “Vấn đỉnh” chỉ lập mưu đồ để cướp chính quyền, hay “一言九鼎” tức “Nhất ngôn cửu đỉnh ” chỉ những ngôn luận mang tính chất quyết định…
dinhdong2
Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh gọi tắt là Tư Mẫu Mậu Đỉnh, là đồ đúc vào thời kì cuối của nhà Thương (trước Công Nguyên thế kỷ 14 đến trước Công Nguyên thế kỷ 11) cách đây khoảng 3000 năm lịch sử, là bảo vật quý hiếm được phát hiện tại An Dương Hà Nam Trung Quốc vào năm 1937 và hiện đang được lưu giữ tại viện bảo tàng lịch sử Trung Quốc.

Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh là do đế vương Văn Đinh (thời nhà Thương) cho thợ đúc để thờ cúng mẫu vương mẹ của mình. Mặt trong của Đỉnh được khắc chữ Tư Mẫu Mậu, và theo giải thích của các nhà khảo cổ học thì chữ “司” tức “Tư” mang ý nghĩa thờ cúng, chữ “母戊” tức “Mẫu Mậu” là chỉ mẫu vương Văn Đinh. Do đó Đỉnh được mang tên “司母戊” – “Tư Mẫu Mậu”.

Hiện Tư Mẫu Mậu Đỉnh đang được coi là Thanh Đồng khí được phát hiện có kích thước lớn nhất trên thế giới: nặng 875kg, cao 1.33m, dài 1.1m, rộng 0.79m, các nhà khảo cổ học ước chừng cần khoảng 1000kg kim loai và 200 đến 300 công nhân cùng lúc thao tác mới có thể đúc thành. Các đường nét hoa văn được khắc trên Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh rất tinh vi, đặc biệt là hình hai con Rồng và Hổ đang há to miệng, trên miệng mỗi con đều đang ngậm một đầu người. Có rất nhiều ý kiến tranh luận về ý nghĩa của các hình họa này, nhưng đa phần đều cho rằng, nghệ thuật khắc này là biểu hiện sức mạnh của tự nhiên và các vị thần.

Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh
Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh

Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh đầu tiên là do một người dân đào được, nhưng do lúc đó đang có chiến tranh với nước Nhật, vì sợ bị quân Nhật cướp đi nên người dân đã đem Tư Mẫu Mậu Đỉnh chôn lại trong đất.

Đến tháng 6 năm 1946 Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh lại được đào lên và vận chuyển đến Nam Kinh làm quà tặng cho lễ thọ 60 tuổi của Tưởng Giới Thạch. Sau đó, chính phủ quốc dân đảng muốn vận chuyển Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh về Đài Loan để cất giữ nhưng vì khối lượng của Đỉnh quá lớn, vận chuyển khó nên ý tưởng đó đã không thực hiên được.

Sau khi nhà nước Trung Quốc mới được thành lập, năm 1959 người dân đã chuyển Tư Mẫu Mậu Phương Đỉnh từ Nam Kinh về Bắc Kinh, cất giữ tại bảo tàng lịch sử Trung Quốc.
 
Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Tự Miếu (chùa Phật giáo) tại Trung Quốc

Trung Quốc là một quốc gia nhiều tôn giáo, vừa có đạo giáo bản địa lại vừa có các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào như Phật Giáo, Hồi Giáo, Đạo Cơ Đốc..Các kiến trúc xây dựng của Đạo Giáo gọi là “宫” tức “Cung” hoặc “观” tức “Quán-miếu đền”, Hồi Giáo có Thanh Chân Tự, Cơ Đốc GIáo có Giáo Đường. Còn Tự Miếu, Phật Tháp, chùa được xây dựng trong hang đá được coi là ba kiến trúc lớn và đặc sắc của Phật GIáo.

Bạch Mã Tự
Bạch Mã Tự

Phật Giáo được du nhập từ Ấn Độ vào Trung Quốc từ thời nhà Hán, nhưng các kiến trúc xây dựng của Phật Giáo tại Trung Quốc có rất nhiều điểm khác biệt, có lẽ đó là do Phật Giáo sau khi được truyền bá vào Trung Quốc đã bị người Hoa Trung Quốc hóa ngay từ đầu. Điều đó được thể hiện ngay trong bố cục của các Tư Viện thời cổ đại, ví dụ như đa phần phía trước mặt của lối đi chính trong Tự Miếu là Sơn Môn, trong Sơn Môn bên trái và phải đều là lầu chuông, chính điện là điện Thiên Vương, mặt sau là điện Đại Hùng Bảo, phía sau của Đại Hùng Bảo là lầu Tàng Kinh ( nơi cất giữ thư kinh), hai bên lề của lối đi chính được bố trí các kiến trúc như tăng phòng (phòng ở của người tu hành), Trai Đường (phòng ăn chay)…Toàn bộ bố cục kiến trúc của Tự Miếu, điện Đường, mái nhà… đều được mô phỏng theo kiến trúc của cung điện Hoàng Gia, bởi vậy Tự Miếu mang khí thế Trang Nghiêm, dáng vẻ huy hoàng khá riêng biệt thể hiện được nét đặc sắc riêng của kiến trúc Phật Giáo tại Trung Quốc.

Đại Thiệu Tự
Đại Thiệu Tự

Tự Miếu Phật Giáo thường được xây dựng gần núi, cách những nơi đông dân cư. Đặc biệt là bốn núi danh tiếng như: Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn, đây là nơi tập chung những kiến trúc Tư Miếu danh tiếng trong lịch sử, ví dụ như tại Ngũ Đài Sơn có kiến trúc Phật Quang Tự và Nam Thiền Tự .

Phật Quang Tự và Nam Thiền Tự đều được xây dựng vào thời nhà Đường, Nam Thiền Tự là kiến trúc Tự Viện được xây dựng bằng gỗ sớm nhất tại Trung Quốc vẫn còn tồn tại đến ngày nay, Trong Phật Quang Tự thì Tượng Phật, Bức Họa, nét bút mực còn lưu lại và các kiến trúc xây dựng tại đây được coi là tứ tuyệt.

Pháp Môn Tự
Pháp Môn Tự

Phật giáo được truyền bá rất rộng rãi tại Trung Quốc, bạn có thể gặp rất nhiều các Tự Miếu được xây dựng trên khắp các vùng miền của trung quốc, nó không chỉ ghi chép lại một cách tỉ mỉ sự phát triển về văn hóa xã hội thời cổ đại và sự suy thịnh của các loại tôn giáo trên đất nước Trung Quốc, mà còn mang những giá trị lớn và quan trọng về mặt lịch sử và nghệ thuật.

Sau đây mình sẽ giới thiệu với các bạn 10 Tự Miếu được đánh giá là danh tiếng nhất tại Trung Quốc hiên nay:

Miếu Quan Đế
Miếu Quan Đế

Xếp thứ nhất: Bạch Mã Tự, nằm cách thành đông cũ của thành phố Lạc Dương khoảng vài km, đây là Tự Viện đầu tiên được xây dựng tại Trung Quốc.

Xếp thứ hai: Đại Thiệu Tự, nằm trên phố tám góc tại trung tâm cũ của thành phố Lạp (?), Đại Thiệu Tự bắt đầu xây dựng vào Công Nguyên năm 647. Truyền thuyết có lưu lại rằng, trước khi xây dựng Tự, công chúa Văn Thành đã vận dụng âm dương ngũ hành để tạo nội công biến địa hình của Tây Tạng giống như dáng nằm ngửa của một ma nữ, trong đó Đường Hồ của Lạp (?) lại nằm ở vị trí trung tâm (tức trái tim của ma nữ), do đó người dân đã phải xây dựng Tự tại Đường Hồ để xua đuổi ma nữ.

Tấn Tự
Tấn Tự

Xếp thứ ba: Pháp Môn Tự, nằm tại trấn Pháp Môn cách thành bắc của tỉnh Phù Phong khoảng 10km. Bắt đầu được xây dựng vào những năm cuối của thời kì Đông Hán, có phát tích từ thời Bắc Ngụy, bắt đầu hưng thịnh từ thời nhà Tùy, và đạt đỉnh cao vào thời nhà Đường, được đặt danh là Tự Miếu Hoàng Gia.

Xếp thứ tư: Miếu Quan Đế, hay còn gọi là Giải Châu Quan Đế Miếu, thuộc trấn Giải Châu thành phố Sơn Tây Trung Quốc. phía Bắc giáp với Ngân Hồ, mặt đối diện là một dãy núi, phong cảnh rất đẹp.

Khổng Miếu
Khổng Miếu

Xếp thứ năm: Tấn Tự, được bắt đầu xây dựng vào thời Bắc Ngụy, nằm tại chân núi Ung Sơn phía tây nam của thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. Trong kiến trúc Tấn Tự có đặt điện Thánh Mẫu làm chủ thể, ngoài ra còn có điện hiến dâng, điện vũ, Đình Đài, cầu mộc, lầu chuông, Kim Nhân Đài, Miếu Quan Đế, suối Nan Lão, Đường Hòe…

Lạp Bốc Tăng Tự
Lạp Bốc Tăng Tự
 

Xếp thứ sáu: Khổng Miếu nằm tại thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, là một kiến trúc phương đông nhiều màu sắc, một quần trúc có quy mô rất lớn, Khổng Miếu cùng với Cố Cung của Bắc Kinh và Sơn Trang Thành Đức tại Hà Bắc được coi là ba đại quần trúc lớn nhất của cổ đại Trung Quốc. Khổng Miếu nằm trong khuôn viên rộng lớn với tổng diện tích vào khoảng 133.000m². Kiến trúc chủ thể của Khổng Miếu là điện Đại Thành (đây là nơi các Hoàng đế đến thờ cúng Khổng Tử), xung quanh là 9 dãy kiến trúc được xếp hàng dọc, Tòa cửa thứ nhất của Khổng Miếu là Linh Tinh Môn được xây dựng vào thời Minh Vĩnh Lạc, tòa cửa này rộng 13m và cao khoảng 10m, được xây dựng để cúng sao Thiên Điền. Hai bên Linh Tinh Môn có đặt hai tấm bia đá lớn, bên trên khắc hàng chữ “quan viên trước khi vào phải xuống ngựa”. Phía sau của Khổng Miếu còn có tòa Khuê Văn Các, đây là tòa lầu ba tầng có chiều cao khoảng 23m rộng 30m, được làm bằng gỗ với các kiến trúc mái cong.

Thiếu Lâm Tự
Thiếu Lâm Tự

Xếp thứ bẩy: Lap Bốc Lăng Tự.

Xếp thứ tám: Thiếu Lâm Tự, được xây dựng vào những năm 19 thời kì Bắc Ngụy Thái Hòa, là một ngôi chùa được xây dựng trên đỉnh phía tây của Tung Sơn, trấn Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam Trung Quốc. Đây được coi là cái nôi của Phật Giáo Thiền Tông và Võ Thuật Trung Quốc. Theo truyền thuyết của Phật Giáo Thiền Tông lưu lại thì Bồ Đề Đạt Ma, một Phật tăng người Ấn Độ sau khi từ biệt Lương Vũ Đế đã vượt sông Trường Giang đến chùa Thiếu Lâm Tự để truyền bá tư tưởng Phật Giáo cho người Hoa. Trong suốt thời gian trụ trì và thuyết pháp ở đó Phật tăng đã thực hành thiền định quay mặt vào núi trong suốt 9 năm liền. Trong quá trình giảng dạy Phật Tăng phát hiện ra các tăng nhân học trò của mình có thể lực rất kém nên đã dùng Án Ma Pháp (một loại thủ thuật kết hợp giữa xoa bóp và điểm huyệt) để dạy cho các Tăng nhân nhằm tăng cường thể lực. Và theo những ghi chép còn lưu lại thì chính Phật Tăng Bồ Đề Đạt Ma là người soạn thảo ra Dịch Cân Kinh và La Hán Thập Bát Thủ (đây chính là bài quyền đầu tiên của Thiếu Lâm Tự). Và cho đến nay Phật Tăng Bồ Đề Đạt Ma được coi là Sư Tổ của phật giáo Thiền Tông và võ thuật tại Trung Quốc.

Tháp Nhĩ Tự
Tháp Nhĩ Tự

Xếp thứ 9: Tháp Nhĩ Tự, nằm tại trấn Lỗ Sa Nhĩ tỉnh Hoàng Trung, cách Tây Ninh khoảng 40km.

Xếp thứ 10: Huyền Không Tự, trong rất nhiều các Tự Miếu được xây dựng tại Trung Quốc thì Huyền Không Tự trên dãy núi Hằng Sơn của Sơn Tây được coi là kiến trúc Tự Miếu kì diệu nhất. Thường thì các Tự Miếu đều được xây dựng trên mặt đất bằng phẳng nhưng Huyền Không Tự lại khác biệt ở chỗ được xây dựng trên vách núi cheo leo.

Huyền Không Tự
Huyền Không Tự

Mình mong rằng nếu bạn nào đi du lịch tại Trung Quốc, nhớ lưu ý đến 10 Tự Miếu mà mình đã giới thiệu nhé, chúc các bạn một ngày vui.

Thân mến,

Kiều Tố Uyên.

Phát minh kỹ thuật ấn loát ở Trung Quốc

Kỹ thuật ấn loát là một trong 4 phát minh vào thời cổ đại của người Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến Trung quốc và cả thế giới. Ba phát minh kia là kim chỉ nam, thuốc súng, và làm giấy.

Kỹ thuật ấn loát có nguồn gốc từ triều Tùy (tức CN 581-618) do Tất Thăng phát minh ra, sau đó được người Mông Cổ truyền sang Châu Âu, về sau người đời gọi Tất Thăng là thủy tổ của nghành in.

Bảo tàng viện ấn loát ở Trung Quốc
Bảo tàng viện ấn loát ở Trung Quốc

Trước khi phát minh ra kỹ thuật ấn loát, văn hóa nghệ thuật thường thông qua sao chép bằng tay để lưu truyền lại. Chép bằng tay vừa tốn thời gian, tốn sức lại hay nhầm hay thiếu sót, từ đó có ảnh hưởng và hạn chế rất nhiều đến sự phát triển của nền văn hóa. Ấn chương (tức con dấu) và kỹ thuật khắc đá đã đem lại những kinh nghiệm và chỉ thị trực tiếp cho kỹ thuật ấn loát, ví dụ như dùng phương pháp đặt giấy lên bia đá để rập mực là một trong những gợi ý cho sự hình thành của ấn loát điêu bản.

Ấn chương có từ thời nhà Tần, thường chỉ có vài chữ biểu thị tên họ, quan chức, cơ cấu. Ấn văn đều khắc dưới dạng phản thể, phân biệt thành âm văn và dương văn. Trước khi chưa có sự xuất hiện của giấy thì các công văn và thư tín đều được viết trên giản thẻ (được làm bằng trúc), sau đó dùng thằng buộc chặt, tại nút buộc có quyét một lớp nê dính (tức một loại bùn dính), sau đó dùng ấn chương đóng trên lớp bùn và gọi là “nê phong” (cách chế tạo nê phong thời đó được coi là một trong những bảo mật của triều đình). Sự ra đời của giấy đã làm cho “nê phong” được thay thế bằng “chí phong”.

Kỹ thuật khắc đá là do Ấn chương mở rộng thành, hiện nay 10 tảng thạch cổ của thời Tần được coi là 10 tảng đá được khắc sớm nhất, về sau có nhiều người khắc toàn bộ các chữ của một quyển sách lên khối đá lớn để làm giáo trình cho người học.

Kỹ thuật ấn loát của Trung Quốc đã trải qua hai giai đoạn là ấn loát điêu bản và ấn loát hoạt tự, đem lại sự tiện ích cho cuộc sống của người dân và được coi là một cống hiến lớn cho sự phát triển của loài người.
Điêu bản (bằng gỗ)
Loại bản liệu mà ấn loát Điêu bản thường dùng là gỗ cây Táo hoặc Lê, phương pháp điêu bản là đầu tiên dùng chữ viết trên tờ giấy mỏng và trong suốt, dùng mặt giấy có chữ úp lên thân gỗ, rồi dùng dao khắc gỗ theo hình chữ, dùng mực bôi lên miếng gỗ vừa khắc, dùng giấy úp lên mặt gỗ được bôi mực, dùng loát (một loại chổi dùng trong in ấn) nhẹ nhàng quét, sau đó gỡ ra sẽ được mặt chữ in trên giấy. Sự ra đời của ấn loát Điêu bản đem lại tiện lợi nhiều hơn hẳn so với việc sao chép bằng tay, mỗi lần có thể in vài trăm bộ, đến vài nghìn bộ nhưng như vậy vẫn rất tốn công tốn sức do loại điêu bản này có khuyết điểm là mỗi lần in một quyển sách sẽ cần một lượng lớn các bản khắc.

Hoạt tự
Hoạt tự

printingchữin2
Do đó vào thời Tống (cách đây khoảng 900 năm) tại Hồ Bắc phát minh gia Tất Thăng (một người bình dân sống và làm việc tại một xưởng điêu bản) thông qua nhiều lần thực tiễn đã phát minh ra loại kỹ thuật ấn loát hoạt tự, ông dùng chữ khắc lên bùn (loại bùn dùng để đóng gạch), mỗi chữ một miếng, đem nung cho khô. Sau đó chuẩn bị một khay sắt, trên khay sắt đó có rắc hương tùng, sáp nến, tro giấy…, 4 cạnh của khay sắt được nẹp bởi một khung sắt, trong khay sắt đó xếp cho kín chữ đã đước khắc, đem nung trên lửa, dùng một tấm kim loại bằng phẳng để nèn các chữ trong khay xuống.
printingchổi
Bản in hoạt tự
Bản in hoạt tự

Để nâng cao năng suất thường chuẩn bị hai khay sắt, để khay này in hết đã có khay khác để in. Không chỉ vậy mỗi một chữ đều được chuẩn bị mấy hoạt tự, những chữ hay dùng sẽ khắc nhiều hoạt tự hơn. Sau khi in xong đem gỡ các hoạt tự ra để lần sau dùng. Loại ấn loát hoạt tự này đã khắc phục được nững điểm yếu của ấn loát Điêu bản, vừa thuận tiện, vừa kinh tế lại tiết kiệm được thời gian…vì vậy đây được coi là quá trình đại cải cách trong lịch sử ấn loát của Trung Quốc. Hiện nay nguyên lý cơ bản của loại bản in diên tự (kim loại chì) đang được thịnh hành trên toàn thế giới đều giống với nguyên lý phát minh của Tất Thắng.

Bản in cổ nhất có ghi ngày, còn sót lại--Kinh Kim Cang (11 tháng 5, 868 sau công nguyên)
Bản in cổ nhất có ghi ngày, còn sót lại--Kinh Kim Cang (11 tháng 5, 868 sau công nguyên)

Bản Kinh Kim Cang (nhìn gần)
Bản Kinh Kim Cang (nhìn gần)

Đầu tiên kỹ thuật ấn loát hoạt tự được truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản, sau đó thông qua người Mông Cổ truyền sang các nước phương tây. Sự ra đời của kỹ thuật ấn loát đã đẩy mạnh tốc độ giao lưu, phát triển văn hóa giữa các nước trên thế giới, do đó có thể coi kỹ thuất ấn loát hoạt tự là một cống hiến lớn của Trung Quốc đối với toàn thế giới.

Kiều Tố Uyên
Hồ Nam, Trung Quốc

Đường thi: Vô Đề, của Lý Thượng Ẩn

landscape

Các bạn thân mến,

Trong một lần giúp anh Ái tìm tác giả của bài thơ “Vô Đề” mình đã vô tình đọc được bài thơ “Tương kiến thời nan biệt diệc nan” của Lý Thượng Ẩn, mặc dù bài thơ này không đúng với bài thơ mà anh Ái cần tìm nhưng mình vẫn check rất nhiều tài liệu về bài thơ, và hôm nay mình xin được phép gửi đến các bạn và các anh chị trong ĐCN phần dịch phân tích về bài thơ này nhé, chúc mọi người một ngày tươi sáng


chinesepainting-woman
Lý Thượng Ẩn là một nhà thơ vào thời cuối của nhà Đường, đương thời ông cùng Đỗ Mục ngang danh. Nhưng, nếu xét về mặt ảnh hưởng đến đời sau thì ông lại vượt trội hơn hẳn Đỗ Mục. Cống hiến lớn nhất của ông trong lịch sử thơ ca, là làm phong phú thêm nghệ thuật thơ trữ tình. Trong thơ của mình, ông thường dùng những từ ngữ thanh tao để cấu tạo nên hình tượng tốt đẹp, gửi gắm những tình cảm sâu đậm và những hàm ý ẩn giấu vào trong thơ, làm cho người đọc cảm nhận được những vẻ đẹp vừa uyển chuyển nhưng lại rất mông lung. Thất ngôn luật tuyệt được coi là loại tác phẩm thể hiện được phong cách đặc sắc này của ông, trong đó các tác phẩm thuộc thể loại “Vô Đề” (đa phần là thất ngôn cận thể) được coi là điển hình. Thể thơ này không phải nhất thời nhất địa mà đa phần viết về tình yêu, vì nội dung của bài hay vì một lý do nào đó không tiện nói ra hoặc khó khăn trong việc chọn chủ đề để đặt cho bài thơ nên tác giả thường gọi là “Vô Đề”. Sau đây mình sẽ giới thiệu với các bạn một tác phẩm”Vô Đề”-“Tương kiến thời nan biệt diệc nan” của Lý Thượng Ẩn nhé:

无题 Vô Đề Vô Đề -(Tương kiến thời nan biệt diệc nan)

相见时难别亦难, Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
东风无力百花残。 Đông phong vô lực bách hoa tàn.
春蚕到死丝方尽, Xuân tám đáo tử ti phương tận,
蜡炬成灰泪始干。 Lạp cự thành khôi lệ thủy can.
晓镜但愁云鬓改, Hiểu kính đản sầu vân tấn cải,
夜吟应觉月光寒。 Dạ ngâm ứng giác nguyệt quang hàn.
蓬山此去无多路, Bồng sơn thử khứ vô đa lộ,
青鸟殷勤为探看。 Thanh điểu ân cần vi thám khán.

    (phiên âm-Kiều Tố Uyên)

missing
Khó gặp nhau mà cũng khó xa,
Gió xuân đành để rụng trăm hoa.
Con tằm đến thác tơ còn vướng,
Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa.
Sáng ngắm gương buồn thay mái tuyết,
Đêm ngâm thơ thấy lạnh trăng ngà.
Bồng lai tới đó không xa mấy,
Cậy với chim xanh dọ lối mà.

    (dịch thơ-Khương Hữu Dụng và Tương Như)

Bài thơ này, thông qua lời nói của một người con gái để viết lên tâm trạng khi yêu. Trong đau thương, thống khổ nhưng vẫn luôn thể hiện được tình yêu nóng bỏng, khát vọng, kiên nhẫn… danh giới tình cảm sâu đậm dai dẳng, và rất phong phú.

Hai câu đầu, viết về mối tình trắc trở không có hạnh phúc và tâm trạng trữ tình của người con gái: vì gặp phải những trở ngại lớn, đôi tình nhân đã không còn cơ hội gặp được nhau, nỗi thống khổ vì xa cách làm cho người con gái này khó có thể chịu đựng được. Chữ “别” tức “biệt” trong câu đầu không phải chỉ lời nói chia tay trong hiện tại, mà chỉ sự xa cách trong quá khứ. Hai chữ “ 难”, chữ thứ nhất chỉ cơ hội gặp nhau khó, chữ thứ hai chỉ nỗi thống khổ khó có thể chịu đựng được. Các bậc tiền bối trong thơ đã từng viết “别日何易会日难” tức “Biệt nhật hà dị hội nhật nan” hay “别易会难得” tức “Biệt dị hội nan đắc”…đều nhấn mạnh sự khó khăn trong việc gặp lại, và nỗi khổ khi phải biệt ly.

Nhưng Lý Thượng Ẩn đã tiến xa hơn một bước trong việc bộc bạch: vì “tương kiến thời nan” cho nên “biệt diệc nan”- khó có thể cắt đứt, thống khổ khó có thể chịu đựng. Nhà thơ trong cùng một câu đã sử dụng hai lần từ “nan” tức”khó”, sự xuất hiện của chữ “nan” thứ hai vì trùng lập nên tạo cho người đọc có cảm giác đột ngột, nhưng thông qua đó lại có thể thấy được đây là sự biệt ly không có ngày gặp lại. Trạng thái đau khổ triền miên này người đọc không thể cảm nhân được trong câu “biệt dị hội nan đắc” nhưng trong “tương kiến thời nan biệt diệc nan” thì lại rất rõ.

morning

Cách dùng cảnh vật để phản ánh cảnh ngộ và tình cảm của con người dưới ngòi bút của Lý Thượng Ẩn là rất thường gặp, ta có thể cảm nhận được điều đó ngay trong bài thơ này trong việc phân tích câu thứ hai: Người con gái chữ tình này đã bị tổn thương đến mức vậy, lại đối mặt với cảnh vật vào cuối mùa xuân, tất nhiên càng làm người con gái này đau lòng và khó quên. Vào tiết cuối xuân, gió đông thổi lực không mạnh, trăm hoa tàn lụi, và hương sắc của mùa xuân cũng dần mất theo, sức người trước cảnh vật đó cũng không có cách nào cứu vãn được, lại thêm cảnh ngộ bất hạnh của bản thân và vết thương trong tâm linh, người con gái này cũng trôi theo mùa xuân và lụi tàn giống những bông hoa ngoài kia. Câu “Đông phong vô lực bách hoa tàn”, vừa miêu tả cảnh thiên nhiên, lại vừa phản ánh tâm trạng của người con gái trữ tình này, người vật giao nhau, tâm linh và tự nhiên đã kết hợp với nhau một cách tinh vi.

Bốn câu tiếp theo viết về tình cảm uẩn khúc một cách rõ nét hơn. Chữ “丝” tức “ti” trong câu “Xuân tám đáo tử ti phương tận” có cách đọc giống với chữ “思” tức “tư” nên chữ “ti” ở đây ngụ ý chỉ tương tư. Ý của toàn câu là chỉ sự tưởng nhớ của người con gái đến đối phương, giống như con tằm chỉ khi nào nhả hết tơ đến khi chết mới chịu dừng.

“Lạp cự thành khôi lệ thủy can” là một cách tự ví von bản thân, vì không được hội tụ nên đau khổ, nỗi đau này kéo dài mãi không kết thúc giống như nước mắt của cây nến chỉ đến khi nào nến cháy hết thành tro mới chịu thôi. Tưởng nhớ trong vô tận, mọi thứ trước mắt đều là vô vọng, do đó, người con gái này đã để cho nỗi đau của mình trôi theo dòng đời. Mặc dù biết là vô vọng nhưng người con gái này sống chết vẫn tưởng nhớ đến đối phương, và nguyện dành quãng đời còn lại của mình để yêu người đó.

Do đó trong hai câu này vừa thể hiện nỗi đau và bi thương trong thất vọng, lại vừa thể hiện tình yêu nóng bỏng và lòng kiên nhẫn theo đuổi đến cùng.Theo đuổi ở đây là vô vọng, nhưng trong vô vọng vẫn quyết tâm theo đuổi, do đó theo đuổi ở đây cũng đã được Lý Thượng Ẩn nhuộm màu bi quan. Những tình cảm này hình như tuần hoàn trong vô tận, khó có thể đoán nó sẽ dừng lại ở đâu. Nhà thơ chỉ thông qua hai hình ảnh để so sánh đã diễn tả được trạng thái tâm lý phức tạp của người con gái, qua đó có thể thấy khả năng liên tưởng của nhà thơ phong phú đến mức nào.
moon-chinese
Trong câu năm: “云鬓改” tức “vân tấn cải”, chỉ người con gái bị nỗi đau khổ giày vò nên đêm đến xoay ngang xoay dọc vẫn không ngủ được, đến mức tóc mái cũng rụng, dung mạo tiều tụy. “晓镜”tức “hiểu kính” chỉ sáng sớm dậy soi gương phát hiện tóc bị rụng nên sầu khổ, mà ở đây Lý Thợng Ẩn lại nhấn mạnh là “đản sầu”. Nếu chú ý các bạn sẽ phát hiện Lý Thượng Ẩn đã miêu tả một cách rất sinh động tâm trạng uẩn khúc của người con gái này. Bản thân vì đau khổ mà mất ngủ tiều tụy, sáng dậy vì phát hiện dung mạo tiều tụy mà đau khổ. Đau khổ trong đêm là vì tình yêu mà mình theo đuổi không thực hiện được, đến sáng hôm sau vì tiều tụy mà sầu, vì tình yêu mà hy vọng giữ được nét thanh xuân của mình. Nói tóm lại người con gái này vì tình yêu mà tiều tụy, vì đau khổ mà phiền muộn.

Đến câu thứ sáu “夜吟”tức “dạ ngâm”, người con gái từ bản thân mình đã tưởng tượng ra đối phương cũng đang đau khổ giống mình, đêm đến cũng mất ngủ và thường ngâm thơ để tưởng nhớ đến mình.  Ở đây nhà thơ đã mượn hình ảnh lạnh lẽo của ánh trăng để phản ánh tâm trạng cô đơn, lạnh giá của người con trai. Và từ “应” tức “ứng” trong câu này là một điều ước đoán, lường trước đã được Lý Thượng Ẩn khéo léo đưa vào trong câu thơ để qua đó giúp người đọc hiểu rằng những tâm tư của đối phương đều là do người con gái tưởng tượng ra mà thôi.

Nhưng tại sao nhà thơ lại có ngụ ý như vậy, chẳng phải vì muốn thông qua sự chủ động trong tưởng tượng của người con gái để nói lên người con gái này đã thấu hiểu được hết những suy nghĩ, tâm tư của đối phương đó sao. Càng tưởng tượng cụ thể, nỗi nhớ càng sâu sắc, càng làm cháy lên khát vọng hội ngộ.
blue bird after rain
Vì biết hội ngộ là vô vọng nên người con gái đành phải thông qua sứ giả để thay mình đến thăm đối phương và đây cũng là nội dung của hai câu kết cục . Trong thơ thời Đường thường dùng tiên lữ để ví von với người bạn tình, Thanh Điểu là một nàng tiên, Bồng Sơn là một núi tiên trong thần thoại truyền thuyết, cho nên Lý Thượng Ẩn đã dùng Bồng Sơn tượng trưng cho nơi ở của người con trai, và dùng Thanh Điểu làm sứ giả thay cho người con gái. Lý Thượng Ẩn thông qua việc gửi gắm hy vọng vào sứ giả làm kết cục, chứ không thay đổi cảnh ngộ đau khổ “tương kiến thời nan” của người con gái, và đó là hy vọng trong tuyệt vọng, con đường phía trước vẫn là xa tít mù tắp. Bài thơ đã kết thúc tại đây, nhưng nỗi đau khổ và sự quyết tâm đeo đuổi tình yêu của người con gái đó thì vẫn tiếp tục.

Bài viết này phần phiên âm do mình dịch, còn phần thơ do Khương Hữu Dụng và Tương Như dịch.

Cảm ơn anh Ái nhiều vì đã tìm giúp em  phần dịch thơ nhé.. À nếu các bạn có thể gửi lời dịch thơ thêm nữa cho bài thơ này thì rất hay.

Kiều Tố Uyên

Kinh Kịch

Kinh kịch (là một loại kịch có xuất sứ tại Bắc Kinh; Beijing Opera) có lịch sử gần 200 năm, hiện đang là loại kịch lưu hành rộng rãi nhất, và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong các loại kịch tại Trung Quốc. Trong quá trình hình thành Kinh kịch vừa chịu ảnh hưởng bởi các phong tục tập quán và loại tiếng địa phương Bắc Kinh đồng thời vừa thu hút rất nhiều tinh hoa của các loại kịch địa phương khác. Hiện Kinh kịch không chỉ được lưu hành tại Bắc Kinh, mà trên mọi vùng của Trung Quốc đều tồn tại những đoàn kịch biểu diễn loại Kinh kịch này. Sau đây tôi sẽ giới thiệu với các bạn đôi chút về môn nghệ thuật này nhé.
kinhkich1
Kinh kịch là môn nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa hát, đọc, làm, và đánh :

– Hát, là chỉ dựa vào một làn điệu nhất định nào đó để biểu diễn.
– Đọc, là phần tự bạch hoặc đối thoại trong Kinh kịch.
– Làm, chỉ thông qua động tác hoặc nét mặt để biểu diễn.
– Đánh, là dùng võ thuật hoặc điệu múa đã được biến hóa để biểu diễn.

Trong quá trình phát triển trường kì của mình, Kinh kịch đã hình thành một bộ bao gồm các động tác hư cấu để biểu diễn. Ví dụ như: Một mái chèo có thể tượng trưng cho một chiếc thuyền, hay một cái đuôi ngựa có thể tượng trưng cho một con ngựa…Diễn viên không cần bất kỳ một đạo cụ nào cũng có thể diễn đạt một cách hoàn hảo các động tác lên lầu, xuống lầu, mở cửa, đóng cửa…Các động tác này mặc dù có phần hơi khuyếch trương nhưng vẫn đem lại cho quần chúng cảm giác chân thực và tốt đẹp.
kinhkich2
Diễn viên Kinh kịch được phân thành 4 vai diễn là: Sinh, Đán, Tịnh, Xú (vai hề):

– Vai diễn Sinh: người đảm nhiệm vai diễn này thường là các nhân vật nam, lại phân thành lão sinh, tiểu sinh, và vũ sinh. Các diễn viên nổi tiếng trong vai diễn này có Mã Liên Lương, Chu Tín Phương, Diệp Thịnh Lan, Lý Thiếu Xuân, Cái Khiếu Thiên…

– Vai diễn Đán: người đảm nhiệm cho vai diễn này thường là các nhân vật nữ, lại phân thành Thanh Y (tức nữ tì), Hoa Đán, Vũ Đán, Lão Đán. Các diễn viên được coi là diễn xuất sắc trong vai diễn này vào thế kỷ 20 của những năm 20 gồm có tứ đại danh Đán là: Mai Lan Phương, Trình Nghiêm Thu, Thượng Tiểu Vân, Tuệ Sinh.

-Vai diễn Tịnh: vai diễn Tịnh thể hiện trong vở diễn là người đàn ông có tính cách hào phóng thẳng thắn, người đóng vai này phải vẽ mặt phác họa vì thế vai này cũng được gọi là “Hoa Liễm”, những diễn viên Hoa Liễm nổi tiếng gồm có: Cầu Thịnh Nhung, Viên Thế Hải…

-Vai diễn Xú: lđảm nhiệm vai diễn này thường là một nhân vật nam , đây là một vai hề, vừa hài hước, hóm hỉnh, linh hoạt lại vừa giảo hoạt, ranh mãnh, nham hiểm. Diễn viên nổi tiếng trong vai này gồm có: Tiêu Trường Hóa, Mã Phú Lộc.
kinhkich3
Cách hóa trang trong Kinh kịch cũng có những đặc điểm rất riêng. Cách hóa trang cho các vai diễn “Sinh”, “Đán” cần phải tô lông mày hoặc đeo lông mày giả, vẽ vòng mắt. Còn các vai diễn “Tịnh”, “Xú” thì cách hóa trang lại phải phụ thuộc vào tính cách của vai diễn trong vở kịch để phác họa, ví dụ nhân vật là người trung dũng thì vẽ mặt đỏ, còn nhân vật có tính cách gian trá thì phải vẽ mặt màu trắng.

Kinh kịch có rất nhiều kịch mục, hiện tại có khoảng 3800 vở. Trước mắt thường diễn ba loại chính là : kịch mang tính truyền thống, kịch lịch sử, và kịch hiện đại.

Kinh kịch được coi là tinh hoa trong các loại kịch của Trung Quốc, có ảnh hưởng khá lớn đến cả trong và ngoài nước. Hiện đã có rất nhiều lớp chuyên giảng dạy Kinh kịch cho người nước ngoài nữa rồi đấy các bạn ạ.

Và bây giờ thì mời các bạn thưởng thức đoạn kịch sau nhé:

Tôn Ngộ Không


.

Tam Quốc Chí

.

Bạch xà