Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 6: Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa

10/01/2014 08:00
(TNO) Trận hải chiến kết thúc vào trưa 19.1.1974. Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Việt Nam Cộng Hòa lập tức lên kế hoạch sử dụng máy bay để tái chiếm quần đảo thuộc chủ quyền của mình.

Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 1
Đại tá Nguyễn Thành Trung đang kể về kế hoạch không kích giành lại Hoàng Sa vào năm 1974 – Ảnh: Tấn Tú

Đại tá Nguyễn Thành Trung, Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân, là phi công được “Việt Cộng” cài vào Không quân Việt Nam Cộng Hòa thời chiến tranh. Lâu nay người ta thường biết đến ông qua các sự kiện như vụ ném bom Dinh Độc Lập, cuộc không kích phi trường Tân Sơn Nhất vào giai đoạn sắp kết thúc chiến tranh và công lao trong quá trình xây dựng lực lượng không quân cũng như hàng không dân dụng của Việt Nam thời bình. Nhưng bên cạnh những câu chuyện đã trở nên nổi tiếng nói trên, ông còn có một bí mật để kể.

Trong căn nhà yên tĩnh ở quận Gò Vấp, TP.HCM, phi công huyền thoại Nguyễn Thành Trung kể lại cho chúng tôi câu chuyện mà ông giấu kín suốt 40 năm qua, từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa bi tráng.

 

Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường

 

Sẵn sàng không kích

“Quay lại thời điểm năm 1974, Không quân Trung Quốc chỉ có MiG 21 do Liên Xô sản xuất, là loại máy bay phòng vệ, chứ không phải tấn công. Phòng vệ là đánh trên đất mình, ai vào thì mình đánh nên tầm bay rất ngắn. Phi công của mình (miền Bắc) ngày xưa cũng vậy, các anh không bay xa, bay lên đánh được hay không được khi hết thời gian là phải về, nếu bay quần nữa là không có dầu. MiG 21 rất hạn chế về dầu. Đó là tôi chưa nói đến phi công, phi công Trung Quốc lúc đó không thể bay biển được, phi công của mình ngoài Bắc cũng thế, mấy ảnh ít bay ra biển lắm. Bay ra biển là cả một vấn đề, môi trường bay biển khác hẳn môi trường bay đất liền. Giữa trời và biển rất lẫn lộn, phi công rất dễ thao tác nhầm. Như anh (Bùi Thanh) Liêm, phi công vũ trụ, bay ra biển đâm xuống biển. Anh (Hoàng Mai) Vượng cùng biên đội với tôi đánh sân bay Tân Sơn Nhất, đánh xong bay ra biển nhào xuống biển liền. Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường”, Đại tá Nguyễn Thành Trung dẫn dắt chúng tôi trở lại quá khứ, trước khi kể về kế hoạch của Việt Nam Cộng Hòa sử dụng máy bay F-5 không kích tái chiếm Hoàng Sa.

Sau khi bị mất đảo, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản ứng như thế nào? Theo ông Nguyễn Thành Trung, Mỹ chỉ nói kiểu hàng hai, vì lúc đó Mỹ và Trung Quốc đã thông đồng rồi. “Còn ông Thiệu thì tức và quyết tâm làm một cái gì đấy để lấy tiếng vang. Lúc bấy giờ, theo tôi làm thế là hoàn toàn đúng. Mày cướp nước tao thì tao phải đánh mày một trận, còn giữ được hay không tính sau. Tao phải đánh mày một trận để cho mày bỏ tính hung hăng đi”, phi công Nguyễn Thành Trung diễn giải.

 

Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 2
Phi công Nguyễn Thành Trung giới thiệu về hệ thống vũ khí của chiến đấu cơ F-5 – Ảnh: Tấn Tú

 

Vào thời điểm xảy ra Hải chiến Hoàng Sa, ông Trung là phi công của Không đoàn 63 chiến thuật đóng ở Biên Hòa. Có 5 phi đoàn F-5 ở Biên Hòa, 1 phi đoàn F-5 ở Đà Nẵng. Tổng thống Thiệu liền ra lệnh điều 4 phi đoàn F-5 từ Biên Hòa ra Đà Nẵng, chỉ giữ lại 1 phi đoàn ở Biên Hòa. Theo biên chế thời đó, mỗi phi đoàn 24 chiếc; 5 phi đoàn có khoảng 120 chiếc và 150 phi công.

 

Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì

 

“Khi ra đến Đà Nẵng, chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đánh để lấy lại Hoàng Sa và trước nhất muốn đánh là phải đánh cái hạm đội của Trung Quốc”, ông Trung nhớ lại. Trong kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân, đại tá Nguyễn Văn Sỹ làm Không đoàn trưởng, cấp trên chỉ huy là chuẩn tướng Nguyễn Văn Tường, còn gọi là Tường “Mực”, da đen thui, là Phó sư trưởng Sư đoàn 3. Ở cấp phi đoàn, phi đoàn 536 có trung tá Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 520 có trung tá Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 540 có trung tá Nguyễn Văn Thành, phi đoàn 542 có trung tá Nguyễn Ngọc Quang, phi đoàn 538 ở Đà Nẵng thì có trung tá Nguyễn Văn Giàu làm chỉ huy.

Theo phương án họp bàn ở Đà Nẵng, trước hết máy bay sẽ tấn công tàu Trung Quốc vì “họ đi ra Hoàng Sa của mình là bằng tàu thôi, mình mà diệt hạm đội này là họ cụt ngòi”. Máy bay sử dụng cho chiến dịch là loại F-5 và F-5E, loại có bình xăng phụ.

“Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì. MiG-21 không dám bén mảng ra Hoàng Sa, mà ra đến đấy tụi tôi đánh cũng rớt, hoặc không có dầu về. F-5 vừa mang bom, tên lửa, vừa có súng, hai bên 2 cây 20 li, mỗi bên cánh 2 quả bom và chùm 3 quả ở giữa, hai bên đầu cánh là 2 tên lửa đối không Sidewinder. Hỏa lực của F-5 hồi đấy là quá mạnh. Về tương quan lực lượng là chúng tôi chiếm ưu thế, nếu đánh Hoàng Sa thì tôi xem như một cuộc dạo chơi, không có gì phải lo cả”, đại tá Nguyễn Thành Trung kể.

Sau khi các phi đội từ Biên Hòa bay tới Đà Nẵng, máy bay do thám RF-5A được điều ra Hoàng Sa để chụp ảnh. Đây là loại máy bay có thời gian hoạt động trên không rất lâu. RF-5A chụp ảnh chi tiết hết địa hình các đảo, mặt biển trong bán kính 100 km, ghi lại hình ảnh các chiến hạm Trung Quốc. Hình ảnh thu được cho thấy Trung Quốc tập trung tàu quanh Hoàng Sa khá nhiều. “Chúng tôi cho phóng to hình ảnh ra và được chỉ huy đơn vị tập trung hết 120 phi công lại nghe thuyết trình. Chúng tôi đếm từng chiếc tàu một, thậm chí số hiệu tàu chúng tôi cũng đọc được. Không có tàu lớn, tàu trung bình thôi, tàu nhỏ thì nhiều”.

 

Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà chạy là tụi tôi đánh lật ngửa hết

 

“Nhấn hết xuống biển”

Các phi công đếm được khoảng 40 chiếc tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của số tàu đó. Sau khi nắm được tình hình thì đại tá Sỹ chia tấm bản đồ thành 4 miếng và mỗi miếng được giao cho một phi đoàn, trách nhiệm của mỗi phi đoàn là làm sạch mảnh bản đồ được chia.

“Ví như ô của tôi có 15 chiếc, ô của anh có 20 chiếc thì nhiệm vụ của anh và của tôi là trong một ngày phải cho những chiếc tàu đó chìm hết xuống biển, không có chiếc nào nổi được nữa”, ông Trung giải thích. “Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà chạy là tụi tôi đánh lật ngửa hết, cho nên tàu trên biển mà đánh là trong tầm tay”.

Theo trí nhớ của ông Trung, các phi công lúc bấy giờ cho rằng nhiệm vụ khá dễ, chỉ trong vòng 12 giờ là tàu Trung Quốc sẽ chìm hết. “Mà việc đó là chắc chắn đến 100%, không có trận nào mà chắc chắn như thế”, người phi công kỳ cựu lặp lại.

Lúc bấy giờ, quyết tâm của Không quân Việt Nam Cộng Hòa, từ lãnh đạo đến chỉ huy, phi công là rất cao. “Khí thế dữ lắm, các anh có sống ở thời điểm đó mới biết người Việt Nam chúng ta yêu nước như thế nào”.

Lúc bấy giờ, ông Trung là một sĩ quan cấp úy. “Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi mới đến cấp úy các ông đi đánh”, ông kể lại và nói thêm: “Nói thế để biết người Việt Nam yêu nước như thế nào, vì đánh với Trung Quốc mới là đánh giặc xâm lăng, cho nên mấy ổng bảo chừng nào tụi tôi chết hết mới đến các anh”.

 

Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 3

Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 4
Chiến đấu cơ F-5 của Không quân Việt Nam Cộng Hòa – Ảnh: Tư liệu

 

 

“Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi mới đến cấp úy các ông đi đánh”.

 

Theo lời kể của đại tá Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ tất cả phi công đều tình nguyện ký vào lá đơn “Thề được chết cho Hoàng Sa”. Tất cả phi công đều tuyên thệ sẵn sàng chết cho Hoàng Sa và ai cũng coi đó là cái chết rất vinh hạnh. “Trận đánh này chúng tôi chuẩn bị rất kỹ và phần thắng là chắc chắn 100%, vì tàu không thể chạy nổi. Mỗi tàu một quả bom là xong và khí thế ấy nó luôn hừng hực trong lòng mỗi người Việt Nam, hừng hực trong mỗi phi công”.

Kế hoạch không kích, theo lời ông Trung, là tuyệt mật, chỉ có những người tham gia mới biết. Chỉ huy cấp cao trong quân đội, nếu không có nhiệm vụ liên quan trực tiếp tới việc triển khai chiến dịch, đều không biết được.

Một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với “khả năng chiến thắng là 100%”, nhưng rốt cuộc đã không thể diễn ra do Mỹ cảnh báo Tổng thống Thiệu không được hành động. Lúc bấy giờ, Mỹ đã làm lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa.

Đối với những người như đại tá Nguyễn Thành Trung, 40 năm đã trôi qua nhưng những kỷ niệm ngày ấy vẫn còn mới nguyên, và trong lòng mỗi một cựu phi công F-5 thuở nào luôn canh cánh một nỗi niềm, rằng đã không được chiến đấu và được chết trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa thân yêu.

“Nếu ngày đó chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch thì bây giờ và các thế hệ con cháu đỡ biết bao nhiêu. Bây giờ Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa rồi, cái di sản, cái gánh nặng để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam thật là quá nặng nề”, ông Trung nói.

Đỗ Hùng – Tấn Tú

>> Xem Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974
>> Xem Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
>> Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
>> Sống cùng Hoàng Sa, Trường Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại
>> Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 2: Hành quân giữ đảo
>> Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 3: Tương quan lực lượng
>> Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 4: Nổ súng chống giặc
>> Một sự thật khác về Hải chiến Hoàng Sa (?) 

5 thoughts on “Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 6: Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa”

  1. Các quý vị thích nói Mỹ bán đứng Hoàng Sa cho Trung Quốc, nhưng chẳng ai có một tí bằng chứng nào về việc đó. Cứ tự đoán, tự kết, rồi viết y như là sử thật.

    Trong hàng triệu trang tài liệu về chiến tranh Việt Nam và hàng trăm cuốn sách của nhiều tướng lãnh và chính trị gia liện hệ viết, chẳng có được cả 1 bằng chứng về việc này.

    Mỹ là ai? Ông nào? Chức vụ gì? Nói gì với ai? Lúc nào? Ở đâu?…

    Zero bằng chứng.

    Hiệp Đinh Paris được ký ngày 27/1/1973. Ngày 29/3/1973 là người lính Mỹ cuối cùng rời VN.

    Ngày 19/1/1974 cuộc chiến Hoàng Sa xảy ra.

    Ham đội 7 của Mỹ có mặt đó, nhưng lúc đó Mỹ đã không thể nhúng tay vào chuyện VN được nữa, vì đã mất rất nhiều công thương thảo để được rút về, chẳng thể nào lại đánh nhau để lại vào vũng lầy. Quốc hội và nhân dân Mỹ sẽ nổi điên với Tổng thống Mý nếu lại đánh nhau.

    Hơn nữa, thời đó, không như ngày nay, chẳng ai trên thế giới quan tâm đến mấy “hòn đá” vô tích sự Hoàng Sa, ngoại trừ có lẽ TQ và VNCH.

    Thêm vào đó, TT Nixon đang bị khủng hoảng chính trị vụ Watergate và phải từ chức ngày 9/01974.

    Cho nên nói rằng Mỹ đã thỏa thuận bán đứng Hoàng Sa cho TQ là không có căn cứ.

    Nói rằng Mỹ không chịu nhúng ta và không thể nhúng tay vào Hoàng Sa thì đúng hơn, vì vừa rút chân ra khỏi VN được vài tháng mà lại đánh nhau nữa thì có là điên.

    Like

  2. Muốn xác định “Mỹ bán hay không bán” thì phải căn cứ vào các đối tượng tương đồng khác.
    Đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan, Trung Quốc 2 lần oanh kích,dương oai diễu võ đòi chiếm. Mỹ lúc đó làm gì???
    Senkaku của Nhật, lúc 2 bên Mỹ – Trung hội đàm, bị Bắc Kinh đem ra đòi ngã giá. Thái độ của Mỹ hồi ấy thế nào???
    Mỹ Trung bắt tay, bán rẻ Việt Nam Cộng hòa và Đài Loan để đổi lấy sự đồng thuận của Trung Quốc trong việc chống Liên Xô, âu không còn gì để bàn luận có hay không nữa. Nhắc lại là để ghi nhớ và rút kinh nghiệm thôi.
    P/S: Tôi xin đưa thêm 1 số tư liệu cho anh tham khảo (về vấn đề ai, ở đâu, khi nào, nói cái gì? anh đưa ra)

    BBC hồi tháng 10.2011 dẫn các tài liệu mật của Bộ Ngoại Mỹ cho biết sau trận hải chiến Hoàng Sa, Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, từng báo cáo với Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là ông Henry Kissinger rằng: “Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa, Hoàng Sa và các đảo khác có cùng vấn đề – đó là vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó”.

    “Mỹ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo này”, Ngoại trưởng Kissinger nói trong cuộc gặp với ông Hàn Tự, quyền trưởng phái đoàn liên lạc của Trung Quốc tại Washington, vào ngày 23.1.1974.

    Mặc dù Mỹ nói không can dự vào trận chiến Hoàng Sa, nhưng Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã theo sát tình hình ở Hoàng Sa, cập nhật tình hình mỗi ngày, theo bài viết nhan đề “CIA theo dõi sát trận Hoàng Sa 1974” do BBC đăng tải ngày 30.12.2013.

    Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/01, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20/01 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.

    Trong cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày 23/01/1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.

    Còn đây là tài liệu do chính phía Mỹ công bố sau khi hết hạn giải mật: http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://www.vantholacviet.org/news-2602/5/Tin-quo%CC%81c-ngoa%CC%A3i/Hoa-Ky-tiet-lo-vu-Hoang-Sa.html
    Có lẽ không cần nói thêm gì nữa.

    Like

  3. Tôi chỉ buồn là lãnh đạo VNCH không được như Israel. Cùng là đồng minh của Mỹ nhưng 2 bên khác nhau: VNCH thì bị động, Israel lại rất chủ động. Đáng ra như Israel mới phải: Mỹ nó nói gì thì nói, mình làm hay không là việc của mình. Xong việc rồi thì mình mới bàn chuyện tình cảm, đúng sai.
    Sự chần chừ và sợ hãi của cái đầu tôi tớ đã làm hỏng 1 trận Bạch Đằng thế kỷ XX của những người yêu nước Việt Nam.

    Like

  4. Cảm ơn anh Lê Nam Trung Hiếu.

    Các bằng chứng anh đưa ra, mình đã biết và mọi người đã biết, thì đó chỉ bằng chứng Mỹ không muốn can thiệp vào Hoàng Sa lúc đó. Và đó là điều mình khẳng đính.

    Nhưng đó hoàn toàn không liên hệ gì kết luận Mỹ trao đổi Đài Loan và Việt Nam Công hòa để lấy gì cả. (Đó không là chính sách của Chính phủ nào của Mỹ mà ta có bằng chứng).

    Cuộc chiến Việt Nam, vào thời đó, bị chống đôi ở Mỹ rất mạnh, và rốt cuộc Mỹ phải rút quân vì dân thì chống mà thắng thì không thấy. Hơn nữa, các tướng lãnh miền Nam lúc đó bị lãnh đạo Mỹ coi như là “thugs” (côn đồ) không có chính nghĩa. Đó cũng là câu trả lời cho việc anh nói Israel khác VN. Chính quền VNCH lúc đó thực là tồi tệ và, như anh nói có”cái đầu tôi tớ”. Mỹ cũng phải bỏ cuộc. Đó là các điều ta có cả tấn bằng chúng.

    Chúng ta cần chính xác với lịch sử, không nên kết luận điều gì cho đến khi thấy được bằng chứng đủ để mình kết luận. Nếu không chúng ta và con cháu chẳng hiểu gì về lịch sử và chẳng học được bài học lịch sử.

    Trung quốc biết nắm thời cơ, đánh Hoàng Sa khi Mỹ đã bị bó tay.

    Like

  5. Cám ơn anh Hoành. Tôi rất tán thành những ý kiến của anh, tuy vậy, còn 1 điểm tôi muốn thuyết phục anh. Đó là: TQ cưỡng chiếm Hoàng Sa, Mỹ bất lực không can dự hay sự thật là Mỹ đã bật đèn xanh cho TQ từ trước.
    Cái khó cho việc làm rõ trắng đen việc này nằm ở chỗ Thông cáo Thượng Hải. Tôi thấy người Việt ta cứ hay nói Thông cáo này thế này thế nọ mà không ai có toàn văn(bệnh xuất ngôn vô bằng của dân ta hơi nặng), tôi gửi anh bản toàn văn của nó. Bản này do Đài Loan lưu trữ:
    http://www.taiwandocuments.org/communique01.htm
    Cái ý tôi nói ở trên: Nixon và Mao bắt tay nhau chống LX, đổi lại TQ bán VNDCCH, Mỹ bán VNCH và Đài Loan trong tài liệu này thể hiện rất rõ ràng. Bán hay không bán tôi nghĩ đã rõ. Anh cứ đọc các tài liệu khác từ từ phía Đài Bắc là sẽ thấy họ chửi mắng thậm tệ thế nào về sự cấu kết ko ngờ tới của 2 nước này.
    Tôi chắc anh vẫn còn chưa tán thành ở chỗ: thôi thì cứ cho tụi nó bán người Việt đi nhưng có bằng chứng gì về việc Mỹ bật đèn xanh trước trong vụ Hoàng Sa đâu. Cái này tôi có 2 ý anh nghe qua xem có hợp lý không:
    – Hôm trước, tôi có đọc 1 tài liệu chỉ ra rằng ông đại sứ Martin đã rất nhanh nhẩu gửi công hàm cho VNCH tuyên bố rằng Mỹ đứng ngoài. Tuy vậy, cái công hàm đó được gửi ngay khi tàu Trung Quốc vừa mới tới Hoàng Sa và vào thời điểm đó VNCH cũng chưa ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Vậy là VNCH còn đang bối rói thì Mỹ đã “chận họng” trước. Về mặt ngoại giao lẫn tình báo, cái việc này Mỹ hơi xấc xược. Tức là biết rõ và biết trước nhưng không báo cho VNCH mà chỉ mỗi việc nói thẳng quan điểm của Mỹ là khoanh tay đứng nhìn. Tôi tiếc là không tìm ra để trích dẫn lên đây cho anh tiện theo dõi.
    – Nói về đạo nghĩa, nếu Mỹ không giúp được viên đạn nào thì thôi nhưng đến lời nói trước quốc tế cũng không, lại phũ phàng tuyên bố thông qua bộ trưởng ngoại giao là ” Mỹ không có lập trường trong việc ủng hộ chủ quyền của Việt Nam cộng hòa trên các hòn đảo này”. Nếu nhớ lại cách đó ít năm ai là người đổ tiền đổ sức ra giúp VNCH kiểm soát Hoàng Sa, Trường Sa sau HĐ Geneva mới thấy Mỹ lúc này đã theo thù bỏ bạn. Tại sao Mỹ một tiếng nói cũng không giúp cho đồng minh của mình?

    Like

Leave a comment