Con chữ oằn trĩu rẻo cao

 
TPHuồi Máy bao xa? Tôi đi “xe gió” chạy đêm từ thành phố Vinh lên Kim Sơn – thủ phủ của huyện Quế Phong tột cùng Tây bắc Nghệ An hết bốn tiếng đồng hồ và tôi đã mất gần chừng đó thời gian để đi từ trung tâm bản Cắm Nọc (xã Huồi Cắm) đến với Huồi Máy mà quãng đường ước chỉ bằng trên dưới 1/20 quãng đường từ Vinh lên Kim Sơn.

Một lớp học ghép lèo tèo học sinh vùng rẻo cao Quế Phong
Một lớp học ghép lèo tèo học sinh vùng rẻo cao Quế Phong.

Đường vào

Nửa tiếng đồng hồ xe máy cài số một bò được mấy cây số đèo dốc, đến Na Quẹ phải gửi xe lại để cuốc bộ vô Huồi Máy. Con đường mòn mong manh như sợi chỉ giữa đại ngàn xanh chốc chốc lại bị cắt đứt bởi những hố, những bãi khai thác vàng lở loét đất đá, bùn lầy. Thi thoảng lại một con dốc mà ngón chân vừa bấm chớm đỉnh đã chực thở như “đứt hơi”; khi thì loay hoay mãi ở một con suối lổm ngổm đá “đầu ông sư” trơn trượt. Người dẫn đường của tôi là thầy Vi Văn Lâm giáo viên trường tiểu học Cắm Muộn 2, thỉnh thoảng dừng lại động viên. Đến hơn 12 giờ trưa mới tụt xuống lối nhỏ Huồi Máy.

Huồi Máy ngoài không đường là không điện, không nước sạch, không y tế bản, không sóng điện thoại và lúp xúp mấy túp lều học chữ. Huồi Máy chính xác chỉ là cụm hộ dân khoảng 40 nóc nhà nằm hai bên con khe Quẹ với ngót 200 nhân khẩu, về mặt hành chính là một đội sản xuất trực thuộc bản Cắm Nọc xa tít ngoài kia. Thế nhưng, từ ở huyện, ở xã cho đến điểm trường chính ở ngoài Cắm Nọc, ai cũng ái ngại nói “anh vô bản Huồi Máy a?”. Có lẽ người ta gọi Huồi Máy là “bản” bởi ở đây có cái điểm trường tiểu học với một lớp đơn và hai lớp ghép cho đủ từ lớp Một đến lớp Năm trong túp lều giống như nhà hoang ấy!

Cận cảnh

“Nhà công vụ” của 3 thầy giáo điểm trường Huồi Máy, chen chúc những chăn màn giường chiếu, sách vở áo quần, bên tấm liếp ngăn sơ sài là góc bếp với chỏng chơ vài ba cái nồi đen nhẻm, lọ muối, chai dầu, ông đầu rau gồm ba hòn đá kê tạm… Không gian này là nơi thầy giáo Lô Văn Lan bám trụ suốt mười năm vì sự nghiệp gieo chữ cho lũ trẻ Huồi Máy.

367545_400

Học sinh Huồi Máy phải lội qua khe đến trường học chữ. Ảnh Đình Sâm.

Trường học là bốn gian sơ sài vách nứa, mái lợp phi-brô đã nứt vỡ có nơi thông thống nắng, gió trời. Học trò Huồi Máy vào tiểu học đều không được qua mầm non. Việc vận động cho các em đi học vào các năm học mới là phần việc vất vả của các giáo viên cắm bản.

Sách vở mua rồi thầy giáo phải cõng, gùi vào còn giáo cụ thì chịu. Và đương nhiên là học trò ở đây không có đồng phục; mùa đông cũng như mùa hè phong phanh mấy quần áo cũ ấy. Vi Văn Dương đã lên 10 tuổi học lớp 5 mà trông nhỏ thó như đứa trẻ lên bảy.

Từ khi biết học cái chữ đến nay, Dương chưa từng thấy thế nào là lễ khai giảng. Dương nói không buồn vì các anh chị, thậm chí là thế hệ cha mẹ em cũng thế, sinh ra, lớn lên học cái chữ ở điểm trường này từ hàng mấy mươi năm về trước, đã bao giờ biết “lễ khai giảng”.

Học với Dương có Moong Văn Mạnh, lớp 5 rồi mà chưa biết chữ “a” hay con số “1”, vì bị bệnh chậm trí nhớ, các thầy giáo cắm bản đề đạt mãi mà chưa có cách gì đưa Mạnh đi học diện trẻ tàn tật. Ấy nhưng hỏi Mạnh thương ai, vẫn biết nói “thương thầy giáo!”.

 

Huồi Máy hiện có trong danh sách các điểm trường mà huyện sẽ kiên cố hóa vào năm 2015. Hiện đường giao thông Na Khích (Nậm Nhoóng) – Phạ Pạc (Cắm Muộn) đi qua Huồi Máy đang khởi động. Chúng tôi đang xem xét phương án đón đầu để có thể sẽ bố trí cán bộ tăng cường vào đó để thành lập bản.

Ông Lữ Đình Thi –
Chủ tịch UBND huyện Quế Phong

Tôi vô tình bỏ bữa trưa đúng dịp bà con Huồi Máy mời các thầy giáo giao lưu giữa phụ huynh với “nhà trường” dịp chuẩn bị khai giảng năm học mới 2013 – 2014. Bữa liên hoan thân mật đông vui cũng chỉ thịt một con gà, còn nữa là măng, cải rừng.

Nghe thầy giáo Lan “mách” tôi thế. Thầy Lan vừa bắt chặt tay khách, vừa nói: “Không phải ngày lễ tết, thì vậy đã là sang đối với bà con Huồi Máy đấy!”.

Chuẩn bị cho lên lớp buổi chiều, các thầy giáo cắm bản tranh thủ cho biết, điểm trường tiểu học Huồi Máy năm học 2013 – 2014 có 18 học sinh với lớp 1 có 5 em, lớp 2 có 3 em, lớp 3 có 3 em, lớp 4 có 4 em và lớp 5 có 3 em.

Thầy Lan được coi là tổ trưởng ở đây, dạy lớp ghép 2+3, thầy Lô Văn Thanh dạy lớp ghép 4+5 và thầy Lô Văn Việt dạy lớp 1. Thầy Lô Văn Lan vào Huồi Máy dạy học lần hai từ năm 2004 đến nay, trước đó thầy đã từng vào dạy từ năm 1986 – 1989.

Theo quy định thì luân phiên mỗi giáo viên trường tiểu học Cắm Muộn 2 từ ngoài điểm chính vào Huồi Máy dạy 3 năm thì được thay, chủ yếu là giáo viên nam.

Thầy Thanh trước dạy ở Túng Chàng, vào đây từ năm 2011 cùng đợt với thầy Việt nhà ở mãi bên Mường Piệt -Thông Thụ. Riêng thầy Lan thì vào chục năm rồi và bà con Huồi Máy không cho ra nữa. Vì thầy gắn bó với Huồi Máy không chỉ ở tâm huyết “gieo chữ”, mà còn được coi là “người uy tín” ở đây.

Như năm 2009, trường tiểu học Cắm Muộn 2 cử giáo viên khác vào thay thầy Lan, bà con Huồi Máy ôm chăn chiếu của giáo viên đó lội bộ ra trường trả, thầy Lan đã phải vào chịu “nộp phạt” một con gà, một vò rượu kèm lời hứa một năm sau vào lại, thì sự học ở Huồi Máy lúc đó mới được tiếp tục.

Lán học chữ của các em học sinh Huồi Máy
Lán học chữ của các em học sinh Huồi Máy.

Lều học chữ Huồi Máy được ngăn đôi, một nửa dành cho lớp ghép của thầy Thanh, một nửa là các lớp của thầy Lan và thầy Việt. Mỗi lớp chỉ vỏn vẹn một bộ bàn một ghế đóng thô. Năm nay lớp Một sĩ số thêm một học sinh so với năm ngoái, phụ huynh phải đóng vội thêm một cái bàn ghế đơn. Trên góc bảng đen lớp Ba có ghi: “Sĩ số 4, vắng 2”.

Hỏi được biết 2 em học sinh nữa được bố mẹ đưa đi rẫy hai hôm nay chưa về. Hôm nay thầy giáo Việt dạy bài thuộc lòng, không có bảng từ (nam châm) theo quy định, đành nhặt sỏi dưới suối lên rải trên mặt bàn cho học sinh đánh dấu nhớ chữ.

Để khỏi ảnh hưởng đến nhau trong mấy lớp học thông thống ấy, giờ học các thầy giáo luôn phải nhắc học trò hạ thấp giọng khi đọc bài… Để đến lớp học trò phải lội qua Huồi Quẹ, do cây cầu gỗ bị cuốn trôi chưa khôi phục lại cầu.

Cả Huồi Máy chỉ có ông Vi Văn Quế là đảng viên, phó bí thư chi bộ bản Cắm Nọc kiêm đại biểu hội đồng xã. Ở đây ông được coi là trưởng bản nhưng nhiệm vụ của ông được chi bộ giao là “đội trưởng đội sản xuất”, không chế độ phụ cấp. Ông Quế cho hay, cư dân Huồi Máy chủ yếu là người Khơ-Mú với các họ Moong, Cụt, Ốc. Họ Vi như ông vốn là người Thái, nhiều đời sống ở Huồi Máy nên nhập tộc Khơ-Mú luôn.

Người Huồi Máy trước du canh du cư sang Tương Dương, sau vẫn trở về đây, giờ bén rễ sâu rồi, không muốn đi đâu nữa. Bà con Huồi Máy trước ở lán tạm bợ, thầy giáo Lan đã phải vận động mãi mới chịu vay vốn ngân hàng chính sách làm nhà lác đác lợp phi-brô hay tôn như bây giờ.

Lao động thì nương rẫy qua loa. Lúa ngô sắn vừa trồng trâu bò thả rông đã phá hết. Chăn nuôi thì dịch bệnh liên miên nên lợn gà cứ thả thế, sống sót con nào dành dịp tết. Người Huồi Máy thiếu đói thế quanh năm, nên khó lo đến việc học hành của con cái.

Ngậm ngùi

Bữa cơm chiều có khách, các thầy giáo khai vị bằng mì tôm trứng chờ xôi đặt nấu ở cái quán duy nhất ở Huồi Máy do hộ Lương Văn Huân từ ngoài Cắm Nọc vào mở, chủ yếu phục vụ cho người đi đãi vàng, giá bán thường đắt gấp đôi ngoài chợ huyện. Đắt đỏ, nên các thầy giáo đã “quyết tâm” nhịn bữa sáng, bữa chính thi thoảng có cá mắm còn nữa là rau dại, măng rừng bà con cho nấu với nhái, chuột bắt được; muốn ăn thịt thì cuối tháng cuốc bộ ra lấy xe máy gửi ở Na Quẹ chạy về nhà một lần “cải thiện”.

Năm trước có học trò lớp Bốn khi được gọi lên kiểm tra bài cũ, chợt ngã ngất lịm, sau khi được các thầy hồi gọi, bón cho vài thìa mì tôm, hỏi mới biết đã 3 ngày em không ăn cơm vì bố mẹ đi rẫy mãi chưa về, chỉ hái ổi ăn trừ bữa! Thầy Việt tiếp lời: “Anh có thấy khắp Huồi Máy đâu đâu cũng có ổi không. Không trồng, nhưng đó là cây cứu đói thực sự đấy! Bọn trẻ mấy khi có bữa cơm no, cứ đứt bữa là hái ổi ăn để đến lớp!”.

Chập tối, cảnh lũ trẻ Huồi Máy lúc lỉu bám các ngọn ổi tranh nhau hái quả chín ăn đã đánh tan cái ngờ ngợ của tôi với câu nói của thầy Việt. Chợt nhớ chia sẻ của thầy Nguyễn Thế Cầm – Hiệu trưởng trường tiểu học Cắm Muộn 2, rằng có đợt nhà trường phát động phong trào Đội, các em học sinh góp được 2 tạ gạo ủng hộ các bạn nhỏ Huồi Máy nhưng phụ huynh chẳng ai chịu ra gùi về, nhà trường đành phải bán lấy tiền đưa vào mua gạo ở Huồi Máy với giá đắt gấp đôi.

Nhà trường cũng băn khoăn về điều kiện ăn ở của các thầy giáo cắm bản Huồi Máy lắm. Nhưng ngay ở điểm trường chính nhà công vụ (ký túc xá giáo viên) cũng gianh nứa mục nát không ở được. Hiệu phó và hiệu trưởng đang phải làm việc trong cái phòng chờ bé tin hin của giáo viên cũng là tận dụng nhà dự án “Trẻ khó khăn”…

Bữa cơm chiều chợt trầm hẳn khi thầy giáo Lan rủ rỉ tâm tư: Niềm vui tựu trường ở Huồi Máy bao giờ cũng cõng nặng những lo âu nhất là mùa đông đến. Các thầy lại phải hàng ngày thắt ruột chứng kiến cảnh lũ trẻ tím tái đói rét đến lớp.

Đêm ngủ lại Huồi Máy chập chờn khi mưa nặng hạt xuyên dột khắp căn lán nhỏ. Huồi Máy tĩnh mịch. Chắc chẳng có giấc mơ ngày lễ tựu trường nào đến được với bọn trẻ Huồi Máy đêm nay cũng như đã và còn bao đêm khác nữa…

Đình Sâm
> Bảy năm bò đến trường tìm con chữ
Kỳ tích chàng trai mù hằng ngày bơi xuồng, lội sông bắt cá
 

7 thoughts on “Con chữ oằn trĩu rẻo cao”

  1. Dear Anh Hai

    Em cảm ơn Anh Hai đã chỉ dạy cũng như luôn quan tâm nâng đỡ khích lệ các em Lưu Trú Buôn Hằng.

    Em sẽ cố gắng thực hiện trong Lưu Trú của em những điểm Anh Hai đã đề ra đồng thời nhắc nhở cho các em biết các em luôn được sự yêu thương hỗ trợ của Anh Hai

    Em M Lành

    Like

  2. Cách bền vững nhất để giúp đỡ đồng bào sắc tộc là cho họ nhiều kiến thức. Như là Lưu trú Buôn Hằng. Dạy các em kiến thức, và nhất là tự tin. Dạy các em biết làm việc, biết hệ thống công quyền Việt Nam, biết sử dụng hệ thống công quyền, và tranh đấu đòi quyền lợi cho buôn làng. Và dạy các em biết nhiều người Kinh, nhất là “Anh Hoành”, sẽ hỗ trợ các công việc của các em.

    Dạy các em biết xây mạng lưới bạn bè trong người Kinh để có thể có hỗ trợ. Các em phải biết xây dựng mạng lưới hỗ trợ khắp nước, để được giúp đõ về kiến thức, về quan hệ, về tài chánh… để lập những tổ chức NGO phát triển buôn làng.

    Like

  3. Hi Thu Hương

    Cảm ơn Thu Hương đã quan tâm chia sẻ, mới đầu mình cũng nghĩ đơn giản như Thu Hương

    Nhưng khi sống thực trong Buôn Làng rồi mình thấy không thể áp dụng cho bà con Buôn Làng cách của chúng ta là những người có tự do về tiền bạc được.

    Mình có tiền mình không lệ thuộc kinh tế vào ai cả, nơi nào giá cao mình thấy thỏa đáng mình bán hoặc không!

    Còn anh em Buôn Làng của mình ai cũng có một con nợ và có nghĩa vụ phải nuôi con nơi đó nữa Hương à!

    Quanh năm suốt tháng anh em Buôn Làng không có tiền nên người nhà đau.đóng tiền học cho con hoặc mắm muối đều ra một chủ nào đó mượn và khi có lúa gạo hoặc hoa màu phải bán cho chủ đó để trừ nợ, số còn lại cũng phải bán cho họ để trong năm cần ra mượn tiếp

    Nếu bán cho người khác đươc giá cao hơn nhưng với số tiền đó họ chỉ chi tiêu trong thời gian ngắn còn tới bao nhiêu năm tháng mới đến vụ mùa mới như vậy trong thời gian đó nếu không có ai cho vay mượn họ chỉ chết thôi!

    Mình nghĩ mình sẽ giúp được bà con Buôn Làng chuyện này khi mình là chủ nhà băng Hương à 😛

    Nhưng hiện tại mình lo ăn miễn phí cho 40 Lưu Trú Cấp III của mình cũng đã đủ ngơ người rồi :p

    Matta Xuân Lành

    Like

  4. Chị Lành ơi,

    Em đọc bài Nghề “độc” mưu sinh, có đoạn:

    “Cào cào bắt được chủ yếu bán cho người chơi chim nhưng nếu chỉ bán lẻ thì không được bao nhiêu tiền. Trước đây, ông Năm Cắt phải mang cào cào ra tận chợ côn trùng bên hông Thuận Kiều Plaza ở quận 5, TP HCM tìm một góc đứng bán. Sau này, ông bàn với vợ – bà Huỳnh Thị Lao – mở điểm thu mua cào cào để bán lại cho các đầu mối. Điểm thu mua của bà Lao hiện lớn nhất xã Xuân Thới Thượng. “Hai con gái phụ mẹ, 2 con dâu và chàng rể của tui cũng theo nghiệp cào cào” – bà Lao hồ hởi.”

    Hôm nay, gặp câu hỏi của chị, em nghĩ nếu có một người đứng ra thu mua nông sản của bà con Buôn Làng và bán lại cho người Kinh thì chắc là bà con sẽ không bị ép giá, sẽ bán được giá hơn, rồi dần dần bà con sẽ có một chút tiền dư, đời sống được cải thiện.

    Nhưng chị hỏi lại các chuyên gia kinh tế nhé, em chỉ nghĩ vậy, không biết đúng sai đâu ạ!

    Em Hương,

    Like

  5. Hi Thu Hương

    Cảm ơn Thu Hương đã góp ý để minh suy nghĩ thêm, vì nhiều lúc mình cũng muốn giúp cho Buôn Làng mình nhanh thoát khỏi đời sống cơ cực nghèo đói của họ nhưng cũng không biết bắt đầu từ đâu cho có hiệu quả nhanh hơn 😛

    Matta Xuân Lành

    Like

  6. Hi cả nhà,

    Những thầy giáo cắm bản thật đáng quý.

    Cám ơn nhà báo lặn lội đường xa, mang thông tin cho mọi người.

    Hi chị Lành,

    Câu hỏi của chị giúp em động não tìm hiểu vấn đề sâu hơn. Em nghĩ, có lẽ bắt đầu từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng (điện nước, đường xá, trường học, trạm y tế..) phù hợp với văn hoá địa phương để thu hút mọi người sinh sống, làm ăn. Hy vọng kinh tế khá hơn một chút, việc học theo đó cũng khá hơn.

    Em Hương,

    Like

  7. Những hy sinh của những thầy giáo ở thôn bản xa xôi đầy dẫy những khó khăn thiếu thốn thật đáng khích lệ và cảm phục.

    Mình cứ tưởng chỉ những em ở Buôn Làng mình mới ăn ổi cứu đói không ngờ cũng còn không ít những trẻ em thiếu ăn thiếu mặc.

    Cứ thấy đói ăn là đói luôn con chữ như vậy không biết thất học đi liền với cái nghèo hay cái nghèo đi liền với thất học đây? Để mà tháo gỡ cho có hiệu quả?

    Matta Xuân Lành

    Like

Leave a comment