Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 2

 

Tư tưởng xã hội Phật giáo

buddha

Để có thể hiểu được các ứng dụng xã hội của Phật pháp, chúng ta nên kiểm tra xem các ứng dụng đó đứng chắc chắn trên Giáo pháp của Đức Phật như thế nào. Những khái niệm giúp hiểu biết tư tưởng xã hội của đạo Phật như sau:

I. Khái niệm về Phật pháp

Chữ Phật pháp (Dhamma) có nghĩa là “nâng lên, bền vững”. Trong một phạm vi rộng nhất, nó có nghĩa là luật vũ trụ trong tất cả mọi hiện tượng, luật nhân duyên, Tứ Diệu Đế, Tam pháp ấn,v.v… Phật pháp cũng có một chiều kích đạo đức. Đó là luật của sự công chính, nguyên lý của đức hạnh, của chân lý đạo đức. Phật pháp ở đây là luật đạo đức để bảo vệ chúng ta, nâng chúng ta lên và bảo vệ chúng ta khỏi suy đồi tâm linh và khỏi bị rơi xuống những tầng sống thấp hơn. Đó là con đường của sự phát triển phàm tục cũng như phát triển tâm linh.

Vì vậy từ Phật pháp tổng hợp hai ý nghĩa này, triết học và đạo đức, vào trong luật của thực tại và đức hạnh. Trong phần sau, chúng ta sẽ thấy những áp dụng cụ thể của khái niệm Phật pháp vào các loại quan hệ con người và vào phạm vi của đời sống con người.

II. Tứ Diệu Đế

Một nền tảng khác cho tư tưởng xã hội Phật giáo là Tứ Diệu Đế, đặc biệt là vế thứ hai: sự ham muốn trở thành nguồn gốc của đau khổ trong đời sống xã hội của chúng ta. Phật nói rằng “Bởi vì sắc dục, ham muốn thỏa mãn sắc dục, mà có mâu thuẫn giữa cha với con, mâu thuẫn giữa mẹ với con, mâu thuẫn giữa các gia đình, mâu thuẫn giữa các hộ gia đình, giữa các nhóm xã hội, giữa các quốc gia. Bởi khao khát và dính chấp vào dục lạc và sự giàu có, mà con người mặc áo giáp, cầm gươm, nắm vũ khí, đi vào chiến trận và đánh nhau, hủy diệt và giết nhau.

Lại nữa, trong giải thích nhân duyên, Phật đưa ra một sự biến đổi thú vị trong công thức:

1. Lệ thuộc vào ham muốn, sẽ khởi lên sự tìm kiếm (điều ham muốn);

2. Lệ thuộc vào tìm kiếm, sẽ khởi lên sự chiếm hữu;

3. Lệ thuộc vào chiếm hữu, sẽ khởi lên phân biệt (khái niệm về “của tôi, không phải của anh”);

4. Lệ thuộc vào phân biệt, sẽ khởi lên dính chấp;

5. Lệ thuộc vào dính chấp, sẽ khởi lên bám víu và ích kỉ (ý thức về sự bảo vệ, hoang tưởng).

6. Lệ thuộc vào ý thức bảo vệ, con người sẽ cầm gươm, vướng vào giành giật, cãi nhau, tranh chấp, buộc tội vô cớ, và tất cả những trạng thái không lành mạnh.

Tất cả những điều này đều có ham muốn là nguồn gốc cơ bản nhất. Khi ham muốn được loại bỏ, tất cả những vấn đề xã hội cũng được loại bỏ.

III. Học thuyết Vô ngã

Đạo Phật dạy rằng ý niệm về cái tôi là gốc rễ của khổ đau, vì đó là căn nguyên của tất cả những cảm xúc ích kỉ và ô uế. Do đó để được tự do thoát khỏi những biến động của xã hội bắt nguồn từ sự ô uế đó, chúng ta phải nhổ bỏ cái tôi. Chúng ta nhổ bỏ cảm giác về cái tôi bằng cách bắt đầu hành động theo những phương cách góp phần làm giảm đi sự trói buộc của cái tôi. Cuối cùng, việc xoá bỏ cái tôi đến từ trí tuệ khởi lên trong thiền định, nhưng thiền định không thể bị cô lập trong phòng riêng của nó, sự tách biệt khỏi phần còn lại của cuộc sống con người. Trí tuệ thực sự không thể sinh ra khi chúng ta sống hướng ra bên ngoài một cách ích kỉ. Để có thể có được trí tuệ trong thiền định, chúng ta phải nuôi dưỡng những hành động vô ngã, qua than thể và lời nói, bằng cách tuân thủ giới luật, bố thí, giúp đỡ và hỗ trợ người khác, v.v..Tất cả những hành động nhỏ này sẽ tạo động lực để giảm sự bám chặt vào cái tôi và tạo nền tảng cho sự hình thành một trí tuệ nhận thức được bản tính vô ngã của mọi sự.

IV. Tứ vô lượng tâm (Bốn Phạm Trú)

Bốn trạng thái siêu phàm được phát triển tới mức vô hạn cho tất cả mọi sinh linh như dưới đây:

a) Lòng từ ( Metta) là mong ước về phúc lợi và hạnh phúc cho mọi loài

b) Lòng bi ( Karua) là cảm giác về sự cảm thông với người khác, phẩm chất làm cho trái tim rung động với đau khổ của người khác, đồng hóa mình với người khác và với những khổ đau của họ, và dấy lên khao khát mang đi hết những khổ đau của người khác

c) Lòng hỉ ( Mudita) là vui sướng trong hạnh phúc cũng như may mắn của người khác, phẩm chất này giúp loại bỏ ghen tị và đố kị

d) Lòng xả (Upekka), thái độ trung lập không thiên vị hướng tới tất cả mọi loài, không có sự phân biệt giữa thuận cảnh hay nghịch cảnh, hay người mình thích hoặc không thích.

Đây là những thái độ đạo đức được phát triển trong thiền định, nhưng có thể được diễn tả qua những hành động cụ thể trong môi trường chính trị và kinh tế

Cho đến giờ, chúng ta đã giải thích những nền tảng lí thuyết của tư tưởng xã hội Phật giáo. Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về việc ứng dụng các lí thuyết vào những lĩnh vực khác nhau trong xã hội.

(còn tiếp)

Đỗ Hồng Thuận dịch

Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 1

Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 2

Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 3

Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 4

Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – kết thúc

 

Buddhist Social Thought

In order to understand the social applications of Dhamma, we should examine how they are directly grounded in the Buddha’s doctrine. The concepts for understanding the social thought of Buddhism are as follows:-

I. The Concept of Dhamma

The word Dhamma means “that which upholds, that which sustains.” In its broadest sense it signifies the cosmic law which supports all phenomena, the law of dependent origination; the Four Noble Truth; three characteristics of existence, etc. The concept of Dhamma also has an ethical dimension. It is the law of righteousness, the principle of virtue, of moral truth. Dhamma here is the moral law which protects us, which upholds and safeguards us against spiritual degeneration and from a fall into lower states of existence. It is the path of mundane and supramundane development. So the word Dhamma combines these two ideas, philosophical and ethical into the law of reality and virtue. Later we will see the particular applications of the concept of Dhamma to different types of human relationships and domains of human life.

II. The Four Noble Truths

Another foundation for Buddhist social thought is the Four Noble Truths, particularly the second noble truth, that craving becomes the source of suffering and misery in our social existence. The Buddha says that “Because of the craving for sense pleasures, craving for sensual enjoyment, the father fights against the son, the son fights against the father, the mother fights against the daughter, family fights with family, household with household, social group with social group, nation with nation. Because of desire and attachment for pleasures and for wealth, men put on armour, they take up their swords, they wield their weapons, they go into battle and fight each other, destroy and kill each other.’

Again in explaining dependent arising, the Buddha gave an interesting variation on the formula:

1. In dependence on craving, there arises search (object of craving);

2. In dependence on search, there arises acquisition;

3. In dependence on acquisition, there arises discrimination (notions of ‘mine, not yours’, etc.)
4. In dependence on discrimination, there arises attachment and desires;

5. In dependence on attachment, there arises clinging and selfishness (sense of protectiveness; paranoia)

6. In dependence on the sense of protectiveness, men take up their swords, become involved in wrangling, quarrels, disputes, false accusations, and all unwholesome states.

These are all traced to craving as the basic cause. When craving is eliminated, then all the social problems are eliminated.

III The Doctrine of Anatta

Buddhism teaches that the idea of self is the root of suffering, for it lies at the base of all our selfish emotions and defilements. Therefore to get free from the social turmoil that comes from the defilements, we have to uproot this sense of selfhood. We uproot this sense of selfhood by beginning to act in ways which contribute to diminishing the grip of the self idea. Ultimately the eradication of self comes through wisdom that arises out of meditation, but meditation cannot be sealed off in a compartment of its own separate from the rest of human life. True wisdom does not arise when we are living outwardly in a selfish manner. To generate wisdom in meditation, we have to cultivate selfless actions of body and speech – by observing precepts, giving, helping and assisting others and so forth. All these little acts will build up the momentum to diminishing the clinging to selfhood and provide the foundation for wisdom that realises the selflessness of all things to arise.

IV. The Four Divine Dwellings – Brahmaviharas

The four sublime states to be developed to immeasurable extent to all sentient beings are as follows:

a) Loving kindness (Metta), the wish for the welfare and happiness of others.

b) Compassion (Karuna), feeling of empathy with others, the quality that makes the heart tremble with the suffering of others; a quality that makes us identify with others and their sufferings, and it arouses our desire to take away the sufferings of others.

c) Sympathetic joy (Mudita), rejoicing in the happiness and good fortune of others; this quality removes envy and jealousy.

d) Equanimity (Upekkha), attitude of impartial neutrality extended to all beings, non-discrimination between agreeable and disagreeable situations and persons.

These are four ethical attitudes to be developed in meditation, but which can come to expression in concrete action in the social economic and political spheres.

So far we have explained the theoretical foundations of Buddhist social thought. Now we will discuss the application of these to different areas of social concern.

(to be continued)

 

2 thoughts on “Các chiều kích xã hội trong lời dạy của Đức Phật – phần 2”

  1. Cảm ơn Hồng Thuận rất nhiều. Mình mới xem lướt qua đã cảm thấy rất hay. Chắc chắn phải dành thời gian đọc lại.

    Gần đây, mình thường chỉ đọc một lần được khoảng một trang A4 là mỏi mắt. Hu hu…

    Like

  2. Hi chị Thuận,

    Em rất phục chị tinh thần cống hiến cho DCN của chị. Chị làm việc ở trường rất nhiều nhưng vẫn dành thời gian chăm chút cho bài dịch, mà lại là bài dịch về Phật giáo, rất khó dịch.

    Em mong được đọc phần tiếp theo.

    Em cám ơn chị. 🙂

    Like

Leave a comment