Cảm nghĩ ở một vùng cao Sơn La

Sau nhiều năm, mùa xuân này tôi mới có dịp trở lại với vùng cao Sơn La – Tây Bắc. Nơi đây vừa trải qua những ngày đông nghiệt ngã…

Lá cây chuối, cây mía cháy táp tiêu điều bởi sương muối.

Những bàn chân trần người lớn trẻ con nứt nẻ, trên đường núi, trong lớp học.

Những mảnh áo chàm vá víu phong phanh; những tấm da bò che tạm cơn gió buốt thấu xương.

Người phụ nữ bụng chửa gùi lu-cợ nặng trĩu, quai hằn trên trán, mặt ngửa lên trời, ngón chân bấm đá sắc.

Những cụ già, em nhỏ đèo đôi bương nước lê từ chân dốc lên núi, trong từng đợt gió căm căm.
Những bước chân gấp gáp nặng nhọc cõng lá tranh xuyên qua sương mù, trong khi hai bàn tay se sợi đay không lúc nào ngừng nghỉ.

Nước rỏ từng giọt từ cây bương chẻ đôi làm ống nước treo qua bản.

Chảo chàm màu xanh lét được đảo lên đảo xuống bởi đôi tay sần chai cũng nhuộm kín màu chàm.

Người đàn bà còn trẻ vú đã sệ xuống, khuôn mặt răn deo khắc khổ, đẩy chiếc guồng se sợi lanh chậm chạp quay vòng giữa sân.

Nhiều lớp học vùng cao sắp hết kỳ nghỉ đông để vào năm học mới mà vách nứa mái tranh vẫn trống huếch tứ phía, đầy phân trâu ngựa, bàn ghế long gẫy tồi tàn.

Những lời cúng ma thống thiết não nuột bay ra từ chiếc khăn đen trùm kín mặt, cùng tiếng chiêng bạt rờn rợn nhảy nhót trên những gương mặt lo âu ám khói.

Câu dân ca Mông hát bên bếp lửa như vọng mãi lời ai oán của những kiếp người khổ sở:

Ta trót ăn lầm cơm ma
Trót uống lầm nước ma
Lạc chân trời đến quê ma
Ta đi được, trở về không được…

*

Nhưng vùng cao Tây Bắc đâu phải chỉ có gian khổ, cực nhọc! Chuyến đi lần này, tôi càng hiểu thêm điều đó…

Vào mùa xuân, khi những tia nắng ấm bắt đầu chen lấn sương mù, sương mù không còn dày đặc đáng sợ nữa. Chúng lại giống một dải khăn voan trắng mờ phủ lên cảnh vật hoang sơ, điểm xuyết những vệt hồng nhạt của hoa đào, những vệt trắng muốt của hoa mơ, hoa mận, hoa sơn tra, hoa mắc coọc – tạo nên cái không khí quen thuộc trong thơ cổ… Muộn hơn chút nữa, là đến mùa hoa ban nở – thứ hoa của truyền thuyết mà chỉ vùng núi Tây Bắc mới có! Cùng với những ngọn núi chan hoà ánh dương phủ mây trắng, cỏ cây hoa lá và trang phục cầu kỳ của người vùng cao sẽ bất ngờ khắc hoạ những cảnh vật nếu không hùng vĩ tráng lệ thì cũng thầm kín e ấp… Có thể nói, chính cái khung cảnh thiên nhiên ấy đã góp phần tạo nên bản sắc có một không hai của văn hoá vùng cao. Những phục trang, những hoạ tiết thổ cẩm tinh xảo rực rỡ của người Mông, người Dao khiến bất kỳ ai khó tính nhất cũng phải khâm phục. Nước thép rèn của những con dao Mông chất lượng không kém lưỡi dao Đa-mát Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng thế giới. Nòng súng kíp của người Mông được làm một cách kỳ công, chính xác – bằng sức nước ngày đêm khoan nòng thép! Những thửa ruộng bậc thang, những nương màu trên những sườn núi có độ dốc cao chứng tỏ kỹ thuật canh tác độc đáo và đức tính cần cù, nhẫn nại của người dân vùng cao… Cuộc vận động phá bỏ cây thuốc phiện cách đây gần hai thập kỷ đã làm rung chuyển tận gốc rễ một tập quán canh tác và sinh sống quan trọng của hàng chục vạn người Mông. Những người khổng lồ xưa trong truyền thuyết của người vùng cao chắc hẳn phải ngỡ ngàng bởi thế hệ cháu chắt của họ trong những năm cuối của thế kỷ 20 đã dám từ bỏ một tập quán vững chắc dường như có sự hỗ trợ của đấng thần linh: trồng và hút thuốc phiện!

Lần này, tôi không có điều kiện đi tới nhiều vùng cao Sơn La như lần trước. Tôi chọn vùng cao huyện Bắc Yên…Vượt qua những đoạn đường núi long lanh trắng muốt hoa sơn tra, hoa mận, tôi đến với xã Tà Sùa – một trong những vùng cao điển hình của Tây Bắc (thuộc chiến khu 99 cũ, quê hương của “Vợ chồng A Phủ”). Nơi đây, sương mù lẫn với khói đốt nương, hoà với khói bếp, trộn cùng khói nâu thuốc phiện trong hàng thế kỷ…

Nhưng cũng chính nơi đây, có một điều kỳ diệu ít được biết đến: chính sương mù đã góp phần lớn tạo ra một giống chè tuyết đặc sản hiếm có – chè tuyết Tà Sùa. Ở ngay thị trấn Bắc Yên hiện tại, giá một cân chè khô Tà Sùa đã là gần 1 triệu đồng! Sương mù quả là một thứ vàng trắng đặc biệt. Ở độ cao gần 2.000 mét dày đặc sương mù, độ ẩm lớn, chất đất thích hợp, chè Tà Sùa đã mọc tự nhiên thành rừng. Cây chè từng mọc bên cây thuốc phiện, chúng tranh giành thế lực của nhau qua nhiều số phận người, qua nhiều năm tháng, cho tới ngày mà – như một thứ định mệnh, cây chè Tà Sùa đã buộc phải thay thế hoàn toàn cho cây thuốc phiện…Vị chát ngọt đặc biệt của chè Tà Sùa như được chắt lọc từ hương thơm của trăm loài hoa rừng. Lá búp chè được hái vào sáng sớm khi chưa tỏ mặt người; các bếp lò sao chè thâu đêm bằng tay sẽ làm công việc kết tinh lại một lần nữa sự sống của thiên nhiên vào những cánh chè vương bụi phấn óng ánh như tuyết chứa đủ 18 vị đầu đẳng của những loại chè ngon nhất thế giới! Và nếu như chè được pha bằng nước suối Tà Sùa, lại do chính bàn tay hái búp và sao chè của người phụ nữ Mông – trong cái se se lạnh của đầu xuân bên bếp lửa vùng cao, ta sẽ được thưởng thức hết cái hương vị lạ lùng của chè Tà Sùa, và chắc chắn sẽ được sống với những gì tinh khiết nhất của tâm hồn con người…

Cách đây mười mấy năm, bà Iakokisi trong một phái đoàn tham quan của Nhật Bản – đất nước của những truyền thuyết về trà đạo, sau khi thưởng thức hương vị chè Tà Sùa đã phải thốt lên: “Nếu các bạn có bao điều tự hào về đất nước của mình thì chè Tà Sùa có thể là một trong những niềm tự hào đáng kể nhất… Các bạn hãy gìn giữ nó như báu vật trời cho.”

Tôi nhấm nháp bát nước chè Tà Sùa đựng trong cái bát vẫn dùng để uống rượu men lá của người Mông, bỗng thấy ngây ngất như lần đầu tiên được uống thứ rượu Hạnh Hoa mà anh bạn thân tặng cho khi đi Trung Quốc về, trong lời ngâm nga thơ Đỗ Mục: Tá vấn tửu gia hà xứ hữu/ Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn… (Hỏi ở đây nơi nào có bán rượu/ Trẻ chăn trâu chỉ đến thôn Hạnh Hoa… ) Rượu ngon đã đành. Nhưng còn ngon hơn nữa khi nó gắn với một lai lịch văn hoá, một không gian văn hoá! Và tôi chợt thầm ao ước: chè Tà Sùa, cũng như bao thứ đặc sản vùng cao Tây Bắc của chúng ta sẽ phải được nhiều vùng miền, nhiều tầng lớp người biết đến, với sự ngây ngất về văn hoá như thế… Và nếu được vậy, cũng có nghĩa là sẽ góp phần bớt đi cái cảnh những phụ nữ vốn tươi thắm như đoá hoa rừng mới nở đã vội úa tàn trong công việc nặng nhọc, đời sống vất vưởng mà tôi đã từng thấy suốt tuổi trẻ của tôi cho tới tận mùa xuân này, trên một rẻo đất vùng cao Sơn La – Tây Bắc…

Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn

2 thoughts on “Cảm nghĩ ở một vùng cao Sơn La”

  1. “Và nếu được vậy, cũng có nghĩa là sẽ góp phần bớt đi cái cảnh những phụ nữ vốn tươi thắm như đoá hoa rừng mới nở đã vội úa tàn trong công việc nặng nhọc, đời sống vất vưởng mà tôi đã từng thấy suốt tuổi trẻ của tôi cho tới tận mùa xuân này, trên một rẻo đất vùng cao Sơn La – Tây Bắc…”
    Cai ket bang khuang, buon va day y nghia. Bai viet hay qua! Cam on tac gia

    Like

  2. Cảm ơn đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn.

    Mỗi lần đọc xong những kí sự của bác, cháu lại thấy yêu đất nước Việt Nam và con người Việt Nam mình hơn.

    Like

Leave a comment