Ngày thầy thuốc Việt Nam: Biểu tượng y khoa, Lời thề Hippocrates, và Hải Thượng Lãn Ông

 

Chào các bạn,
1
Lương y như từ mẫu. Thầy thuốc như mẹ hiền. Nghề thầy thuốc là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, của lòng nhân ái.

Plato nói: “Trong chính trị chúng ta giả thiết là người nào biết cách lấy phiếu đương nhiên biết cách quản lý một thành phố hay một quốc gia. Khi chúng ta bị bệnh… chúng ta không tìm một thầy thuốc đẹp trai nhất hay nói hay nhất.” Thầy thuốc hoặc chữa lành được bệnh nhân hoặc không chữa được, không thể đánh bóng mình bằng các xảo thuật bên ngoài. Thầy thuốc chân thật.

Ngày Thứ tư, 27 tháng 2 năm 2013, là 58 năm Ngày Thầy Thuốc Việt Nam, kể từ năm 1955 khi nhà nước Việt Nam ấn định 27/2 là Ngày Thầy Thuốc hàng năm. Chúc các bạn đã và đang trong ngành y tế một ngày nhiều tình yêu và tạ ơn.

Nhân Ngày Thầy Thuốc chúng ta hãy nghe bài Hành Khúc Ngành Y do ban hợp xướng Đại Học Kỹ Thuật Y Tế Hải Dương (hát rất hay dù hình không tốt), và nói qua một chút về biểu tượng y tế, Lời thề Hippocrates, và Hải Thượng Lãn Ông, được xem là ông tổ của Đông y Việt Nam.

 
http://www.youtube.com/watch?v=bupFj0AntAE

 

HÀNH KHÚC NGÀNH Y

Ngành của ta ngành y tế vinh quang biết bao
Tuy có khó khăn anh chị em ta vẫn thấy tự hào
Ta đi khắp nơi gìn giữ muôn sức sống dạt dào
Vượt bao gian khó ta tiến lên không quản gian lao

Cuộc đời ta gắn bó với nghề nghiệp ta không phai
Nghề của ta như hoa thắm tươi đón chào xuân mới
Vì tổ quốc ta quyết đứng lên giữ lấy đất trời
Để hiến dâng khối óc, trái tim cho đời đẹp tươi

Là nhân viên ngành y tế ta đi khắp nơi
Biên giới xa xôi hay về nông thôn, nhà máy, công trường
Ta đi khắp nơi gìn giữ muôn sức sống dạt dào
Đẩy lùi thần chết ta tiến lên không quản gian lao

(Cuộc đời ta gắn bó với nghề nghiệp ta không phai
Nghề nghiệp ta như hoa thắm tươi đón chào xuân mới
Vì tổ quốc ta quyết đứng lên giữ lấy đất trời
Để hiến dâng khối óc trái tim cho đời đẹp tươi) (2 lần)

 

Biểu tượng ngành y

Biểu tượng nghề y sĩ là một cây gậy với một con rắn quấn quanh, gọi là Gậy Aesculapius hay Gậy Asklepios, dùng tên của vị thần thuốc men trong thần thoại Hy Lạp. Vị thần này có tên Hy Lạp là Asklepios và tên La Mã là Aesculapius, được xem là một vị thần hiền dịu, chữa lành các bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần của con người. Các tín hữu của thần này lập các đền thờ gọi là asclepions, đền thờ Asklepios, đền thờ chữa bệnh. Đền thờ lớn nhất tọa lạc trong một khu vườn rộng rãi ở Corinth, một thành phố rất lớn thời cổ đại. Người bệnh khắp nơi đến đền thờ, ngủ lại đêm để chờ lấy thuốc, và thường cúng cho thần một con gà.

Aesculapius có nhiều con, kể cả Hygieia, nữ thần của sức khỏe, từ đó có chữ hygiene (vệ sinh), và Panaceia, nữ thần chữa bệnh, từ đó có chữ panacea, thần dược vạn năng.

Gậy Aesculapius là biểu tượng của y tế tại nhiều nơi trên thế giới kể cả American Medical Association và Bộ Y Tế Việt Nam.

Tuy vậy, ngày nay, nhiều nơi đã nhầm lẫn và dùng Gậy Caduceus làm biểu tượng y tế. Gậy Caduceus (phát âm /kəˈdjuːsiəs, -ʃəs/, từ tiếng Hy Lạp kerykeion κηρύκειον) là một cây gậy ngắn với hai cánh ở đầu và hai con rắn quấn quanh thân.

Gậy này trước là do Iris mang. Iris là thần thông tin của nữ thần Hera, vợ của vua trời Zeus. Sau này, gậy này đổi tên là Đũa Thần của Hermes, vì thần Hermes mang nó. Gậy này về sau lại là biểu tượng của thần Mercury, hành tinh trong Thái dương hệ.

Dù chẳng liên hệ gì đến y ‎ tế, ngày nay gậy Caduceus được dùng là biểu tượng y tế nhiều nơi, chỉ vì người ta lẫn lộn nó với gậy Asclepius.
 

Hippocrates và Lời thề Hippocrates

Hippocrates (khoảng 460 – 370 Trước Công Nguyên) là một y sĩ Hy Lạp thời cổ đại và được xem là tổ phụ của nền y khoa Tây phương. Hippocrates khởi xướng một nền y khoa có tính cách khoa học và bị chống đối kịch liệt bởi hệ thống y khoa của Hy Lạp thời đó là hệ thống chữa bệnh một nửa là y học một nửa là pháp thuật phù thủy. Vì các chống đối này mà Hippocrates bị ở tù 20 năm. Ở trong tù ông viết quyển “Cơ Thể Phức Tạp”, nhiều điều trong đó về cơ thể con người vẫn đúng cho đến ngày nay.

Y khoa các nước Tây phương (và có lẽ mọi quốc gia trên thế giới ngày nay) có “Lời Thề Hippocrates” cho các bác sĩ tuyên thệ khi vào nghề. Ở Việt Nam ta còn gọi là “Lời thề Y đức”. Hiện nay lời thề Hippocrates có vài phiên bản mới. Sau đây là phiên bản nguyên thủy của lời thề Hippocrates:

I swear by Apollo, the healer, Asclepius, Hygieia, and Panacea, and I take to witness all the gods, all the goddesses, to keep according to my ability and my judgment, the following Oath and agreement:

To consider dear to me, as my parents, him who taught me this art; to live in common with him and, if necessary, to share my goods with him; To look upon his children as my own brothers, to teach them this art.

I will prescribe regimens for the good of my patients according to my ability and my judgment and never do harm to anyone.

I will not give a lethal drug to anyone if I am asked, nor will I advise such a plan; and similarly I will not give a woman a pessary to cause an abortion.

But I will preserve the purity of my life and my arts.

I will not cut for stone, even for patients in whom the disease is manifest; I will leave this operation to be performed by practitioners, specialists in this art.

In every house where I come I will enter only for the good of my patients, keeping myself far from all intentional ill-doing and all seduction and especially from the pleasures of love with women or with men, be they free or slaves.

All that may come to my knowledge in the exercise of my profession or in daily commerce with men, which ought not to be spread abroad, I will keep secret and will never reveal.

If I keep this oath faithfully, may I enjoy my life and practice my art, respected by all men and in all times; but if I swerve from it or violate it, may the reverse be my lot.

 
 

Tôi tuyên thệ với Apollo, thần chữa bệnh, Asclepius, Hygieia, và Panacea, và tôi minh chứng với tất cả các nam thần, các nữ thần, tôi gìn giữ, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, lời thề sau đây:

Yêu kính, như là cha mẹ tôi, người đã dạy tôi môn học này; sống hòa nhã với thầy và, nếu cần, chia sẻ tài sản với thầy; chăm sóc con cái thầy như là anh chị em tôi, và dạy họ môn học này.

Tôi sẽ kê toa vì lợi ích của bệnh nhân, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, và không bao giờ làm hại ai.

Tôi không bao giờ đưa thuốc giết người cho bất kì ai hỏi tôi, và sẽ không tư vấn một kế hoạch như vậy; và cũng như thế tôi sẽ không cho bất kì người phụ nữ nào một dụng cụ phá thai.

Nhưng tôi sẽ giữ tinh khiết cho đời tôi và cho nghề nghiệp của tôi.

Tôi sẽ không giải phẩu để lấy sạn, kể cả đối với bệnh nhân biểu lộ là mang bệnh này; tôi sẽ dành việc giải phẩu cho những y sĩ, chuyên gia về bệnh này.

Mỗi căn nhà tôi bước vào, tôi bước vào vì lợi ích của bệnh nhân của tôi, giữ gìn tôi khỏi mọi ý đồ xấu xa và mọi cám dỗ và đặc biệt là khỏi các khoái lạc tình yêu với phụ nữ hay với nam giới, dù họ là người tự do hay nô lệ.

Tất cả mọi điều tôi biết trong khi hành nghề hay trong giao tiếp với mọi người, mà không nên để lộ ra ngoài, tôi sẽ giữ bí mật và sẽ không bao giờ tiết lộ.

Nếu tôi giữ lời thề này một cách thành khẩn, tôi sẽ được an hưởng đời tôi và thực hành nghề tôi, được mọi người kính trọng mãi mãi; nhưng nếu tôi đi trái đường và vi phạm lời thề, những điều ngược lại sẽ đến với tôi.

(TĐH dịch)

Bản dịch Lời thề Hippocrates của Bộ Y Tế Việt Nam có thể tìm thấy ở đây.

 

Ông tổ Đông Y Việt Nam

Ở Âu Mỹ, Hippocrates của Hy Lạp (460 B.C. – 377 B.C.) được xem là thủy tổ của y học.

Ở Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông ngày nay được xem là biểu tượng cho y sĩ. Hải Thượng Lãn Ông (“Ông già lười Hải Thượng”) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác.

Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý 1720 tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Khi ấy, 20 tuổi, ông vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi, ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, “nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình”.
Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, nhiệt tình chữa khỏi.

Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc “Phùng thị cẩm nang” và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông.

Ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu “Hải Thượng Lãn ông”. Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. “Lãn ông” nghĩa là “ông lười”, ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi.

Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ “Y tôn tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.

Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân” của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 22 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học suất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học. (Theo Wikipedia)

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành
 

6 thoughts on “Ngày thầy thuốc Việt Nam: Biểu tượng y khoa, Lời thề Hippocrates, và Hải Thượng Lãn Ông”

  1. Nói đến Ngày Thầy Thuốc người ta nghĩ là ngày cho doctor.

    Mình nghĩ là nên có Ngày Y Tá cho các ý tá, vì y tá mới thực sự chăm lo cho bệnh nhân ngày đêm, và thường chẳng ai quan tâm đến y tá cả.

    Like

  2. Chị Lan ơi, đúng là từng cá nhân, không ai có thể nêu bất kỳ lý do nào để bào chữa cho đạo đức của chính mình. Tuy nhiên, em nói từ góc nhìn của người không thuộc ngành y. 🙂

    Khi còn nhỏ em chẳng “ấn tượng” đặc biệt gì với bác sĩ hơn những nghề khác. Mãi sau này lớn lên, biết những điều ở bác sĩ mà mình không nhìn thấy được, trong em mới lớn dần lên những tình cảm tốt và lòng biết ơn với các bác sĩ. Em cảm nhận sự hi sinh rất lớn của những người chọn nghề y: hi sinh thời gian cho bản thân, cho gia đình, hi sinh sự an toàn của cá nhân mình trước bệnh dịch, sống trong áp lực thường xuyên và to lớn, từ bệnh tật, từ phía bệnh nhân, và cả từ sự bất lực của y học, vượt lên những nỗi sợ rất tự nhiên và rất người trước ranh giới của sự sống và cái chết, trước bệnh tật, trước tai nạn, …Mình có người thân nằm viện vài ngày đã thấy mệt mỏi đến thế nào, còn người bác sĩ họ sống hàng ngày, sống quanh năm sống cả đời với bệnh viện, không phải với 1 bệnh nhân mà vô số kể bệnh nhân… Hồi trước không học y chỉ vì em không thích, bây giờ nghĩ lại em nghĩ nếu em vẫn quyết định không học y thì có lẽ vì … không đủ can đảm. 🙂

    Rồi em thấy, những người sinh viên trường y là những học sinh ưu tú thuộc hạng nhất, chăm chỉ thuộc hạng nhất và trường y, nghề y được truyền dạy rất nhiều về y đức. Em thấy ở các sinh viên trường y niềm tự hào, lý tưởng và sự nhiệt tâm với trường, với nghề. Không ai có thể phủ nhận rằng không trường nào học cực bằng trường y, học lâu bằng trường y, học khó bằng trường y. Vậy tại sao nhiều, nếu không nói phần lớn, những con người như vậy lại bị thoái hóa, biến chất sau một thời gian tốt nghiệp trường y, bước chân vào xã hội? Sức ép nào khiến họ phản bội lại chính mình?

    Em nghĩ câu “lương y như từ mẫu” là câu (i) để những người bác sĩ, sinh viên y khoa tâm niệm cho mình và nhắc nhở, động viên lẫn nhau và (ii) để xã hội biết ơn những người bác sĩ của mình – công đức của bác sĩ như từ mẫu, chứ không phải để xã hội đòi hỏi bác sĩ phải “như từ mẫu”. Trong xã hội, số y bác sĩ là rất rất nhỏ so với số người không phải y bác sĩ. Nếu cả xã hội cứ bám lấy câu “lương y như từ mẫu” để đòi hỏi, đòi hỏi và đòi hỏi ở những người y bác sĩ chỉ vì đơn giản họ là y bác sĩ thì áp lực lên các bác sĩ sẽ đến mức nào nữa? Hơn nữa, điều đó thể hiện rằng đây là một xã hội… ích kỷ, lo cho mình và đòi hỏi từ người khác. Và cái xã hội ích kỷ, lo cho mình và đòi hỏi từ người khác đó chính là môi trường khiến các y bác sĩ biến chất, chính là trào lưu xã hội cuốn các y bác sĩ đi theo mà dần mai một đi những y đức mà họ đã được truyền thụ từ trường y, mai một đi lý tưởng tuổi trẻ một thời của họ.

    Em nghĩ khi đã chọn nghề y là người đó đã chọn “chữa bệnh cứu người”, chọn sự từ tâm. Xã hội nên tập trung vào việc tôn vinh và chăm lo cho các bác sĩ, bảo đảm một mức sống khá giả, một môi trường làm việc không quá căng thẳng cho những con người ưu tú cả về tài năng và đức hạnh này để họ có thể yên tâm và tập trung đi con đường họ đã chọn từ đầu. Về mặt cuộc sống, khi mặt bằng cuộc sống của các bác sĩ đã ổn, chỉ còn một vài trường hợp cá biệt về y đức thì mới có thể lên án, khắc phục và loại trừ được. (Mà đã là một vài trường hợp cá biệt, thì có lẽ tự trong ngành y sẽ “thanh lọc” được mà xã hội cũng chẳng phải quá lo lắng.) Về mặt con người, chính sự trân trọng, tôn vinh của xã hội là trợ lực lớn lao để những người bác sĩ sống với y đức.

    Like

  3. Chị cũng đồng ý với Quỳnh Linh vì chị cũng có một số bạn bè đang làm trong nghề y.

    Chị đồng ý với việc thông cảm cùng họ về khó khăn ,vất vả ,về sự quan trọng của nghề với toàn xã hội,nhưng chị không đồng ý lắm về ý nghĩ cho là việc không giữ được y đức của các y bác sĩ có phần thuộc lỗi lớn của xã hội.Người giữ y đức phải là chính các y bác sĩ,còn xã hội nên biết ơn họ ,chị rất yêu các y bác sĩ và khâm phục họ,nhất là khi chứng kiến họ chữa bệnh

    Like

  4. Càng lớn lên, hiểu hơn về những khó khăn, những áp lực, những hi sinh của các y bác sĩ, em càng cảm kích, khâm phục và biết ơn những người đã chọn nghề y là con đường cho mình. Em tin rằng đó là những con người rất gan dạ, dũng cảm và bản lĩnh.

    Từ khi có một người em trong gia đình theo học y, em nhận thức rõ rệt rằng đây là ngành truyền dạy nhiệt huyết và từ tâm hơn hẳn những ngành nghề khác. Nếu những con người ưu tú và đầy nhiệt huyết ban đầu này trở nên thoái hóa, biến chất thì lỗi lớn thuộc về xã hội. Vì vậy, trước những tin báo chí về các vấn đề y đức, em thấy rằng xã hội cần có sự quan tâm, chăm lo, thấu hiểu và trân trọng các bác sĩ hơn nữa, tạo điều kiện sống và làm việc cho các bác sĩ hơn nữa, tạo điều kiện cho các bác sĩ sống đúng với con người mà họ đã chọn thời trai trẻ.

    Like

  5. Em mến chúc chị Xuân Lành, anh Hồng Phúc và các anh chị em đang công tác trong ngành Y, luôn nhiều tình yêu với nghề ạ.

    Like

  6. Cầu chúc cho ngành y Việt Nam giữ mãi được truyền thống y đức mà ông cha ta đã để lại .
    Em sẽ đưa điều này vào phần cầu nguyện của mình.

    Like

Leave a comment