Tag Archives: trà đàm

Cỏ cây giác ngộ thế nào?

Vào thời Kamakura, Shinkan học Thiên Thai Tông sáu năm, sau đó học Thiền 7 năm; rồi thiền sư qua Trung Quốc và nghiên cứu Thiền 13 năm nữa.

Khi thiền sư trở về Nhật nhiều người muốn gặp thiền sư và hỏi các câu bí hiểm. Nhưng Shinkan rất ít tiếp khách, và khi tiếp khách, thiền sư rất ít khi trả lời câu hỏi của họ.

Ngày nọ có một người 50 tuổi đang học về giác ngộ, nói với Shinkan, “Tôi đã học tư tưởng của Tông Thiên Thai từ lúc còn nhỏ, nhưng một điều tôi không hiểu nổi. Thiên Thai cho rằng ngay cả cỏ cây cũng sẽ giác ngộ. Đối với tôi đây là điều rất lạ.”

“Bàn luận cỏ cây giác ngộ thế nào thì được ích gì?” Shinkan hỏi. “Câu hỏi là anh làm thế nào để có thể giác ngộ. Anh có bao giờ nghĩ đến chuyện đó không?”

“Tôi chẳng bao giờ nghĩ như vậy cả,” ông già kinh ngạc.

“Vậy thì về nhà và nghĩ đến nó,” Shinkan kết thúc.
.

Bình:

• Thời Kamakura bắt đầu từ năm 1185 đến năm 1333.

• Thiên Thai Tông của Nhật thật ra cũng có thiền. Thiên Thai Tông do Tối Trừng (Saicho) thiết lập năm 805 sau khi đã học Thiên Thai từ Trung Quốc. Tuy nhiên Thiên Thai Nhật của Saicho có đển bốn phần: (1) Thiên Thai Trung Quốc (dùng tư tưởng của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là chính); (2) Mật tông (Tây Tạng); (3) Thiền (nhưng chú trọng nhiều đến thiền chỉ – Samatha – tập trung tư tưởng vào một điều gì đó như là hơi thở để lắng đọng, hơn là thiền quán – Vipassana – quán sát một điều gì đó để hiểu được thâm sâu); và (4) giới luật (đại thừa).

Trong bài này nói Shinkan ngưng Thiên Thai để học Thiền, có lẽ là dòng Thiền thuần túy như thiền Lâm Tế của Thiền sư Hakuin Vậy À.

• Bài này rất rõ: Giải phóng chính mình, giải phóng tư tưởng của mình, giác ngộ của chính mình, là trọng tâm của Phật pháp và Thiền học.

Rất nhiều câu hỏi triết lý bí hiểm hấp dẫn ở đời thật ra là không quan trọng và tốn thời gian vô ích.

Trong Tiểu Kinh Malunkya, Malunkya nhận thấy:

Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.

Đức Phật nói:

Này Malunkyaputta, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi tên được tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè và bà con huyết thống của người ấy mời một vị y sĩ khoa mổ xẻ đến săn sóc. Nhưng người ấy lại nói: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi thuộc giòng hoàng tộc, hay Bà-la-môn, hay buôn bán, hay người làm công. ..[hay]… tộc tánh là gì…[hay]… cao hay thấp, hay người bậc trung… [hay]… da đen, da sẫm hay da vàng … [hay] thuộc làng nào, thuộc thị trấn nào, thuộc thành phố nào… [hay]… cái cung mà tôi bị bắn, cái cung ấy thuộc loại cung thông thường hay loại cung nỏ … [hay]… dây cung mà tôi bị bắn, dây cung ấy làm bằng cây leo, hay cây lau, hay một thứ gân, hay một thứ dây gai, hay một thứ cây có nhựa… [hay]… cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc một loại cây lau này hay cây lau khác… [hay]… mũi tên ấy có kết lông gì, hoặc lông con kên, hoặc lông con cò, hoặc lông con ó, hoặc lông con công, hoặc lông một loại két… [hay]… cái tên ấy được cuốn (parikkhittam) bởi loại gân nào, hoặc là gân bò cái, hoặc là gân trâu, hoặc là gân nai, hoặc là gân lừa… [hay]… tên nhọn, hay … tên móc, hay… như đầu sào, hay… như răng bò, hay… như kẽm gai”.

Này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được biết gì.

Và Đức Phật, nói thêm:

Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta không trả lời ? Này Malunkyaputta, vì điều ấy không liên hệ đến mục đích, điều ấy không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta không trả lời.

Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời. “Đây là khổ… Đây là [nguyên nhân] khổ… Đây là [diệt] khổ… Đây là con đường đưa đến [diệt] khổ” là điều Ta trả lời.

Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời.

Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hãy thọ trì là trả lời những điều Ta có trả lời.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

How Grass and Trees Become Enlightened

During the Kamakura period, Shinkan studied Tendai six years and then studied Zen seven years; then he went to China and contemplated Zen for thirteen years more.

When he returned to Japan many desired to interview him and asked obscure questions. But when Shinkan received visitors, which was infrequently, he seldom answered their questions.

One day a fifty-year-old student of enlightenment said to Shinkan: “I have studied the Tendai school of thought since I was a little boy, but one thing in it I cannot understand. Tendai claims that even the grass and trees will become enlightened. To me this seems very strange.”

“Of what use is it to discuss how grass and trees become enlightened?” asked Shinkan. “The question is how you yourself can become so. Did you even consider that?”

“I never thought of it that way,” marveled the old man.

“Then go home and think it over,” finished Shinkan.
#46

Kiến thợ

Chào các bạn,

Hồi nhỏ mình hay ngắm các đàn kiến làm việc, hoặc là một đàn kiến vàng lớn đang tha mấy con sâu róm lớn bằng cả mấy chục con kiến từ gốc cây mảng cầu lên tổ kiến gần ngọn, hoặc một đàn kiến lửa tha mỗi con một hạt cơm trong góc nhà, hoặc một đàn kiến đen nhỏ đang tha một con dế chết trong góc sân.

Và ai nhìn kiến làm việc cũng phải phục—một đàn chạy tới chạy lui lăng xăng, nhưng luôn luôn trong một con đường nhỏ ngoằn nghèo như sợi chỉ. Các con tha mồi thì một nhóm ring một miếng mồi khổng lồ, các con chạy ngược chiều thì lại cụng đầu các con khác hỏi thăm chi đó… Rất chăm chỉ, trật tự, và hình như kiến không bao giờ đánh nhau.

Và mình thường tự hỏi, không biết trong đàn kiến này có bao nhiêu cấp chỉ huy, bao nhiêu tướng, bao nhiêu tá, bao nhiêu úy, bao nhiêu lính… Sao mà đoàn quân này kỹ luật và hiệu nghiệm đến vậy? Cách thức tổ chức thế nào?

Mình chưa bao giờ có câu trả lời. Câu trả lời duy nhất mình thấy là mọi con kiến và mỗi con kiến đều như nhau, đều siêng năng, đều làm việc tốt, và mình chẳng phân biệt được con nào với con nào cả.

Ngoại trừ kiến chúa, tất cả các kiến thợ còn lại có hệ cấp hay không, có lẽ chúng biết, nhưng ta không biết. Nhưng điều đó chẳng quan trọng gì với ta cả. Kiến làm việc đoàn kết và bình đẳng—đó là điều ta thấy.

Về sau này, khi suy tư về con người, mình cũng thấy là có lẽ con người cũng như kiến. Từ góc độ của các con người nhìn nhau, chúng ta có sang hèn, giỏi dốt, giàu nghèo, ông thằng… và chúng ta thường xử với nhau bằng hệ cấp.

Nhưng từ một góc độ cao hơn và lớn hơn, từ trên cao nhìn xuống loài người, như ta nhìn đàn kiến, thì các hệ cấp đó đều chẳng nghĩa l‎ý gì cả–Mọi con người đều nhỏ bé như nhau, nhìn như nhau, làm việc cho đoàn người lăng xăng chăm chỉ như nhau. Người khổng lồ nào đang nhìn đàn người đó, chắc là không có những ý ‎ nghĩ bất bình đẳng giữa các con người, như chúng ta thường nghĩ về nhau.

Sự khác biệt là ở nơi góc độ nhìn: Cái nhìn thiển cận ở góc độ ngang nhau, hay cái nhìn lớn từ góc độ cao hơn nhiều.

Vì vậy nếu chúng ta có thể phóng tâm đến tầm cao hơn, để có thề nhìn xuống chính mình và mọi người chung quanh, thì chúng ta có thể có cái nhìn rộng lớn và toàn diện, trong đó bằng cấp, chức vị, tiền bạc, danh tiếng, danh dự, hay bất cứ cái gì ta có đều chẳng nghĩa l‎ý gì cả, và ta cũng chỉ là một con người như anh hàng xóm, đều cùng lăng xăng trong một đoàn người như nhau.

Thế thì vì cớ gì mà ta cứ kềm cái đầu sát mặt đất để kiêu hãnh hão với các thứ vỏ ảo tưởng trên mình?

Những thứ phân chia hệ cấp thực ra chẳng nghĩ lý gì cả. Nhưng vì hệ thống quản lý kinh tế chính trị không hoàn hảo của ta tạo ra đủ thứ lăng nhăng như vậy, chung qui chỉ vì lòng tham của chúng ta—mọi người ham hố những thứ phụ tùng đó—nên chúng ta tranh nhau để có chúng, và để thu được “phần thưởng” do chúng mang lại. Từ đó, ta có hệ cấp, phân chia, tranh giành, và chiến tranh khi tranh giành trở thành quá lớn. Đa số các cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền, xã hội, và các cuộc chiến tranh ý thức hệ trên thế giới, chẳng qua cũng chỉ là tranh giành các cái vỏ bên ngoài này, hay là tranh giành quyền phân phát hoặc quyền ấn định hệ thống phân phát các vỏ này.

Thế giới chắc là sẽ tốt hơn một tí, nếu mỗi ngày bạn có thể phóng tâm lên tầng cao và nhìn xuống đoàn người chi chít lăng xăng dưới chân bạn, như một đàn kiến.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Cởi bỏ những lớp áo

Có bao giờ bạn đứng trong nhà tắm, không mặc gì, ngắm mình trong gương rồi tự khen mình thật đẹp?

Nếu như bạn nghĩ rằng tôi đang bắt đầu một chủ đề nào đó rất nhạy cảm và có phần dung tục, thì thật là đáng tiếc rằng đầu óc bạn đã bị tiêm nhiễm rất nhiều những suy nghĩ không trong sáng đấy :). Nếu như bạn gật đầu, tôi tin là bạn đã rất thành thật, vì ai trong chúng ta từ khi lớn lên cũng ít nhất một lần làm như vậy.

Và bạn nghĩ sao mỗi khi ra phố phải khoác lên người hàng lớp lớp áo quần. Quần áo đã trở thành những lớp vỏ thật khéo cho chúng ta che giấu đi bản thân mình, nhất là những điểm mà chúng ta cho là “xấu”, và tôn thêm những điểm mà chúng ta cho là “đẹp”. Lắm khi vì muốn đẹp hơn trong mắt mọi người mà bạn gái phải cố đi lênh khênh trên những đôi giày cao cả chục centimet hay mặc những bộ cánh không lấy gì làm thoải mái nhưng bù lại, được bạn bè khen là sexy.

Nhưng bạn có bao giờ nghĩ rằng những lớp áo quần kia đang che đi vẻ đẹp trần trụi nhất và những gì đẹp nhất của cơ thể bạn, không có chúng hẳn mọi người đã nhìn bạn ĐÚNG hơn?

Mỗi khi đi ra phố, chúng ta buộc phải có những tương tác với những người khác. Vì trong những tương tác này chúng ta luôn mong muốn có được những phản hồi tốt đẹp từ đối tượng. Nếu đó là ấn tượng đẹp về cơ thể thì bạn không muốn họ nhìn thấy những điểm xấu như cái nốt ruồi trên cánh tay hay vòng eo hơi mập một chút. Vậy là bạn cần mặc một chiếc áo dài tay, hay một chiếc váy rộng rãi.

Nếu đó là ấn tượng về tinh thần thông qua lời nói thì đôi khi bạn phải “mặc áo quần” cho mỗi một lời thốt ra. Một lớp che đi sự tự ti rằng mình xuất thân từ gia đình trung lưu, không giàu có như nhiều bạn đồng trang lứa. Một lớp che đi nỗi buồn ngày hôm qua mình đã trượt vòng phỏng vấn xin việc cuối cùng. Một lớp nữa che đi tính tự cao cho rằng mình đáng phải được đề bạt làm trưởng nhóm xuất sắc nhất trong lần tổng kết vừa rồi của nhóm sinh viên tình nguyện.

Có một lúc nào đó bạn chợt nhận ra mình không thể tự nhiên và tự tin để giao tiếp với mọi người vì những lớp áo quần kia làm bạn trở nên nặng nề và chậm chạp hơn?

Hẳn là bạn hiểu vẻ đẹp của con người xuất phát từ tâm hồn chứ không phải là lớp quần áo bề ngoài. Nếu bạn vui một bộ cánh màu đen không làm cho người khác hiểu nhầm rằng bạn có khuôn mặt “đưa đám”. Nếu bạn tự tin, một chiếc áo đã cũ mặc cả mấy năm nay cũng không làm mất đi sức hút của bạn trước người đối diện, thậm chí họ còn thấy chiếc áo này như may ra dành riêng cho bạn.

Vì thế, có cớ gì mà bạn không nhìn vào những nốt ruồi trên cánh tay với sự yêu thương nhất. Hãy cảm ơn Thượng đế đã cho bạn một cái dáng người nhỏ, vì bạn có thể đi lại nhanh nhẹn. Hãy tự tin rằng mình có nước da ngăm, vì mình rất dễ được nhận ra trong đám đông toàn là da vàng hay trắng.

Khi giao tiếp cũng vậy. Bạn hãy cố gắng bỏ đi những lớp áo quần của mặc cảm, tự ti và các suy nghĩ tiêu cực. Hãy tiến đến ai đó trần trụi nhất có thể và tự tin cho họ những gì bạn có. Tôi nghèo nhưng học giỏi, da hơi xấu nhưng có giọng nói ngọt ngào, gõ máy tính không nhanh lắm nhưng lướt web cũng không kém ai cả, lại còn có kinh nghiệm mua bán trên mạng vân vân và vân vân…

Nếu bạn yêu những nốt ruồi của mình, cớ gì những người khác phải ghét nó? Nếu bạn đánh giá cao những gì bạn đang có, cớ gì người khác xem nhẹ chúng nhỉ?

Quần áo sẽ thật tốt nếu chúng làm chúng ta tự tin và đẹp hơn lên trong mắt mọi người, nhưng hãy đừng để chúng làm mọi người nghĩ sai về mình bạn nhé. Mình không có ý nói rằng chúng ta không nên mặc gì khi ra phố :D. Nhưng trong suy nghĩ, hãy nên trần trụi, tức là thành thật, nhất có thể. Bạn hãy vứt đi những lớp áo của suy nghĩ tiêu cực và thể hiện bản thân mình như những gì bạn đang sở hữu. Đó là cách để mọi người nhìn con người bạn đúng nhất và bạn cũng luôn cảm thấy tự tin khi được là chính mình.

Chúc các bạn một ngày tươi hồng,

Hoàng Khánh Hòa

Đúng và Sai

Khi Bankei mở mùa an cư kiết hạ, đệ tử từ nhiều nơi trên đất Nhật về tham dự. Trong một buổi thiền định, một đệ tử bị bắt gặp đang ăn cắp. Vấn đề được bẩm báo lên Bankei, với yêu cầu là người đệ tử ăn cắp bị đuổi. Bankei lờ vụ này.

Sau đó đệ tử này lại bị bắt gặp ăn cắp như vậy, và một lần nữa Bankei lờ vấn đề. Chuyện này làm các đệ tử khác tức giận; họ viết một thỉnh nguyện thư yêu cầu kẻ cắp bị đuổi, nói rằng nếu không thì họ sẽ rời bỏ.

Sau khi đọc lá thơ, Bankei gọi mọi người đến. “Các anh em rất thông thái,” thiền sư nói với họ. “Anh em biết cái gì đúng và cái gì không đúng. Anh em có thể theo học nơi khác nếu muốn, nhưng người anh em khốn khó này chẳng biết đúng sai. Ai sẽ dạy anh ta nếu tôi không dạy? Tôi sẽ giữ anh ta lại đây dù là tất cả các anh em rời bỏ.”

Một suối lệ chảy dàn dụa trên mặt người đệ tử ăn cắp. Tất cả mọi ham muốn trộm cắp đã tan biến.
.

Bình:

• Thường thì những người tự cho mình là đạo đức, hay ít nhất là mình không xấu, thì thường tìm cách lánh xa và xua đuổi những người họ cho là xấu.

Tuy nhiên, “Người mạnh khỏe không cần y sĩ, nhưng người bệnh thì cần.” (Kinh thánh Thiên chúa giáo, Matthew 9:12)

• Hơn nữa, đồ tể buông đao thành Phật. Không thể nói ai sẽ thành Phật trước—người ăn cắp hay người không ăn cắp.

• Thiền là “vô tâm”, không phân biệt học trò giỏi dở tốt xấu. Lo cho mọi học trò như nhau.

• Thực ra thì ai đúng ai sai? Kẻ cắp đương nhiên biết rằng trộm cắp là sai (chỉ là do yếu đuối vì lý do nào đó mà làm bậy). Các đệ từ khác thiếu trí tuệ, thiếu từ tâm, nhưng lại vẫn nghĩ là mình đúng đến nỗi áp lực cả thầy.

Thế thì ai hiểu biết, và ai si mê?

An cư kiết hạ là mùa chư tăng không ra ngoài, cùng ở nhà với nhau để giữ gìn sức khỏe và học tập tăng cường đạo lực. Tại Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, mùa này bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, đến rằm tháng 7, là ngày Tự Tứ đồng thời là Lễ Vu Lan, tổng cộng 90 ngày.

• Bankei là thiền sư Bàn Khuê Vĩnh Trác mà ta đã nói đến trong bài Giọng nói của hạnh phúc.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Right and Wrong

When Bankei held his seclusion-weeks of meditation, pupils from many parts of Japan came to attend. During one of these gatherings a pupil was caught stealing. The matter was reported to Bankei with the request that the culprit be expelled. Bankei ignored the case.

Later the pupil was caught in a similar act, and again Bankei disregarded the matter. This angered the other pupils, who drew up a petition asking for the dismissal of the thief, stating that otherwise they would leave in a body.

When Bankei had read the petition he called everyone before him. “You are wise brothers,” he told them. “You know what is right and what is not right. You may go somewhere else to study if you wish, but this poor brother does not even know right from wrong. Who will teach him if I do not? I am going to keep him here even if all the rest of you leave.”

A torrent of tears cleansed the face of the brother who had stolen. All desire to steal had vanished.

# 45

Cơ hội là do chính bạn tạo ra

Chào các bạn,

Nhân dịp Đọt chuối non mở chuyên mục mới là Du học, mình giới thiệu với các bạn bài chia sẻ của mình về kinh nghiệm xin học bổng du học Mỹ trên USguide forum năm 2009. Lúc đó mình đang là sinh viên của chương trình Master of Science in Social and Applied Economics, Wright State University. Chương trình học kéo dài trong 11 tháng để lấy đủ tín chỉ (coursework) và thêm 3 tháng để hoàn thành luận văn. Mình đã tốt nghiệp tháng 12 năm 2009.

Hi vọng là bài viết sẽ có ích cho những bạn nào có mong muốn đi du học và khám phá thế giới như mình 🙂

Chúc các bạn một ngày tươi hồng,

Hoàng Khánh Hòa

.

Hiện tại mình đang học ngành Kinh tế học tại ĐH Wright State (www.wright.edu), một trường thuộc hệ thống công lập của bang Ohio. Cơ hội học bổng đến với mình hơi bất ngờ, nhưng theo mình chút may mắn đó là kết quả của một quá trình Dreaming, Planning, Taking Actions và Waiting for Opportunities mà mình muốn chia sẻ với các bạn dưới đây.

Bản thân mình từ khi học cấp 3 đã có những suy nghĩ nhen nhóm về việc du học, nhất là học Toefl. Tất cả những khái niệm đó tất nhiên ban đầu rất mơ hồ, nhưng đó là những hình ảnh cứ luẩn quẩn và rất rõ trong đầu mình. Khi lên ĐH (mình học Ngoại thương khóa 41) mình bắt đầu thực hiện ao ước học tốt tiếng Anh bằng khóa Toefl đầu tiên. Lúc đó chỉ học thôi còn chưa có ý định thi, mà quả là cũng chưa vào đầu được nhiều lắm, có chăng là hiểu được cách làm bài, cách thi. Trong thời gian học ĐH mình luôn dành nhiều thời gian học tiếng Anh, một phần vì thích và một phần nữa thấy nó cũng rất cần thiết cho công việc sau này. Và thêm nữa, mình bắt đầu tìm hiểu các cơ hội xin học bổng. Tất nhiên mình phải xin được học bổng, vì gia đình không thể chu cấp tài chính cho mình đi học nước ngoài dù có xin được 50% chi phí đi nữa.

Mình nhớ có lần ghé qua IDP (Cơ quan giáo dục Australia), họ tuyên bố thẳng là nếu bạn không có điểm GPA trên 8.0 thì khó mà xin được học bổng 100%. Ngược lại, khi mình đến một trung tâm tư vấn du học Mỹ, họ khẳng định với mình là chỉ cần Toefl trên 600 và GRE trên 1200 là mình hoàn toàn có khả năng xin được học bổng, dù chỉ là bằng Khá Đại học. Vậy là mình biết mình đã tìm thấy một con đường phía trước để phấn đấu, rất rõ ràng (ngành Economics của mình học bổng không nhiều, và mình đã từng nghĩ đến việc nhờ Dịch vụ tư vấn du học làm giúp hồ sơ, nhưng mình khuyên là các bạn nên tự tin apply,và kiên nhẫn chờ đợi cơ hội).

Tập trung cao độ, và chọn điểm rơi chính xác

Cái này nó hơi trừu tượng, có thể hiểu là bản thân mỗi người phải tự hiểu mình, biết điểm yếu, điểm mạnh, và “lên giây cót tinh thần” đúng lúc. Bạn hãy lắng nghe chính mình và tập trung để đạt mục tiêu. Mình nghĩ ai học cũng vất vả như nhau cả, đạt điểm cao hay thấp còn phụ thuộc một chút may mắn, nhưng điều quan trọng là bạn phải đặt cho mình một mục tiêu để hướng đến, và chỉ suy nghĩ làm sao để đạt được mục tiêu đó, để nó “ngấm” vào như là hơi thở của mình, thì chắc chắn bạn sẽ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

Việc còn lại là lên kế hoạch thi Toefl. Mình dự định apply mùa Fall 2006, nên vào năm cuối Đại học mình đã tranh thủ tự ôn ở nhà 3 tháng và thi. Kết quả cũng không tệ lắm, 607 điểm (tháng 3/2006). Lúc đó mới học Toefl thôi mà đã thấy chông gai rồi, vì trong khi bạn bè xin đi làm thêm, tham gia nhiều hoạt động, mình là sinh viên tỉnh lẻ không có nhiều điều kiện, lại lo ôn thi nên hầu như không tham gia được việc gì ngoài ôn luyện ở nhà cả. Lúc đó mình đã nghĩ nếu mà không được trên 600 thì thôi luôn khỏi ao ước du học nữa cơ đấy :). Có lẽ số điểm mình đạt được là một cái mốc rất quan trọng, giúp mình tự tin vào khả năng và bước tiếp.

Cái mốc thứ hai là thi GRE. Mình đã tham gia học một lớp GRE ở trung tâm tiếng Anh từ năm 2005. Đến tháng 7/2006 mình học ôn cùng một nhóm có 10 người (sau rồi rơi rụng dần mất mấy vị). Bọn mình thi vào cuối tháng 10/2006. Điểm GRE của mình cũng được coi là tốt, 1300. Quả thực là hồi học GRE mình vừa làm luận văn tốt nghiệp, vừa ôn thấy cũng căng thẳng, thiếu chút xíu nữa là “hâm” thôi. Có những lúc down quá, lại gọi điện cho bạn bè than thở. Vấn đề là, người nào không ôn GRE thì không hiểu được những cái “điên điên” mà người học gặp phải, nên rất khó nói chuyện với bố mẹ, hay ngay cả bạn bè thân thiết. Cho nên mình nghĩ một trong những yếu tố thành công của tập thể ôn thi GRE đó là hỗ trợ phần lớn về mặt tinh thần, và có mọi người phải cùng có quyết tâm cao.

Lúc gần thi mình học rất “vào”, ngày nào cũng xào đi xào lại hàng trăm từ vựng, và nhớ chúng vanh vách. Nhưng đen đủi là 3 ngày gần thi thì tự dưng lăn quay ra ốm, thế là lỡ cả kế hoạch làm đề vào mấy ngày cuối. Bạn tưởng tượng là hôm đi thi, mình bị vẫn ốm và lại uống nước cam lạnh (cẩn thận quá để sẵn trong tủ lạnh từ tối hôm trước :D) thế là đang chờ điểm danh vào phòng thi mà phải chạy vào toilet nôn thốc nôn tháo :(. Ôi chỉ 1 chút nữa là đầu hàng đi về. May mà xong thì cũng tỉnh táo lại và cảm thấy vẫn đủ sức chiến đấu :D. Điều tuyệt vời nhất là ở nhà chưa bao giờ làm toán được tối đa, nhưng điểm phần Qualitative của mình được 800, mình cũng thấy khó tin :).

Cơ hội là do chính bạn tạo ra

Câu chuyện apply của mình thì có phần còn dài dòng hơn. Đó là quá trình đi chọn ngành chọn nghề. Mình thú thật, học Ngoại thương xong ra trường chẳng biết làm cái gì. Thấy ngành gì cũng thích, cũng có khả năng làm được. Vậy là hoang mang.

Lúc đó mình chỉ nghĩ thích học về Management, mà lại ôn GRE (cái hồi quyết định học GRE là vì nghe nói xin học bổng MBA khó), thế là mình mò mẫm ra cái ngành gọi là Master of Public Administration. Chỉ loanh quanh có thế thôi, và quyết định apply ngành này. Chẳng tìm thấy ai ở Việt Nam học ngành này để mà hỏi cả. Thế là cứ tự mày mò làm hồ sơ, viết Statement of Purpose (thư trình bày mục đích xin học), Letter of Recommendation (thư giới thiệu của thầy cô)…đủ cả. Năm đó ai cũng bảo mình khả quan vì điểm tốt, mà mình thấy cũng tự tin ghê. Thế rồi gửi 5 trường thì admission letters (thư chấp nhận học) cả 5, không có trường nào cho tiền học bổng cả.

Tháng 4/2007 là giai đoạn mình rơi vào tình trạng thất vọng, stressful kinh khủng. Giống như bạn đang bay ở độ cao 1000 mét rồi rơi cái bịch xuống đất. Bố mẹ, bạn bè….tất cả ai biết mình đã ước ao đi du học Mỹ thế nào đều buồn mà không dám hỏi. Mình không quan tâm lắm mọi người nghĩ gì, chỉ thấy áy náy là đã tiêu khá nhiều tiền của bố mẹ cho vụ apply (khoảng 1,000$), hai nữa là tự ti, không dám tin vào một cơ hội thứ 2. Thất bại đó sau này mình rút ra nhiều điều, mà có lẽ quan trọng nhất là Networking. Càng quen nhiều bạn bè, mình càng biết nhiều và càng có thêm nhiều thông tin quý giá về các nguồn học bổng cũng như kinh nghiệm apply.

Thời gian dài sau đó mình xin đi làm, và tiếp tục suy nghĩ xem mình nên chọn con đường nào để theo đuổi. Du học nữa hay không? Và học cái gì? Có lúc nản chí bảo thôi ở nhà “lấy chồng cho xong”, một câu rất quen thuộc cho các cô gái tuổi như mình :).

Nhưng cách mình đưa ra quyết định là bằng cách thử đặt vào tình thế đó, và tự hỏi “Liệu mình chấp nhận nó được bao lâu”. Mình hiểu đó không phải là con đường dài mà mình mong muốn. Tuy vậy mình có một chút lí do gia đình mà mình muốn tập trung trong năm 2007, thành ra quyết định sẽ “phục thù” vào mùa apply 2008. Tháng 4 vừa rồi khi đang lên kế hoạch học Toefl iBT để thi lại, mình có viết thư cho chị bạn học cùng lớp GRE cũ xem chị ý học ở Wright State thế nào. Và rất may là chị trả lời thư mình ngay sau đó, rồi giục mình nộp hồ sơ vào WSU vì vẫn còn hạn. Với tất cả kinh nghiệm và đống giấy tờ application còn lại của năm 2006 mình đã hoàn thành xong hồ sơ trong 2 tuần và đến trường đúng vào ngày hết hạn, 15 tháng 4.

Và giờ thì mình là Graduate Assistant của Department of Economics, WSU. Một trường đại học qui mô trung bình, một môi trường học tập tốt với các giáo sư rất quí mến sinh viên, và những người bạn Mỹ rất tốt. Tất cả hiện ra như đã từng gặp ở đâu đó, trong giấc mơ của mình chăng.

Mình vẫn đang trên con đường khám phá nước Mỹ, và khám phá những điều thú vị của cuộc sống, thách thức chính bản thân và vượt qua.

Mình muốn nói rằng hãy ước mơ điều gì đó thật lớn lao, hãy thực sự mong muốn nó, và chắc chắn là bạn sẽ đạt được.

Kẻ cướp thành môn đệ

Một buổi tối khi Shichiri Kojun đang tụng kinh, một tên cướp cầm một thanh gươm bén vào nhà, đòi tiền, nếu không thì chết.

Shichiri bảo tên cướp: “Đừng làm rộn tôi. Anh có thể tìm tiền trong hộc tủ đó.” Rồi thiền sư tiếp tục tụng kinh.

Một lúc sau thiền sư ngừng và gọi: “Đừng lấy hết tiền. Tôi cần một ít để đóng thuế ngày mai.”

Kẻ gian lấy gần hết số tiền và sửa soạn ra về. “Cám ơn khi nhận được quà,” Shichiri nói thêm. Chàng cướp cám ơn thiền sư rồi đi mất.

Vài ngày sau chàng cướp bị bắt và thú tội, ngoài các tội khác, còn có tội với Shichiri. Khi được gọi ra làm chứng, Schichiri nói: “Anh này chẳng phải là trộm cướp, ít ra là đối với tôi. Tôi cho anh ta tiền và anh ta cám ơn tôi về việc đó.”

Sau khi mãn hạn tù, anh chàng này đến gặp Shichiri và thành đệ tử của Thiền sư.
.

Bình:

• Từ bi hoán cải.

• Nhưng, Shichiri đối xử từ bi với một tên cướp, hay Shichiri chỉ đối xử bình thường với một người trong nhà—Schichiri xem tên cướp, và tất cả mọi người khác trong thiên hạ, như là người nhà của mình?

Để trả lời, xin đọc lại lời đối thoại.

• Tiếng Anh, “thief” nên dịch là “kẻ trộm”. Tuy nhiên, trong truyện có nói cầm gươm dọa, thì phải là “cướp” (robber) mới đúng.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

The Thief Who Became a Disciple

One evening as Shichiri Kojun was reciting sutras a thief with a sharp sword entered, demanding either money or his life.

Shichiri told him: “Do not disturb me. You can find the money in that drawer.” Then he resumed his recitation.

A little while afterwards he stopped and called: “Don’t take it all. I need some to pay taxes with tomorrow.”

The intruder gathered up most of the money and started to leave. “Thank a person when you receive a gift,” Shichiri added. The man thanked him and made off.

A few days afterwards the fellow was caught and confessed, among others, the offence against Shichiri. When Shichiri was called as a witness he said: “This man is no thief, at least as far as I am concerned. I gave him money and he thanked me for it.”

After he had finished his prison term, the man went to Shichiri and became his disciple.

# 44

Tín điều của sinh viên

Ngày hôm nay, ngày mới này, tôi là một sinh viên thành công. Qua một đêm tâm trí và cơ thể tôi đã sản sinh ra hàng ngàn tế bào mới để cho tôi những lợi thế lớn nhất có thể. Tôi được sinh lại, được tiếp thêm sinh khí và tràn đầy năng lượng.

Tôi hiếm có và giá trị, duy nhất trong toàn thể vũ trụ. Tôi là phép lạ đang xảy ra của tự nhiên. Tôi có tiềm năng không giới hạn. Tôi tin vào khả năng, thái độ và mục tiêu của tôi. Tôi xứng đáng trở nên vĩ đại vì tôi là người quan trọng nhất trong thế giới của tôi.

Ngày hôm nay tôi đẩy tôi tới những giới hạn mới. Tôi sử dụng những kĩ năng và kiến thức mỗi ngày. Tôi bắt đâu một ngày với thành công và kết thúc với thành công. Tôi đang vươn đến mục tiêu mỗi ngày và tôi háo hức kiếm tìm mục tiêu.

Tôi hành động tích cực và vui thích, hoàn toàn chấp nhận chính mình cũng như những người khác. Tôi sống hết mình bằng cách trải nghiệm vô hạn cuộc sống này. Tôi ôm lấy cuộc sống. Tôi đến với mỗi lớp học, mỗi cuốn sách, và mỗi bài tập với say mê, hạnh phúc và niềm vui. Tôi khát khao kiến thức. Tôi mong được đọc và tin vào tín điều này mỗi một ngày.

Tôi là một sinh viên tích cực và thành công. Tôi biết mỗi bước đi tôi phải đi để tiếp tục được như thế. Tôi rất rõ ràng về các mục tiêu của mình và nhìn thấy tôi đang vươn tới chúng. Giờ đây tôi nhận ra tiềm năng vô hạn của tôi, vì thế, gánh nặng của tôi nhẹ đi. Tôi cười và cười thật to. Tôi đã trở thành người sinh viên vĩ đại nhất thế giới.

Hoàng Khánh Hòa dịch
.

A Student’s Creed

Today, this new day, I am a successful student. Overnight my mind and body have produced thousands of new cells to give me the greatest advantages possible. I am born anew, revitalized, and full of energy.

I am rare and valuable; unique in all the universe. I am nature’s greatest miracle in action. I have unlimited potential. I believe in my abilities, attitudes, and goals. I am worthy of greatness because I am the most important person in my world.

Today I push myself to new limits. I use my skills and knowledge every day. I begin the day with a success and end it with a success. My goals are being reached every day and I seek them eagerly.

I act positively and happily, fully accepting myself and others. I live to the fullest by experiencing life without limits. I embrace life. I approach each class, each book, and each assignment with enthusiasm, happiness and joy. I thirst for knowledge. I look forward to reading and believing this creed each and every day.

I am a positive and successful student. I know each step I must take to continue to be that way. I am clear on my goals and see myself reaching them. I now realize my infinite potential, thus, my burden lightens. I smile and laugh. I have become the greatest student in the world.

Thiền trong đời của gã ăn mày

Tosui là một Thiền sư nổi tiếng vào thời của ngài. Tosui đã trụ trì vài chùa và dạy ở nhiều tỉnh.

Chùa cuối cùng Tosui viếng thăm thu hút nhiều môn sinh đến nỗi Tosui nói với họ là ngài sẽ bỏ việc giảng dạy vĩnh viễn. Tosui khuyên họ ra về và đi đâu tùy ý. Sau đó chẳng còn ai biết tông tích ngài ở đâu.

Ba năm sau một đệ tử của Tosui khám phá ra ngài đang sống với vài người hành khất dưới một gầm cầu ở Tokyo. Người đệ tử lập tức nài nĩ Tosui dạy mình.

“Nếu cậu có thể làm như tôi làm, dù chỉ đôi ba ngày, thì tôi có thể dạy,” Tosui trả lời.

Vậy người đệ tử mặc áo quần như hành khất và theo Tosui cả ngày. Đến đêm một người trong đám ăn mày chết. Tosui và người đệ tử khiêng xác nửa đêm và chôn xác trên sườn núi. Rồi họ trở về lại chỗ ở dưới gầm cầu.

Tosui ngủ ngon lành, nhưng người đệ tử không ngủ được. Đến sáng Tosui nói: “Chúng ta không phải đi xin đồ ăn hôm nay. Ông bạn vừa chết của mình đã để lại ít thức ăn đằng kia.” Nhưng người đệ tử chẳng ăn nổi miếng nào.

“Tôi đã nói là cậu không làm như tôi được,” Tosui kết luận. “Đi đi và đừng làm phiền tôi nữa.”
.

Bình:

• Tosui Unkei, thiền sư dòng Tào Động (Soto), là thiền sư lập dị nhất trong lịch sử Thiền Nhật Bản. Ngày nay nhiều người so sánh Tosui với thánh Francis of Assisi (Thiên chúa giáo), hay gọi Tosui “Chàng hippy đầu tiên”, và sách về cuộc đời của Tosui được gọi là “Hippy nhập môn.”

100 năm sau khi Tosui qua đời, thiền sư học giả Menzan Zuiho (1683-1769), thu nhặt tài liệu và các truyện truyền khẩu, viết lại quyển sách về cuộc đời của Tosui. Quyển này ngày nay đã được dịch sang tiếng Anh dưới tên “Letting go: The Story of Zen Master Tosui.” Có thể đọc quyển này trên Google Books.

• Tosui xem ra không thích học trò nghe mà không thực hành. Thường thì nghìn người nghe may ra được một người thực hành nghiêm chỉnh. Bao nhiêu người trong chúng ta đã nghe, đọc, và xem phim ảnh sách vở về tập thể dục. Bao nhiêu người đang tập hàng ngày? Hay là kinh sách Phật? Hay là Thánh Kinh?

Đa số người có ảo tưởng là cứ xem hay đọc điều gì thì mình sẽ có điều đó trong mình. Cứ xem phim Superman và Batman cả đời xem ta có thể thành Superman hay Batman không?

• Có lẽ, đối với Tosui, mang an lạc của Thiền đến cho vài người ăn mày, dưới đáy xã hội, có ý nghĩa hơn là giảng cho cả nghìn người mà chẳng mấy ai thực hành.

• Thực ra Tosui đã dạy cho người đệ tử kèo nài xin theo học rồi. Anh này chỉ học không nổi mà khôi. Thiền là sống thoải mái trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bất kỳ nơi đâu. Kể cả sống đời ăn mày. Sống “ở đây lúc này.”

Anh đệ tử này chỉ thích “nghe” giảng, nhưng thầy chỉ muốn học trò “sống”.

• Thiền là sống không vướng mắc. Vậy thôi.

Mê nghe lời thầy giảng là một vướng mắc lớn. Cả “lời giảng” lẫn “nghe giảng” đều không phải là “sống.”

Thầy muốn thử xem nếu mình phải sống như ăn mày, mình có thể sống với tâm không vướng mắc không?

Sống không QUEN, thì đương nhiên rồi. Ví dụ là khó ngủ vì lạ nơi.

Nhưng không MUỐN ăn đồ ăn của bạn mình vừa chết lại là chuyện khác. Đây là vướng mắc lớn về ý chí.

Hai vướng mắc này rất lớn: Việc nên làm (i.e., ăn) thì không làm. Việc không cần (lời gỉảng) thì lại cầu.

Rất khó để “thấy đường”.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Zen in a Beggar’s Life

Tosui was a well-known Zen teacher of his time. He had lived in several temples and taught in various provinces.

The last temple he visited accumulated so many adherents that Tosui told them he was going to quit the lecture business entirely. He advised them to disperse and go wherever they desired. After that no one could find any trace of him.

Three years later one of his disciples discovered him living with some beggars under a bridge in Kyoto. He at once implored Tosui to teach him.

“If you can do as I do for even a couple days, I might,” Tosui replied.

So the former disciple dressed as a beggar and spent the day with Tosui. The following day one of the beggars died. Tosui and his pupil carried the body off at midnight and buried it on a mountainside. After that they returned to their shelter under the bridge.

Tosui slept soundly the remainder of the night, but the disciple could not sleep. When morning came Tosui said: “We do not have to beg food today. Our dead friend has left some over there.” But the disciple was unable to eat a single bite of it.

“I have said you could not do as I,” concluded Tosui. “Get out of here and do not bother me again.”

# 43

Kiến thức giả

Chào các bạn,

Hàng ngày chúng ta nghe báo chí nói nhiều về hàng giả: hàng hiệu giả, rau quả giả , thực phẩm giả… Nhưng ít thấy ai nói về kiến thức giả, dù rằng kiến thức giả là một hiện tượng lớn.

Trong pham vi bài này, chúng ta chỉ dùng các từ “kiến thức” và “giả” theo cách mọi người hay dùng hàng ngày, chẳng có gì đặc biệt cả. Cho nên, các bạn không nên nghĩ về hai từ này như là hai từ triết lý, vì triết lý đến tận cùng như triết l‎ý Phật gia thì mọi kiến thức đều là giả. Hết chuyện nói. 🙂

Không biết chuyện mà cứ nói như là mình biết, đó là giả. (Và chữ “biết” trong câu này cũng là chữ tương đối ta dùng hàng ngày, không phải là chữ “biết” triết lý).

Hãy lướt qua các kiến thức giả ta thường thấy hàng ngày, theo mức độ lớn nhỏ ta thấy, lớn trước nhỏ sau:

1. Lảm nhảm các từ chính trị dù rằng mình biết là nó chẳng nghĩa l‎ý gì trong thực tế, hoặc mình chẳng hiểu nó là gì.

Điều này thì ta thấy trên báo chí, diễn văn, và bài vờ có mùi chính trị trên Internet hàng ngày. Trong các nơi chứa kiến thức giả, thì chính trị là nơi có nhiều nhất. Vẹt nói rất nhiều.

2. Kế đến là các từ tôn giáo, nhất là các từ tôn giáo trong các bài viết chính trị.

Người viết thường là chẳng hiểu tí gì về các từ dùng, hoặc là cố tình dùng nó phản lại ‎nghĩa nguyên thuỷ của nó.

3. Mở miệng ra là “Tử nói”, “Phật nói”, “Decartes nói,” “Pascal nói”… mà không biết rằng câu nói đó chẳng ăn nhập gì đến câu chuyện đang nói.

4. Nói chuyện theo công thức.

Nguyên một bài diễn văn hai tiếng đồng hồ, có thể chỉ là một con số zero to tướng, vì chỉ toàn là khẩu hiệu (chính trị) cộng lại, như là một công thức toán cộng, chẳng có nghĩa lý gì cả, người nghe chẳng nắm được điều gì cả ngoại trừ những khẩu hiệu và công thức rỗng tuếch nghe đã vài nghìn lần, như là: dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, phát triển dân chủ cơ sở, nhân quyền nhân bản, tư bản xã hội, tự do kinh tế, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tự do ngôn luận, dân chủ tự do, công bình bác ái… kiểu AQ đọc diễn văn. Như là dùng computer chọn các khẩu hiệu và công thức bẳng cách may rủi và ghép lại theo cách may rủi, sau đó lên cầm micro đọc. Lâu lâu có dịp tra tấn thiên hạ.

(Nói thì dễ rồi, nghe được năm này qua năm kia mới là siêu! Mà người nói có biết là họ nói vẹt không, hay là họ thực sự hiểu được họ nói gì, mà không ai khác thấy gì cả?).

5. Mới học được đâu đó vài ba chữ mới, xổ ngay ra một chùm, trong khi chính người nói cũng chưa thật sự hiểu được nó là gì, vì mới đọc được loáng thoáng đâu đó.

6. Thích xổ cổ ngữ và ngoại ngữ dù mình chưa hiểu đến nơi.

Trong văn hóa thế giới, đôi khi mình phải kèm theo ngoại ngữ để người đọc hiểu đúng ý mình, vì nói về một câu chuyện ở Đức chẳng hạn, thì một số từ tiếng Việt không đủ chính xác để diễn tả, phải kèm theo tiếng Đức. Đó là chuyện đương nhiên. Ở đây, ta chỉ muốn nói đến các vị thích xổ La Tinh, Hán ngữ, ngoại ngữ cho dù rằng mình chẳng hiểu được sâu xa chữ mình nói.

7. Biết chỉ được một tí, mà nói là biết nhiều.

Vi dụ: “Tôi chắc chắn chuyện này nó phải thế này”, thay vì: “Theo kinh nghiệm của tôi trong hai năm nay, thì chuyện này thường là thế này. Có ngoại lệ không thì tôi chưa được gặp.”

Hay là: “Kiến thức của thầy về việc này chỉ tới đó. Mai này em có thể học cao hơn và nghiên cứu cao hơn. Rồi lúc đó em cho thầy biết kết quả nghiên cứu của em.”

8. Cứ lôi các câu trong sách ra nói, nhất là sách cổ, mà chẳng hiểu gì hoặc chẳng giải thích rõ thêm được gì.

Đây là do lối học từ chương, học thuộc lòng như vẹt mà ra. Nếu không giải thích được cho người nghe, thì đó là vì mình dốt chứ không phải người nghe dốt. Làm ơn tôn trọng sự thông minh của người nghe, và thành thật với cái dốt của mình.

9. Nói mà không ai hiểu được mới giỏi.

Thường là người viết/nói cũng chẳng biết mình viết/nói gì. Nhưng như thế mới là thông thái!

Qui luật viết/nói ngày nay: Tôi viết cho bạn, hoặc nói với bạn, mà bạn không hiểu, thì đó là do tôi viết tồi nói tồi, chứ không phải vì bạn đọc tồi nghe tồi.

Kiểu kiến thức ngày xưa của các ông đồ nho nói chữ Hán dân quê không hiểu tí gì và phục sát đất, thời bán khai đó đã qua rồi. Ngày nay, anh nấu ăn mà tôi ăn không ngon là anh nấu tồi, chứ không phải tôi ăn tồi. Anh nói tôi không hiểu , đó là vì anh không biết nói, chứ không phải tôi không biết nghe.

Các bạn có thể thêm vào vài ví dụ nữa về vấn đề kiến thức giả.

Điều quan trọng ở đây là chúng ta cần thành thật.

Thành thật là khởi nguồn của trí tuệ.

Thành thật với chính mình để biết kiến thức của mình đến đâu, mình biết đến đâu, và đâu chưa biết.

Rồi thành thật với mọi người, biết đến đâu nói biết đến đó, điều gì chưa chắc thì nói là chưa chắc, điều gì chưa biết thì nói là chưa biết.

Chỉ một chữ “thành thật” thôi, có gì phức tạp đâu. Sao mà khó quá vậy? Sao mà nhiều vấn đề quá vậy?

Nếu chúng ta tiếp tục để kiến thức giả phát triển quá nhiều trên đất nước, kiến thức thật sẽ tiếp tục bị ngộp thở mà chết, như là cây tốt bị chết ngợp giữa đám cỏ hoang.

Các vị giáo chức bị buộc phải dạy các em những điều mình không tin hay chưa tin, vì mình chưa nắm vững vấn đề hoặc mình tin là nó sai, các vị có thể làm một bước trưởng thành tâm linh rất lớn cho đời mình, bằng cách nói với thủ trưởng: “Anh làm ơn cho tôi dạy môn khác, tôi thật là không thể tự dối lòng, huống hồ là dối các em.”

Làm được như vậy là Phật tâm đó! Đó là từ bi bác ái với học trò của mình, và tích cực đóng góp vào việc phát triển tương lai của tổ quốc.

Truyền bá kiến thức mình không tin, là truyền bá kiến thức giả. Đừng làm vậy, nhất là đối với các học trò nhỏ. Giáo dục giả là tội rất lớn với tổ quốc, và với Chúa Phật, vì đó là tích cực hủy hoại đầu óc tuổi trẻ.

Trí tuệ lệ thuộc vào thành thật. Và đôi khi, can đảm.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Kết hợp giữa chính sách dân tộc & bảo vệ môi trường, thiên nhiên

Mùa xuân này, được nghỉ dài ngày, nhiều bạn chọn Tây Nguyên làm điểm đến ( Có bạn còn nói ” tại lời mời gọi trên mạng của LN nữa đấy”). Nhưng rồi cũng nhiều bạn thất vọng than thở với tôi về việc những thác nước cạn khô tại các điểm du lịch sinh thái.Vâng! Quả thật tôi cũng sốc khi chỉ cách vài tháng trước, đoàn làm phim của Đài TH TP HCM còn thật sự ” kính nể” vẻ đẹp hùng tráng của ngọn thác Drei Nu, thì bây giờ …chỉ còn là những bờ đá cao câm lặng. Tôi chưa có dịp kiểm chứng đó là ” thói thường” của mùa khô cao nguyên? hay kết quả của hàng chục công trình thủy điện trên những dòng sông cao nguyên? Nhưng xuân này, đọc lại những kiến nghị của ba tôi với Quốc hội từ hơn 20 năm trước, về vấn đề rừng và nước ở miền núi, vẫn thấy sự cảnh báo của ông còn nguyên tính thời sự… Thương cho thiên nhiên TN mỗi ngày một thêm kiệt quệ , càng thêm thương cho tấm lòng người thí thức dân tộc lão thành… Mời các bạn đọc và kiểm chứng lại ý kiến ông.

Miền núi & trung du chiếm đại bộ phận đất tự nhiên của nước ta, là căn cứ của cách mạng, là địa bàn chiến lược quan trọng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, là quê hương của các dân tộc anh em. Nhưng lại là những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nhất, nên việc thực hiện các chính sách dân tộc phải thể hiện trong sự đầu tư thích đáng, để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, tạo điều kiện phát huy hết tiềm năng của miền núi cao nguyên, đó là rừng. Câu nói “Rừng vàng biển bạc” đã có từ ngàn xưa. Trong quá trình phát triển, phải dựa vào thế mạnh của miền núi cao nguyên, đó là vựa cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thuốc, các giống vật nuôi phong phú,và các đặc sản khác của rừng, để làm giàu cho miền núi và cao nguyên, cũng là để làm giàu cho toàn bộ đất nước.

Vì nếu kinh tế miền núi và cao nguyên phát triển, sẽ tạo ra được nền kinh tế hàng hóa nhằm thoả mãn sự giao lưu giữa miền ngược và miền xuôi. Miền núi và cao nguyên sẽ có đủ gạo của đồng bằng, trong khi đồng bằng sẽ có đủ các sản phẩm của rừng.

Miền núi & trung du còn là quê hương của các nhà máy thuỷ điện, đang giữ vai trò then chốt của công nghiệp điện nước ta. Vì vậy tài nguyên thiên nhiên ở đây là tài nguyên chiến lược, không chỉ của riêng vùng, mà còn chi phối khắp mọi miền đất nước. Nên việc xử dụng phải hết sức thận trọng và cần được cân nhhắc kỹ theo ý nghĩa chiến lược của nó.

Về quan điểm, bảo vệ thiên nhiên, môi trường các tỉnh miền núi & trung du chứa đựng nhiều tiềm năng quyết định, trong việc bảo vệ và duy trì sự cân bằng sinh thái của toàn bộ đất nước, mà chủ yếu là các hệ thảm thực vật rừng, nhất là các hệ thống rừng đầu nguồn. Vòng luân chuyển thiên nhiên hùng vĩ này được tạo lập theo quy luật của chính nó. Miền núi & cao nguyên là vùng thu gom quy tụ nước tự nhiên, làm nên những bể chứa nước ngọt khổng lồ,nguồn sống của mọi sinh vật. Đó cũng là trạm điều tiết nước cho hàng ngàn khe suối và hàng trăm con sông lớn, nhỏ đưa nước về xuôi.

Chúng ta đã biết rằng, nếu hệ thống rừng đầu nguồn không được bảo vệ, thì các cơn lũ sẽ xảy ra liên tục sau những trận mưa nguồn, làm cho các vùng phụ cận và các tỉnh đồng bằng chịu hậu quả đến mức nào. Bài học thực tiễn này đã được chứng minh trong những năm gần đây ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, miền trung du, và đồng bằng sông Cửu Long, do rừng ở Tây bắc & Tây Nguyên bị tàn phá nghiêm trọng. Nếu Tây Nguyên là mái nhà chung của các tỉnh đồng bằng miền Trung và Nam Bộ, thì Tây bắc là mái nhà chung của các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Những mái nhà này cần phải được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt, Khi rừng đã tàn phá, sau những cơn mưa nguồn, đất ở các tỉnh miền núi và cao nguyên sẽ bị xói mòn và nước thì không được rừng giữ lại nữa. Cả hai tài nguyên quyết định sự sống của con người và mọi sinh vật là đất & nước, thì cả hai đều không còn.Điều đó nói lên tính tất yếu của việc phải bảo vệ thiên nhiên & môi trường, phải gìn giữ sự cân bằng sinh thái của thiên nhiên. Con người không thể đảo ngược quy luật khắc nghiệt của tạo hoá.

Khi nói đến việc thực hiện chính sách dân tộc và nói đến đầu tư để phát triển bền vững các vùng dân tộc và miền núi, cùng đồng nghĩa với việc đầu tư để bảo vệ thiên nhiên & môi trường. Đây là sự đầu tư để mang lại lợi ích cho toàn bộ đất nước. Trong đó, đầu tư cho phát triển rừng là chủ yếu, đầu tư để giữ bằng được hệ thống rừng đầu nguồn. Vì rừng là lợi ích sống còn của cả nước trong sự duy trì cân bằng môi sinh. Phải có chính sách khuyến khích để rừng càng phát triển thì lợi ích của nhân dân ở miền núi càng cao. Phải có hướng đầu tư mạnh về công nghiệp, chăn nuôi… vào những vùng thích hợp để tạo ra nguồn thu nhập chính cho dân, để dân không phải phá rừng mà vẫn ấm no. Do đó, việc thực hiện chính sách dân tộc không thể tách rời việc bảo vệ môi trường sinh thái. Phải làm thế nào để hai nhiệm vụ nói trên gắn bó mật thiết với nhau, bổ xung cho nhau, tác động hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau để cùng tồn tại, vận động và phát triển.

Việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng thực chất là đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, bằng những việc làm cụ thể của Nhà nước, như các chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc 327, chương trình định canh định cư… hiện đang làm và bước đầu có hiệu quả. Việc thực hiện các chính sách dân tộc là biến đổi đường lối đổi mới của Đảng, vào các mục tiêu của sự phát triển kinh tế bền vững ở các tỉnh miền núi & cao nguyên. Là làm thế nào để đưa đời sống của miền núi tiến kịp miền xuôi, là làm thế nào phục hồi màu xanh cho miền núi và cao nguyên.

Chúng tôi tin chắc rằng, sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và sự nghiệp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên- môi trường của các tỉnh miền núi & cao nguyên, sẽ được thực hiện, bằng các chương trình đầu tư theo quy mô lớn của quốc gia, theo quy mô vừa của địa phương và theo quy mô nhỏ của kinh tế hộ gia đình. Chúng tôi cũng tin chắc rằng các mô hình về phát triển lâm-nông nghiệp, mô hình về rừng-vườn-chuồng, rừng-vườn-ao-chuồng… sẽ được triển khai khắp mọi nơi. Các mô hình về làng sinh thái sẽ xuất hiện ở các tỉnh miền núi và vùng cao nguyên , trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Các buôn làng, thị trấn, các thành phố sinh thái cũng sẽ được hình thành trên bất cứ vùng miền núi và cao nguyên nào. Vì vấn đề này chứa đựng tính hiện thực, tính khách quan trong sự nghiệp đổi mới của Đảng & Nhà nước ta. Trong thực tiễn, muốn xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, việc đầu tiên là phải giao đất khoán rừng cho nhân dân. Phải làm cho quyền lợi của dồng bào dân tộc thiểu số gắn bó với rừng và mãi mãi gắn bó với rừng.

Chúng tôi kiến nghị Quốc hội ra nghị quyết tạo điều kiện cho nhà nước ban hành được các chính sách cần thiết, để thực hiện cho bằng được những vấn đề này. Đây là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của đồng bào dân tộc, sự sống còn của đất nước. Thông qua luật, các dân tộc thực hiện nghiêm chỉnh các Luật về bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ rừng, hướng nhân dân vào việc sống và làm việc theo Hiến pháp & pháp luật

Chúng tôi kiến nghị với Nhà nước sớm xây dựng các chương trình về phát triển kinh tế -xã hội bền vững, đầu tư các chương trình về bảo vệ thiên nhiên & môi trường cho các tỉnh miền núi & vùng cao. Để đủ cán bộ khoa học là người các dân tộc thiểu số, trực tiếp phục vụ công cuộc đổi mới của các vùng dân tộc, cần thành lập thêm các trường đại học Tây bắc, đầu tư nâng cấp các trường đại học Bắc Thái & Tây Nguyên, củng cố các Trung tâm nghiên cứu khoa học và các trường dân tộc nội trú của các tỉnh miền núi & cao nguyên.

Linh Nga Niê Kdăm

Câu trả lời của người chết

Khi Mamiya, sau này là một giảng sư nổi tiếng, đến gặp thầy để nhận giáo huấn riêng, Mamiya được giao công án giải thích tiếng vỗ của một bàn tay.

Mamiya tập trung suy nghĩ vào điều gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay. “Con không tập luyện chuyên cần đủ,” thầy bảo Mamiya. “Con cứ bị vướng mắc vào thức ăn, tài sản, và cái tiếng đó . Con chết đi còn hơn. Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề.”

Lần kế tiếp Mamiya vào gặp thầy và lại bị hỏi chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay. Mamiya tức thì ngã lăn ra như là chết rồi.

“Đúng là con chết rồi,” thầy quan sát. “Nhưng vể tiếng vỗ đó thì sao?”

“Con vẫn chưa giải được,” Mamiya trả lời, ngước nhìn lên .

“Người chết không nói,” thầy bảo. “Đi ra!”
.

Bình:

• Đây là vướng mắc đầu tiên của Mamiya: “Mamiya tập trung suy nghĩ vào điều gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay.”

Như chúng ta đã thấy trong bài Tiếng vỗ của một bàn tay, mục đích của công án không phải là để tìm câu trả lời, mà là “để chận tâm trí không đi lang thang”. Cuối cùng là có được tâm trí hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn trống không, “vô tâm”. Nếu tâm trí ta cứ vướng mắc với câu hỏi “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?”, thì tâm trí không bao giờ tĩnh lặng được.

• Vì vậy cho nên thầy nói: “Con cứ bị vướng mắc vào … cái tiếng đó.”

• Thầy còn nói vướng mắc vào “thức ăn và tài sản.” Đây là thầy muốn nhắc khéo là cả ba thứ vướng mắc đều như nhau. Con mà còn vướng mắc vào “cái tiếng đó” và vẫn còn tìm lời giải “cái tiếng đó là gì?”, thì con vẫn còn vướng mắc y như là người ham ăn và người ham của cải.

• Thầy còn hướng dẫn xa hơn: “Con chết đi còn hơn.” “Chết” tức là không suy nghĩ nữa, không có câu hỏi trong đầu nữa. Nhưng trò vẫn không hiểu được.

Thầy phải nhắc khéo thêm lần nữa: “Người chết không nói”—tức là, không có câu hỏi, không có câu trả lời.

• Tâm tĩnh lặng, tâm không, vô tâm là đích điểm cuối cùng. Khi đạt được đích đó thì tâm hoàn toàn rỗng lặng, không có câu hỏi và không có câu trả lời.

Nếu nói theo kiểu Tanzan, thiền sư ẳm cô gái qua vũng bùn, thì: “Ủa, câu hỏi đó con đã để nó lại lúc thầy hỏi con hai tháng trước rồi, sao thầy lại con mang nó theo tới bây giờ?”

• Chú ý: Các thiền sư không nói nhiều. Chữ nào trong câu nói của các vị cũng quan trọng.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

The Dead Man’s Answer

When Mamiya, who later became a well-known preacher, went to a teacher for personal guidance, he was asked to explain the sound of one hand.

Mamiya concentrated upon what the sound of one hand might be. “You are not working hard enough,” his teacher told him. “You are too attached to food, wealth, things, and that sound. It would be better if you died. That would solve the problem.”

The next time Mamiya appeared before his teacher he was again asked what he had to show regarding the sound of one hand. Mamiya at once fell over as if he were dead.

“You are dead all right,” observed the teacher. “But how about that sound?”

“I haven’t solved that yet,” replied Mamiya, looking up.

“Dead men do not speak,” said the teacher. “Get out!”

#42

Bộ luật đạo đức của thổ dân da đỏ Mỹ

Chào các bạn,

Khi những người châu Âu lần đi thám hiểm và phát hiện ra châu Mỹ, họ đã gặp những người thổ dân da đỏ ở vùng bắc Mỹ và tưởng nhầm đó là người Ấn Độ. Vì thế họ gọi những người thổ dân này là Indian. Cái tên này về sau gây nhiều nhầm lẫn nên người Mỹ chuyển sang dùng từ Native American để chỉ tới những thổ dân, bộ lạc da đỏ châu Mỹ nhằm phân biệt với những người có nguồn gốc di cư (Non-Native American).

Mặc dù vậy từ Native American không có nghĩa rằng mọi thổ dân trên vùng bắc Mỹ đều có cùng một nguồn gốc, văn hóa như nhau. Trên thực tế ở Mỹ có hàng chục bộ lạc, dân tộc khác nhau như Hopi, Lakota, Sioux…Sau khi giành được quyền tự cai trị từ chính phủ Mỹ, các bộ tộc da đỏ Mỹ sống trong các khu bảo tồn gọi là Indian Reservations. Ở Mỹ hiện nay có hơn 300 khu như vậy, một số mở cửa cho khách du lịch viếng thăm để tìm hiểu đời sống của người da đỏ.

Các bộ lạc da đỏ ở Mỹ nổi tiếng về sự giàu có trong đời sống văn hóa và tâm linh. Dưới đây là một số nguyên tắc của thổ dân da đỏ Mỹ được sưu tầm lại, các bạn cùng nghiên cứu nhé.

Chúc các bạn một ngày tươi hồng,

Hoàng Khánh Hòa

.

Bộ luật đạo đức của thổ dân da đỏ Mỹ

1. Thức dậy với ánh mặt trời để cầu nguyện. Cầu nguyện một mình. Cầu nguyện thường xuyên. Thánh Linh Cao Cả sẽ lắng nghe, nếu bạn chịu nói.

2. Hãy khoan dung với những người lạc lối. Si mê, tự cao, tức giận, ghen tị, và lòng tham bắt nguồn từ một tâm hồn đi lạc. Cầu nguyện cho họ tìm thấy chỉ dẫn.

3. Hãy tự mình đi tìm chính mình. Đừng để người khác làm đường cho bạn. Đó là con đường của bạn, và chỉ của bạn thôi. Những người khác có thể đi trên đường đó cùng bạn, nhưng không ai đi giùm bạn cả.

4. Đối đãi với khách trong nhà bạn một cách rất cẩn thận. Mời họ thứ đồ ăn tốt nhất, cho họ chiếc giường tốt nhất, và đối xử với họ với sự tôn trọng và tương kính.

5. Không lấy cái gì không phải của mình, dù là từ người khác, từ cộng đồng, từ nơi hoang dã hay từ một nền văn hóa. Nó không do làm lụng hay do người ta cho mình. Nó không phải là của mình.

6. Tôn trọng tất cả mọi thứ trên trái đất này – dù đó là con người, động vật hay cây cỏ. Trân trọng Thánh Linh trong mọi thứ.

7. Trân trọng suy nghĩ, ước muốn và lời nói của những người khác. Không bao giờ ngắt lời người khác, hay chế nhạo, hay nhái họ. Cho phép mỗi người quyền được thể hiện bản thân.

8. Không bao giờ nói xấu về người khác. Năng lượng tiêu cực mà bạn đưa vào vũ trụ sẽ nhân lên khi chúng quay trở lại với bạn. Tất cả mọi người đều mắc lỗi,. Và tất cả lỗi lầm có thể được tha thứ. Những suy nghĩ xấu gây ra ốm đau về trí óc, cơ thể, và tinh thần. Rèn luyện tính lạc quan.

9. Thiên nhiên không dành cho chúng ta, nó là một phần của chúng ta. Chúng là một phần của gia đình vật chất của bạn.

10. Trẻ em là hạt giống của tương lai chúng ta. Gieo trồng tình yêu trong trái tim chúng và tưới cho chúng bằng trí tuệ và các bài học sống. Khi chúng lớn lên, cho chúng không gian để trưởng thành.

11. Tránh làm đau trái tim của người khác. Thuốc độc từ nỗi đau bạn tạo ra sẽ quay trở lại với bạn.

12. Thành thật mọi lúc. Thành thật là bài kiểm tra y’ chí của con người trong vũ trụ này.

13. Giữ bản thân cân bằng. Trí óc, tinh thần, cảm xúc và cơ thể bạn – tất cả cần mạnh mẽ, trong sạch, và khỏe mạnh. Tập thể dục cho cơ thể để làm tinh thần mạnh lên. Làm giàu tinh thần để chữa những bệnh hoạn về cảm xúc.

14. Xác định rõ ràng rằng bạn sẽ là ai và bạn sẽ hành động như thế nào. Chịu trách nhiệm cho những hành động của bạn.

15. Tôn trọng chuyện riêng và không gian riêng của người khác. Không đụng vào tài sản cá nhân của người khác – đặc biệt là những đồ vật linh thiêng và có tính tôn giáo. Đây là điều cấm kị.

16. Hãy thành thật với bản thân đầu tiên. Bạn không thể nuôi dưỡng và giúp đỡ người khác nếu bạn không thể nuôi dưỡng và giúp đỡ chính bạn trước.

17. Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác. Không áp đặt niềm tin của bạn vào người khác.

18. Chia sẻ sự may mắn của bạn với những người khác. Tham gia từ thiện. Sẵn sàng cho lại mọi người, để Dân Tộc sẽ sống.

Hoàng Khánh Hòa dịch
.

Native American Code of Ethics:

Rise with the sun to pray. Pray alone. Pray often. The Great Spirit will listen, if you only speak.

Be tolerant of those who are lost on their path. Ignorance, conceit, anger, jealousy and greed stem from a lost soul. Pray that they will find guidance.

Search for yourself, by yourself. Do not allow others to make your path for you. It is your road, and yours alone. Others may walk it with you, but no one can walk it for you.

Treat the guests in your home with much consideration. Serve them the best food, give them the best bed and treat them with respect and honor.

Do not take what is not yours whether from a person, a community, the wilderness or from a culture. It was not earned nor given. It is not yours.

Respect all things that are placed upon this earth—whether it be people, animal or plant. Honor the Spirit in all things.

Honor other people’s thoughts, wishes and words. Never interrupt another or mock or rudely mimic them. Allow each person the right to personal expression.

Never speak of others in a bad way. The negative energy that you put out into the universe will multiply when it returns to you. All persons make mistakes. And all mistakes can be forgiven. Bad thoughts cause illness of the mind, body and spirit. Practice optimism.

Nature is not for us, it is a part of us. They are part of your worldly family.

Children are the seeds of our future. Plant love in their hearts and water them with wisdom and life’s lessons. When they are grown, give them space to grow.

Avoid hurting the hearts of others. The poison of your pain will return to you.

Be truthful at all times. Honesty is the test of one’s will within this universe.

Keep yourself balanced. Your mental self, spiritual self, emotional self, and physical self—all need to be strong, pure and healthy. Work out the body to strengthen the mind. Grow rich in spirit to cure emotional ails.

Make conscious decisions as to who you will be and how you will react. Be responsible for your own actions.

Respect the privacy and personal space of others. Do not touch the personal property of others—especially sacred and religious objects. This is forbidden.

Be true to yourself first. You cannot nurture and help others if you cannot nurture and help yourself first.

Respect others religious beliefs. Do not force your belief on others.

Share your good fortune with others. Participate in charity. Be willing to give back to the people, so that People will live.

Terri Jean

Thiền của Joshu

Joshu bắt đầu học Thiền lúc 60 tuổi và tiếp tục cho đến 80, lúc ngài đạt Thiền.

Joshu dạy Thiền từ năm 80 cho đến 120 tuổi.

Một ngày nọ môt đệ tử hỏi Joshu: “Nếu con không có gì trong tâm hết, con phải làm gì?”

Joshu trả lời: “Ném nó ra.”

“Nhưng con không có gì hết, làm sao mà ném ra được?” người đệ tử hỏi tiếp.

“Vậy thì,” Joshu nói, “khiêng nó ra.”
.

Bình:

• “Không có gì trong tâm” sao lại hỏi?

Có nguyên một câu hỏi nặng vậy mà nói là không có sao được!

Lần thứ nhất thầy bảo ném nó ra ngoài. Nhưng lại hỏi tiếp, thầy biết là câu hỏi này nặng quá, không ném được, phải khiêng ra ngoài.

• Tâm Thiền là tâm rỗng lặng, chẳng có gì trong đó hết–Vô tâm (no-mind).

• Joshu là tên Nhật của thiền sư Trung Quốc tên Triệu Châu, mà chúng ta đã nói đến qua công án Con Chó Của Triệu Châu trong bài Dạy kiểu hà tiện

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Joshu’s Zen

Joshu began the study of Zen when he was sixty years old and continued until he was eighty, when he realized Zen.

He taught from the age of eighty until he was one hundred and twenty.

A student once asked him: “If I haven’t anything in my mind, what shall I do?”

Joshu replied: “Throw it out.”

“But if I haven’t anything, how can I throw it out?” continued the questioner.

“Well,” said Joshu, “then carry it out.”

# 41

Văn hóa sáng tạo

Chào các bạn,

Chúng ta thường nói đến sáng tạo như là một kỹ năng: 30 quy luật để sáng tạo, kỹ‎ thuật động não, k‎ỹ thuật đặt câu hỏi, v.v… Dĩ nhiên là sống ở đời chuyện gì cũng có một số kỹ năng và kỹ thuật liên hệ. Nhưng sáng tạo không phải là kỹ năng. Sáng tạo là bản tính của một người, cũng như là lễ độ, chẳng hạn. Lễ độ không phải là các kỹ năng lễ độ, mà là bản tính của một người. Một người lễ độ không phải vì người ấy biết các kỹ năng lễ độ, mà vì người ấy có bản tính lễ độ và sống lễ độ với mọi người.

Sáng tạo cũng vậy. Người sáng tạo là người luôn luôn sáng tạo, đi đâu cũng sáng tạo, làm gì cũng sáng tạo, sáng tạo một ngày 24 tiếng (có thể sáng tạo ngay trong khi ngủ). Sáng tạo là bản tính của anh ta, là máu chảy trong người, lâ từng hơi thở, từng nhịp đập.

Bởi vì vậy, chúng ta không thể nghiên cứu và giải quyết vấn đề thiếu sáng tạo như là một vấn đề kỹ thuật (hay kỹ năng) thuần túy, và ta phải xem đó như là một vấn đề văn hóa của một người—tức là về cách sống, về môi trường sống, về mọi người chung quanh anh ta.

Môi trường sống thường tạo ra con người—môi trường cướp bóc thường tạo ra người cướp bóc, môi trường từ thiện thường tạo ra người từ thiện, môi trường thiếu sáng tạo thường sinh ra người thiếu sáng tạo.

Muốn sáng tạo chúng ta phải thiết lập một môi trường sống sáng tạo.

Có nhiều điều tạo ra môi trường. Nhưng giản dị hóa đến tận cùng thì môi trường sống của chúng ta gồm có chính ta và những người chung quanh ta. Ta và vòng người quanh ta tạo thành môi trường sống của ta.

Hãy tưởng tượng một người đứng giữa vòng muốn làm cái gì đó mới lạ, và đa số hay tất cả những người đứng ở mấy trăm vòng tròn quanh anh ta, biển người quanh anh ta, nói “không”, thì liệu anh ta có sáng tạo được không?

Có thể là một trong triệu người vẫn sáng tạo được, nhưng đại đa số chắc là không.

Nhận xét này đưa đến suy luận sau đây: Nếu chính ta muốn sáng tạo mà mọi người chung quanh ta chống sáng tạo thì rất khó sáng tạo.

Tuy vậy, khi nói đến “khoa học” sáng tạo, chúng ta thường chỉ chú tâm đến người đứng giữa vòng tròn: “Làm thế nào để tôi biết cách suy nghĩ sáng tạo?” Nhưng, nếu tôi biết cách suy nghĩ sáng tạo mà mọi người chung quanh tôi chống sáng tạo, thì có lẽ là tôi cũng bỏ cuộc sớm thôi.

Quảng cáo tuyên truyền của Sở Nước Denver

Vì vậy, chúng ta phải đặt vấn đề ngược lại: Làm thế nào để những người chung quanh tôi khuyến khích và ủng hộ tôi sáng tạo?

Đổi góc nhìn: Tôi đứng ở vòng bên ngoài, nhìn vào người đứng giữa vòng, câu hỏi sẽ là “Làm thế nào để tôi khuyến khích anh ta sáng tạo?”

Đây chính là mấu chốt căn bản nhất của vấn đế: Làm thế nào để chúng ta khuyến khích những người khác trong xã hội của ta sáng tạo?

Tập trung của ta không nên nhắm vào “Làm thế nào để tôi sáng tạo?” Câu này mang xuống ưu tiên hai.

Ưu tiên đầu nên là: Làm thế nào để tôi khuyến khích người khác sáng tạo?

Và khi ta hỏi như thế thì ta sẽ được cả hai, vì nếu cả ngày ta khuyến khích ngưởi khác sáng tạo thì đương nhiên ta sẽ trở thành sáng tạo.

Như thế, muốn tạo một môi trường sáng tạo, cho mình và cho tất cả mọi người, mỗi chúng ta phải tích cực khuyến khích người khác sáng tạo luôn luôn trong cuộc sống.

• Bạn bè khuyến khích nhau.
• Anh chị em khuyến khích nhau.
• Bố mẹ khuyến khích con cái.
• Thầy cô khuyến khích học trò.
• Chỉ huy khuyến khích thuộc hạ.
• Nhà nước khuyến khích nhân dân.

Nhưng, khuyến khích sáng tạo cách nào?

• Luôn luôn kêu gọi mọi người có ‎ ý tưởng mới, phương cách mới, tư duy mới…

Tập tự động khen cái mới về tính mới của nó (Ô, mới lạ nhỉ!) Đúng hay không, để đó tính sau. Đã là mới thì khó biết đúng sai. Nhưng mới thì ít ra cũng hay về “tính sáng tạo” (creativity).

• Tính sáng tạo (creativity) luôn luôn nên là một phần điểm trong tổng số điểm.

• Thấy ‎ý tưởng mới hay phương cách mới chói tai mình, thì cũng đừng chống đối. Vẫn nên khen, “Đây là một ý tưởng mới. Hay đấy. Cho tôi ít thời gian để suy gẫm thêm.”

• Đừng ép người khác, nhất là người thấp hơn mình, đồng ‎ý với mình luôn luôn. Khuyến khích họ có lập trường của họ. Nếu không đồng ý được thì “ta đồng ‎ý là ta bất đồng ý.”

• Khuyến khích người thấp hơn mình khám phá mọi sự, thay vì cứ nhồi họ vào cái khuôn của mình.

Có bố mẹ nào nói với con, “Nhà mình công giáo (hay phật giáo). Nhưng có nhiều đạo khác ngoài kia, con đã lớn rồi, nên nghiên cứu và khám phá. Rồi mai mốt con có thể tự quyết định nên giữ đạo mình hay theo đạo khác”?

• Điều càng mới, nghe càng điên rồ. Cho nên ta cần ủng hộ và khuyến khích người có ‎ ý tưởng “điên rồ”. Thành hay bại là chuyện của họ. Ủng hộ họ là chuyện của mình.

(Sáng tạo để cái mới vào khuôn cái cũ thì cũng như không! “Em sáng tạo cho anh môt cái bánh tráng mới giống y hệt cái bánh tráng truyền thống mình đang ăn”. Em nghiêng người, lấy một cái bánh tráng có sẵn trên bàn: “Đây anh, em đã sáng tạo được cái giống hệt cái bánh truyền thống cho anh đây”).

Nói chung là tâm ta phải yêu sáng tạo, yêu thay đổi, yêu cái mới, đến mức mà đi đâu ta cũng muốn mọi người có cái mới, ý tưởng mới, phương pháp mới thường xuyên.

Dĩ nhiên ta muốn nâng cao giá trị truyền thống, nhưng truyền thống là nền để ta đứng trên đó sáng tạo cái mới. Truyền thống không phải là cái khuôn làm bánh in, 100 năm cũng chỉ ra một kiểu bánh.

Trên ĐCN, chúng ta nói đến những truyền thống rất lâu đời của ta—từ Phật pháp, đến Thánh kinh, đến Lĩnh Nam Chích Quái, ngay cả thơ cổ như Thiền thi và Đường Thi, để làm nền cho chúng ta sáng tạo tư tưởng mới cho đời sống mới, không phải để ta láp nháp toàn những điều xưa cũ như vẹt, mà không suy nghĩ biến hóa gì.

Nếu ta thực tâm yêu sáng tạo mãnh liệt, thì tự nhiên ta biết làm thế nào để khuyến khích tất cả mọi người quanh ta sáng tạo. Cho nên nơi cuối cùng, và cũng là khởi điểm đầu tiên, vẫn là tâm ta. Nếu ta chỉ nghĩ đến sáng tạo như là một kỹ năng công việc, mà chưa yêu nó say mê như yêu phở, yêu bánh cuốn, thì ta có vấn đề rất lớn. Hãy để ý tâm mình, và hãy suy tư về sáng tạo cho đến lúc mình bị tiếng sét ái tình với nó.

Đây là chuyện trăm năm, nghìn năm, của đất nước. Mong các bạn cẩn trọng.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Giải Nobel văn chương cho Việt Nam, tại sao chưa?

    (Bài viết được trích trong tập tiểu luận – phê bình: Thơ như là tiến trình)

    INRASARA

1. Không chỉ Việt Nam, văn học Đông Nam Á đang ở vị trí rất khiêm tốn so với văn học nhiều nước trên thế giới. Hai thập niên đầy sôi động, chỉ tính Giải Nobel văn chương thôi, trong lúc các nền văn học [lâu nay bị cho là] ngoại vi the peripheral literature khắp nơi đang nỗ lực giành và giành được bao thành tích chói lọi. Từ châu Phi, châu Mĩ La tinh cho đến châu Á. Hay sát cạnh ta: Nhật Bản, với những tên tuổi Yasunary Kawabata, Kenzaburo Oe, Haruki Murakami. Như thể một cách thế giải trung tâm ngoạn mục, thì Đông Nam Á cứ đứng nhìn, như là kẻ ngoài cuộc.
Huy chương giải Nobel văn học
Hãy bỏ qua bề tối hay vết xước của nó, nhìn lướt Giải Nobel văn chương, tác phẩm của các nhà đoạt giải sáng giá, dù khó phân biệt rạch ròi, luôn hội được một/ một vài hoặc tất cả yếu tố. Đó là:

Nhà văn nêu lên được tinh thần cốt tủy của con người thời đại họ sống: Albert Camus. E. Hemingway, S. Beckett,… Họ bắt trúng mạch, tìm lối viết thích hợp, đẩy vấn đề đến cùng và mở rộng nó tối đa. Hoặc họ tiếp nhận, triển khai tư tưởng mới, độc đáo tác động nhiều chiều đến tinh thần con người. Tư tưởng đó được thể hiện qua nhiều thể loại và bằng nhiều cách thức khác nhau. Hoạt động chữ nghĩa của J-P. Sartre là rất điển hình. Hay như những A. Solzhenitsyn, O. Pamuk,… nói lên vấn đề lớn của dân tộc, đất nước mình, rộng ra – thời đại mình, không kiêng nể hay hãi sợ. Họ chấp nhận trả giá. Hoặc khám phá lối thể hiện mới ảnh hưởng đến lối viết của người cùng thời hay thế hệ sau: W. Faulkner, G. Márquez,…

Đó là chưa kể các nhà văn không đoạt giải nhưng tác phẩm có tác động lớn đến văn học và tư tưởng thời đại: Leon Tolstoy, James Joyce, R.M. Rilke, F. Kafka, Marcel Proust, T.E. Eliot, Erza Pound, Vladimir Nabokov, Jorge Luis Borges, W.H. Auden, S. Rushdie…
Ở Việt Nam, có nhà văn nào làm được như thế?

2. Chuyện xửa xưa, văn học Đông Nam Á ngàn năm sống đời hạng hai và phái sinh hẩm hiu. Văn chương nôm na bản ngữ dù đồng hành với văn chương bác học được viết bằng ngôn ngữ “quý tộc”: Pali, Sanskrit hay Hán, nhưng luôn chịu phận lép và bị chính người bản địa xem thường. Mặc dù vài dân tộc có chữ viết khá sớm (như Champa chẳng hạn, bia Đông Yên Châu xuất hiện từ cuối thế kỉ thứ tư) nhưng mãi đến cuối thế kỉ thứ mười, người viết Đông Nam Á mới sử dụng nó vào sáng tác văn chương. Để chỉ từ thế kỉ mười bảy trở đi, nền văn học khu vực này mới cho ra đời các tác phẩm xuất sắc viết bằng chữ bản địa.

Nhưng định mệnh vẫn chưa thôi chơi khăm chúng ta. Vừa thoát khỏi nền văn học song ngữ đầy mặc cảm được vài trăm năm, văn học còn non trẻ này bị đánh tiếp đòn phủ đầu, khi văn học châu Âu sau đó là Mĩ, Nga tràn vào Đông Nam Á. Những cái bóng khổng lồ của bao nhiêu tên tuổi thi bá, văn hào, triết gia ngoại hạng làm ta choáng ngợp. Ta say sưa lao vào nghiên cứu, dịch thuật, học tập, bắt chước nhưng cạnh đó, bởi lòng tự tôn và tự ái dân tộc, không ít bộ phận sợ hãi, xa lánh và chống báng trước sức ảnh hưởng lấn áp của nền văn học và triết học xa lạ kia. Vọng ngoại và bài ngoại cứ là tồn tại song trùng trong tâm thức dân tộc Đông Nam Á.

Thế nào đi nữa, ta cũng đã có vài thành tựu. Thành tựu đến đâu đi nữa, ta vẫn cứ bị coi là ngoại vi. Người ngoài coi ta ngoại vi, đã đành. Chính ta tự coi mình và coi nhau như thế! Mặc cảm hậu thuộc địa còn trì nặng nơi tâm thức sáng tạo của mỗi người viết Đông Nam Á. Viết trong niềm mặc cảm hậu thuộc địa, thì nhà văn có thể đẻ ra tác phẩm lớn không?

3. Để vươn đến “tầm Nobel”, Việt Nam đã và đang chuẩn bị gì? – Rất ít, nếu không nói là chưa gì cả! Thử nhìn quanh xã hội nơi ta sống…

Mở mắt chào đời, ta thấy cha mẹ, anh chị, thấy cô bác, anh họ chị họ, ông bà họ nội ngoại, dì dượng gần xa, vô thiên lủng… Được thôi, nhưng dường tất cả sẵn sàng chỉ tay khuơ khoắng cháu nên thế này với mầy không được thế nọ đầy quyền uy, đe nạt. Từ bé thơ, tôi phải cắn răng chịu nhận bao nhiêu cái đét đít từ bàn tay một ông cậu bá vơ nào đó, không thể cãi. Ngó quanh, không một ai tỏ vẻ bênh vực tôi cả. Người lớn bảo thì phải nghe – vừa tập tò nhận thức, tôi luôn phải nghe câu đó. Lắng nghe và làm theo. Truyền thống gia đình Việt Nam trọng tình khinh lí đè nặng tâm hồn cá thể từ bao đời chưa có dấu hiệu chấm dứt. Có cha mẹ nào răn dạy con cắt đứt với mấy dây nhợ chừng chịt đó không? Có tấm gương chú bác nào soi sáng con cháu dấn bước trên con đường chinh phục đỉnh cao? Gia đình nào của Việt Nam tạo môi trường hay chuẩn bị đầy đủ điều kiện thiết yếu cho thiên tài tương lai ở khởi đầu cuộc viết? Từ “tứ đức tam tòng” hay “quân sư phụ” xa xưa cho đến nỗi “hi sinh đời bố củng cố đời con” của thời hiện đại, nó cứ thế. Nề nếp gia phong luôn được đặt lên hàng đầu, trói buộc tiềm năng sáng tạo của cá nhân. Nếu có gì thêm, thì chỉ như một tiếp nối nếp nhà, chứ không đi ngược lại hay phá hủy nó để làm ra cái mới lạ. Truyền thống gia đình dạy con cháu yêu quý nâng niu sự ổn định hơn là đam mê tinh thần mạo hiểm khai phá. Từ đó, cá nhân sớm hài lòng với thành quả nhỏ bé đạt được hơn là theo đuổi mục đích to lớn tối hậu. Tôi đã dở khóc dở cười khi cô bạn thơ tâm sự vừa viết thư cho cha “con đã trả xong nợ cho gia đình”, khi cầm trên tay tấm thẻ Hội viện Hội Nhà văn Việt Nam! Sẽ không bao giờ có sự phá cách, nói chi đến một phiêu lưu [tư tưởng] mang tính đột phá táo bạo nào sẽ xảy ra, ở đó.

Gia đình đã vậy, nhà trường cũng chẳng hơn. Chưa vội đề cập đến việc trang bị cơ sở vật chất tiên tiến nhất sẵn sàng cho phát kiến khoa học, ngay nhà văn chỉ cần một cây viết, một tập giấy trắng và… một đầu óc tư duy độc lập thôi, ta vẫn chưa. Thực tế, môn triết học – được cho là môn học nền tảng của mọi nền tảng giúp con người suy nghiệm cuộc sống chiều sâu – đến hôm nay vẫn chưa có mặt nghiêm túc trong các Đại học Việt Nam. Không có truyền thống triết học, ta cũng chưa sẵn sàng cho truyền thống đó.

Mục đích của nhà trường là đào tạo con người tiêu chuẩn, đâu cũng thế. Riêng Việt Nam, ta còn đẩy món tiêu chuẩn kia đi đến đầu mút của con người đóng hộp, bằng hệ thống và chính sách giáo dục theo-ism. Theo-ism từ “thuật nhi bất tác”, “Tử viết” suốt ngàn năm, theo-ism bám ta đến tận hôm nay. Cơ chế đó, sinh viên có làm ngược, làm khác ý thầy, tư duy khác chương trình sách giáo khoa dạy mới là chuyện lạ.

Ngồi giảng đường, giảng viên không khuyến khích sinh viên suy tư độc lập, thì làm gì hi vọng sau đó họ phát kiến í tưởng mới lạ, liều lĩnh khai phá lối viết mới mẻ, dám thể hiện mình (không phải thể hiện cái tôi chủ quan èo uột hay lớn lối như đã) mà không ngại thất bại? Khía cạnh này, hãy nghĩ đến A. Breton hay Alain Robbe-Grillet. Đây là rào cản vững chãi và ngoan cố nhất chúng ta tự dựng lên ngay trong nhà mình.

Câu chuyện. Thuở sinh viên năm nhất khoa Anh Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, giờ ngữ pháp tập đặt câu “Bởi vì… cho nên…”. Thay vì xử sự cho qua chuyện như mọi người, rằng “Bởi vì sáng nay trời mưa cho nên em đi học trễ”, tôi phức tạp hóa vấn đề bằng câu: “Bởi vì đất nước ta vừa trải qua chiến tranh cho nên chúng ta còn hạn chế về tự do”. Cô giảng viên bảo “em sai rồi”, tôi mới đứng dậy phân trần “thưa cô, em đúng mà”. Thế là anh lớp trưởng ngồi bàn bên quơ cây thước gỗ to cồ thọc mạnh vào mạn sườn tôi: – Sai là sai quan điểm, ngốc à.

Giáo sư dạy tôi nghĩ theo lối nghĩ của sách giáo khoa, đã đành; bằng hữu thay vì hỗ trợ và kích thích tôi tìm tòi sáng tạo thì lại đóng vai kẻ canh chừng không cho tôi bước chệch khỏi quỹ đạo giáo dục cho phép, nên – tôi cứ thế cúi đầu răm rắp làm theo thầy, theo sách. Tất cả tình nguyện trở thành tín đồ thuần thành của thứ chủ nghĩa theo-ism, rập khuôn có sẵn. Nơm nớp sợ khác người, sợ bị hiểu lầm hay sợ không ai hiểu mình, cuối cùng – sợ thất bại, cho dẫu tạm thời. Với một theo-ist được gò như thế, chuyện phá rào là bất khả.

Còn xã hội ngoài kia? Chưa nói đến cộng đồng làng xã với văn hóa làng xã luôn dị ứng với cái mới, cái khác mình, sẵn sàng tư thế miệt thị, áp chế tư tưởng vượt qua tầm hiểu của mình; ngay một tổ chức xã hội đầy quyền năng chuyên môn như Hội Nhà văn Việt Nam, cũng chưa có cái nhìn thoáng mở, chưa thực sự dũng cảm ủng hộ cái trái ngược. Phần thưởng dành cho sự độc đáo, sáng tạo càng hiếm hơn nữa. Giải thưởng thơ phần đông ưu ái các loại Thơ Mới biến thể của thứ mĩ học ở thời xa lắc, cho lí luận phê bình là những Tản mạn… hay Tạp cảm… đủ loại. Nếu có lỡ phá cách, ta luôn dỏng tai nghe ngóng tiếng nói từ báo chí, đủ loại báo chí phổ thông. Ngoảnh lại sự cố lùm xùm xung quanh Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, mà hỡi ơi cho văn hóa làng xã ấy. Hành trạng công nhận trao giải – tố cáo chụp mũ – phủi tay chối bỏ lá phiếu của chính mình nơi vài thành viên Ban chấp hành – nói lên tất cả nỗi sợ hãi của tầng lớp được xem là ưu tú nhất của xã hội này. Thì làm gì mong mỏi từ giữa lòng xã hội ấy nảy ra cá nhân xuất chúng!

Cá thể nào có thể vượt được cơ chế đóng [hay he hé mở] từ gia đình, nhà trường đến xã hội kia? Đây đó, đã có không ít nhà văn ý hướng đạp đổ bức tường, đã có không ít nhà thơ quyết từ chối giấy phép xuất bản, cương quyết in photocopy tác phẩm để thể hiện tự do tư tưởng, tự do sáng tác của mình, và họ chấp nhận trả giá. Công cuộc không đáng này đã làm tiêu hao bao tinh lực của tuổi trẻ, thời gian qua. Vượt qua chúng là khó, nhưng không phải bất khả. Còn nhận ra và phá bỏ rào cản vô hình dựng ngay trong tâm thức ta, thì ngàn lần khó hơn. Đó là lề thói tư duy nhỏ lẻ, não trạng ăn theo, núp bóng phát sinh và được nuôi dưỡng từ nền “văn chương cỏ gianh” trong nền “văn hóa quà vặt” (từ dùng của Vương Trí Nhàn). Chỉ khi vượt qua nó, nhà văn mới có thể nói đến sáng tạo đích thực. Khi cuộc chuyển hóa tâm thức này xảy ra, biết đâu chính mấy thứ tưởng như trở lực kia, qua hành động công phá không ngưng nghỉ, nhà văn ta hóa thân lớn dậy để làm nên tác phẩm lớn.

4. Nhưng hỏi các cá nhân nhà văn, có ai trong chúng ta đã sẵn sàng để… lớn? – Rất ít!
Thiếu triết học, ta có thể đổ lỗi cho cơ chế với ngài khách quan, nhưng – theo quan sát của tôi – nhà văn ta còn chưa nắm bắt đầy đủ thực tế cuộc sống sôi động ngoài kia, nắm bắt và suy tư đủ sâu về nó. Đây đích thị một trớ trêu. Bởi “ba cùng” từng là khẩu hiệu các quan văn cổ xúy. Hội Nhà văn Việt Nam cùng các hội đoàn địa phương bỏ tiền của tổ chức bao nhiêu là cuộc thâm nhập thực tế, nhưng ta cứ thiếu.

Bởi, khi đi vào cuộc sống địa phương, ta vẫn qua loa, hời hợt.

Mới đây thôi, 27-4-2008, “Báo cáo Lịch sử Đất Mũi và 30 năm xây dựng – phát triển Cà Mau” – một văn bản khô khan nhưng ngồn ngộn sự kiện mới lạ được trình bày bằng thái độ nhiệt tình với sự phấn chấn hiếm có của đại diện Khoa giáo Tỉnh – được non hai chục nhà văn trẻ Sài Gòn nghe một cách hờ hững. Hơn nữa, không ai ghi chép cả! Như thể báo cáo chính trị – xã hội kia chả can hệ gì đến sáng tác thơ văn tôi.

Sau đó, mùa hè 2008, đoàn nhà văn TP Hồ Chí Minh đi thực tế huyện Bảo Lâm – Lâm Đồng. Mươi nhân viên Công ty Thuỷ điện Đồng Nai 4 cùng năm anh chị em thuộc đội ca nhạc dân tộc Châu Mạ, hai già làng nữa đón đoàn, trân trọng và đậm tình. Đốt lửa, rượu cần, thịt heo rừng quay, ca hát,… Vậy mà nhà văn ta “dấn thân” chưa đầy hai tiếng đồng hồ, đã xin kiếu, lên xe máy lạnh về thị xã ngay trong đêm khuya khoắt ấy. Trong khi ở đó vẫn còn mồi (bắt chước lối nói của Bùi Chát), nhà nghỉ có sẵn, không khí văn nghệ đang kì cao điểm. Tại sao không ở lại nhạc rừng by night với anh chị em? Để vui thôi, chứ chưa nói đến chuyện ba cùng [khổ] với đồng bào.

Đi thực tế, ta rất thiếu… cô đơn. Nhà văn luôn cõng theo lỉnh kỉnh bao nhiêu là “vấn đề” từ nhà về vùng đất mới. Dự lễ hội Katê Chăm, nhà văn khoái khách sạn nhiều tiện nghi hơn trú lại nhà dân, thích làm khách sang của gia đình sang trọng hơn là lăn xả vào chốn nghèo hèn và, đáng nói hơn cả là, luôn gánh cả đống chuyện văn chương chữ nghĩa ở tận thành phố theo mình. Hiếm ai tạo được “những ngày rỗng” toàn triệt để thu vào tầm mắt đất trời Phan Rang lạ lẫm, tò mò tìm biết bí ẩn bao mảnh vụn của nền văn hóa Champa, lắng nghe câu chuyện Chăm, cảm thông những tâm hồn cô đơn và kiêu hãnh Chăm,…
Chúng ta chưa học biết cởi bỏ cô gái ở lại bên này bờ sông như chú sãi kia trong một ngụ ngôn Thiền, mà một mực vác nàng theo suốt hành trình chữ nghĩa nặng nhọc.

Thứ nữa, thâm nhập vào mọi vùng tối, khoảng trống của ngôn ngữ để khai thác tối đa tiềm năng khả thể của ngôn ngữ, nhà văn ta chưa có đủ í thức đó. Nhất là nhà thơ, kẻ được coi như nghệ sĩ của ngôn từ. Chúng ta chăm chăm vào nội dung tư tưởng xã hội, tính giáo dục của tác phẩm mà bỏ bê [hoặc rất ít chú í] khả tính nội tại của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ sống được sản sinh từ giữa lòng đời thực.

Bắc, Trung, Nam rồi sau đó, đất nước chia hai nảy sinh bao nhiêu là khác biệt về từ vựng và cách sử dụng. Sau Bảy lăm, sự thay đổi liên tục về chính sách (chỉ tính riêng nông thôn: chia ruộng đất, ba khoán, khoán sản phẩm, khoán trắng, rồi giải thể hợp tác xã, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…) đẩy cả ngàn từ vựng nóng hôi hổi cấp tập chào đời. Năm mươi tư dân tộc trong hơn tám mươi sáu triệu dân, trong đó sáu dân tộc có chữ viết truyền thống, có dân tộc sở hữu cả nền văn hóa – văn minh lâu đời, ngôn từ phong phú bao nhiêu mà kể. Nhưng hiếm hoi lắm chúng mới hân hạnh góp mặt trong thơ đương đại. Các chữ sang trọng đầy quen thuộc đến cũ mèm vẫn cứ chễm chệ trang trọng trong sáng tác thơ ca dòng chính lưu.

Khía cạnh này, thái độ sử dụng tiếng Việt của Nguyễn Hoàng Nam, Bùi Chát rất đáng ghi nhận. Hay gần đây, Đinh Linh với thơ tiếng Việt của anh:

“Truyền thống không phải là những lề lối, cách dùng cũ nhạt, ứ đọng, mà là di sản ngôn ngữ linh động của cả một dân tộc. Ngôn ngữ chợ búa, du đãng, những bài thơ tiền vệ, chữ lóng cũng thuộc về truyền thống. Thậm chí ngôn ngữ dùng sai, bởi con nít, những kẻ nói tiếng Việt không rành, chẳng hạn Hoa Kiều, Việt Kiều hay những nhân vật tỉnh Nghệ An, cũng thuộc về truyền thống. Nhà thơ có quyền, thậm chí có trách nhiệm, đùa với truyền thống, tìm những chức năng mới cho nó. Hơn nữa, bạn còn có thể mượn truyền thống người khác để làm phong phú ngôn ngữ mình.

Sự chưa đủ này lại là một rào cản khác.

Thêm: bao nhiêu là nỗi sợ hãi vây bủa nhà văn. Dưới hay trên, ngoài và trong, xa và gần! Sợ bị soi mói, bị chụp mũ, sợ tác phẩm không được in hay bị thu hồi sau khi phát hành. Sợ cho mình, sợ cho nhau và sợ nhau, nên ta rất sợ mình không giống ai…. Ta vừa viết vừa liếc nhìn người bên cạnh, người đi trước, đàn anh chị hay bạn đồng hành cùng trang lứa. Ta sợ đi một mình. Là nỗi chưa đủ cô đơn cho sáng tạo. Cô đơn đầu tiên và cuối cùng. Sự cô đơn cần thiết để tạo nên tác phẩm chiều sâu.

Chưa đủ cô đơn trong giai đoạn đầu tư thai nghén. Nhà văn bị cuốn vào cuồng lưu hội hè đình đám, hội thảo chòm nhóm, văn chương chưa ra trường phái đã biến thành phe phái. Chưa đủ cô đơn khi đối diện với trang giấy/ màn hình trắng. Bao nhiêu bóng u ám, giọng mơ hồ lởn vởn trong ta, quanh ta, sẵn sàng đe dọa thân xác ta, uy hiếp tinh thần ta; nó lên tiếng thì thầm khuyên nhủ hay trừng mắt răn đe ta nên thế này với không nên thế nọ, khiến ta lơi tay hay bẻ cong ngòi bút lúc nào không hay. Chưa đủ cô đơn cả lúc tác phẩm đã sinh hạ. Ta lắng tai nghe ngóng dư luận về nó, rằng nó có vấn đề gì không, các nhà phê bình có để mắt đến nó và, tệ hơn cả là ta mãi tư thế đứng ra bảo vệ nó khi nó bị chê bai.

Bấy lâu, ta luôn là con người của số đông, số đông trong giới văn nghệ, số đông giữa người đọc và, số đông cả khi chỉ ngồi một mình, cô độc!.

Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, từ đó nơi thẳm sâu tâm thức nhà văn ẩn chứa tinh thần tự kiểm duyệt. Tự kiểm duyệt theo nghĩa rộng nhất của từ này. Tự kiểm duyệt và hỗ trợ nhau kiểm duyệt trước khi bị kiểm duyệt. Hậu đổi mới là thời hoàng kim của tự kiểm duyệt, Phạm Thị Hoài nói thế. Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, nhà văn không dám sống tới cùng tư tưởng chọn lựa, không dám viết tới cùng, và nhất là không dám theo đuổi đến cùng dự án lớn lao không giống ai của mình [nếu nhà văn đã nghĩ ra được và hoạch định trước đó].

Mà đã sợ hãi, thì làm gì có sáng tạo đúng nghĩa!

Rào cản cuối cùng, là nhà văn chưa đủ í thức về nghề. Đại đa số nhà văn hôm nay chưa thoát khỏi quan niệm văn chương là trò chơi. Ch. Fredriksson: “Í tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng. Nhưng dường như ở Việt Nam các nghệ sĩ ít thích bàn về điều này, họ thường thích làm tác phẩm hơn là nói về các tác phẩm của mình”.

Ít bàn, ông nói – thực ra là: không bàn, không muốn bàn, không dám bàn vì, không khả năng bàn, thậm chí, dị ứng với lí luận. Đó là ông nhận định về cánh làm mĩ thuật. Bên văn chương cũng không hơn. Sáng tạo đầy mơ hồ không trên nền tảng mĩ học cụ thể nào, nhà thơ mãi chịu định mệnh một tập, một bài thơ, là thế. Không ít sáng tác có dấu ấn là sáng tác ăn may, ăn mòn vào năng khiếu “trời cho”. Trời cho tới đâu hay tới đấy, chúng ta thói quen nói như vậy. Sự thể sẽ dẫn đến đâu? – Bế tắc!

Tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn hay các Trung tâm bồi dưỡng viết văn, các trào lưu văn chương trên thế giới hãy còn khá xa lạ với sinh viên. Tri thức cơ bản nhất về các hệ thẩm mĩ văn học nghệ thuật tiên tiến không được cập nhật, thế hệ nhà văn tương lai hiện đang ngồi ghế giảng đường còn không biết thiên hạ đanh đi đến những đâu nữa.

Chưa đủ í thức về nghề, nên ta chưa suy tư qui mô về nghệ thuật, suy tư có tính nền tảng và rốt ráo. Sau Bàn tròn văn chương kì thứ bảy, tôi làm cái sơ kết: BTVC được ba thành công nhỏ nhưng vỡ ra một thất bại lớn. Thành công trong tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để thực sự cùng bàn về văn chương đương đại; đề tài hay tác giả – tác phẩm của Bàn tròn được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên thảo luận tự do trong một không khí cởi mở, vô ngại. Là ba điều chưa từng xảy ra trước đó. Nhưng thất bại lớn nhất và duy nhất của Bàn tròn văn chương là chất lượng của í kiến. Cứ đặt bảy Biên bản Bàn tròn bên cạnh bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo, chúng ta dễ thấy hiện diện ở đó cả một vực thẳm.

Đó là vật chứng không thể chối cãi về tầm í thức về nghề của nhà văn hôm nay so với nhóm Sáng Tạo. Trong khi tuổi trung bình của ta gấp rưỡi thế hệ trước ở thời điểm họ thảo luận, và ta đi sau họ đến nửa thế kỉ!

Trong sáng tác nghệ thuật, đạt được sự phát triển tinh thần tuần tự nhi tiến, ngày càng sâu rộng, cao lớn như Rembrandt, Van Gogh, Beethoven hay Dostoievski là điều cực hiếm. Ở Việt Nam, một Chế Lan Viên hay Tô Thùy Yên là hiện tượng lạ. Còn thì, phong độ khá phập phù. Không phải nhà sáng tạo vĩ đại đã không rơi vào bế tắc, nhưng khác biệt lớn giữa bế tắc thật và giả là tinh thần, thái độ, rằng nó nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp, ta tự tin làm việc trong bất kì hoàn cảnh nào. Chuyên nghiệp, ta chấp nhận giú mình nơi bóng tối vô danh trong thời gian dài. Ta không sợ cô đơn, không sợ cô độc, cả không sợ cô lập.

4. Mặt bằng độc giả là yếu tố không thể thiếu góp phần kích thích sự phát triển văn học. Nhưng ở điểm này, Việt Nam vẫn chưa có nhiều người đọc đúng nghĩa.

Trong các chuyến đi xuyên Việt, bằng tàu lửa hay máy bay hoặc xe du lịch chất lượng cao, nếu chịu quan sát ta sẽ thấy, ngoài số người ngủ gật hay làm chuyện vặt hoặc tán gẫu, có hai bộ phận đọc khác nhau: đọc sách và đọc báo. Chú í nữa, hầu hết người cầm trong tay cuốn sách dày là khách Tây, ngược lại: dân Việt Nam!

Đi vào các khu di tích văn hóa – lịch sử cũng xảy ra tình trạng tương tự, trong khi người Việt Nam xách theo gói đồ ăn với tờ nhật báo thì dân phương Tây luôn tay giở các trang sách. Đi du lịch, họ chuẩn bị sẵn tri thức tối thiểu về nơi họ sắp đến. Không hiểu, họ hỏi; hiểu lờ mờ, họ hỏi. Họ thắc mắc về sai biệt giữa thực tế và kiến thức được viết trong cuốn cẩm nang du lịch. Tại sao bức tượng kia không còn ở đó? Tại sao sách lí giải thế này mà cô thuyết minh như thế kia? Vân vân…

Ở xã hội nông thôn Việt Nam, vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà một gia đình trung lưu, đập vào mắt khách là tủ buffet chưng diện bát đĩa và… cái tivi đời mới. Mấy năm qua, ta có thêm máy vi tính. Hiếm gia đình có được tủ sách. Có – nhưng rất ít, chỉ lèo tèo vài chục cuốn.

Trước Bảy lăm, làng Caklaing quê tôi chưa tới ngàn dân có hai gia đình sở hữu tủ sách trên ngàn cuốn. Ở làng Hữu Đức là gấp đôi. Các tạp chí như Bách khoa, Phổ thông, Văn, Tư tưởng, Đại học,… được bày biện trang trọng là chuyện nhỏ. Tại vài hiệu sách tỉnh lẻ như thị xã Phan Rang, lứa trẻ chúng tôi dễ dàng tìm mua bộ Nho giáo, Thơ tiền chiến toàn tập, Bùi Giáng,… Hôm nay, nhân khẩu Caklaing tăng tám lần nhưng tủ sách gia đình thì hầu như tuyệt chủng! Chúng ta đọc báo, yên tâm rằng mình đã hiểu mọi chuyện. Độc giả ta hiếm cơ hội tiếp cận cái mới từ đó khó chấp nhận cái khác mình, cái xa lạ.

Độc giả phổ thông đã vậy, còn độc giả chuyên nghiệp thì thế nào? Khủng hoảng và tê liệt phê bình đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự lớn dậy của sáng tạo văn chương. Ta có đủ kiểu phê bình. Từ phê bình hũ nút đến phê bình hàng hai, từ phê bình quan phương đến phê bình du kích, phê bình bè phái hay phê bình chỉ điểm,… Riêng phê bình nhằm thúc đẩy văn học tiến tới thì rất hiếm. Một phê bình thoát khỏi hệ mĩ học cũ để mở ra hướng đi mới cho văn học.

Cứ ngoái lại xem Hoài Thanh đã ứng xử kịp thời và tài tình với phong trào Thơ Mới thế nào cũng đủ hiểu. Còn hôm nay, có nhà phê bình nào làm được thao tác đó? Không ai cả! Tháng 7-2008, trong buổi nói chuyện tại Khóa bồi dưỡng lí luận – phê bình văn học do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, tôi hỏi các học viên: Sau Hoài Thanh, có tác phẩm phê bình nào các bạn cầm lên để có thể nhận diện được một trào lưu văn học, một thời đoạn ngắn ngủn của thơ ca Việt Nam chưa? – Chưa!

Ngay í định làm một cuốn sách như thế, đến hôm nay – theo tôi biết – vẫn chưa (thực tế là có một, nhưng thất bại). Chúng ta tranh thủ viết tản văn, tạp ghi theo kiểu… tản mạn; chúng ta làm hội hè, hội thảo đủ loại; rồi thì rẽ sang làm công tác nghiên cứu, giảng dạy hoặc nhanh nhẩu nhảy vào cuộc cãi cọ nhảm nhí bằng phản ứng nhếch nhác chỉ bởi vài quy kết, xuyên tạc nhỏ nhen nào đó. Ta có đủ lí do chính đáng cho các sự vụ ấy. Trong khi tập trung vào công việc chính là phê bình thì, vẫn cứ chưa. Đành rằng, với nỗi “dồi dào” và “phong phú đa dạng” các tác giả, trào lưu, khuynh hướng văn chương xuất hiện trên đủ loại phương tiện thông tin, không nhà phê bình nào tự nhận quán xuyến tất cả. Nhưng ít ra người làm phê bình vẫn có thể chọn một/ một vài trào lưu nhất định để làm phê bình. Vậy mà mãi tận hôm nay, giới phê bình Việt Nam vẫn chưa cho ra đời tác phẩm như thế.

Dăm năm qua, tôi thử dấn vào “lập biên bản” sáng tạo của nhà văn hậu đổi mới, các tác giả viết trong cảm thức mới, sử dụng thủ pháp nghệ thuật mới. Các sáng tác của họ góp phẩn đẩy nhanh quá trình phi tâm hóa văn chương và xã hội Việt Nam. Nguyễn Hoàng Tranh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Hoàng Nam, Đinh Linh, Phan Nhiên Hạo, Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Anh Hoài, Bùi Chát, Lý Đợi, Như Huy, Trần Nhã Thụy, Nhật Chiêu, Lê Vĩnh Tài, Vũ Thành Sơn, Đỗ Kh, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Tôn Hiệt, Phan Bá Thọ, Đặng Thân, Lê Thị Thấm Vân, Trần Wũ Khang, Tuệ Nguyên, Khánh Phương,… Bao nhiêu là nỗ lực, bao nhiêu là hủy phá và sáng tạo đáng được ghi nhận ngay giai đoạn sung sức nhất của đời văn.

Tôi viết về họ, với hi vọng sau cao trào này, sẽ làm một tổng luận về thơ tiếng Việt hậu đổi mới. Để kết thúc một thời đoạn và mở ra một cái gì khác chưa thể biết được. Tôi không chắc mình có kham nổi công cuộc này không, nhưng thiết nghĩ, chỉ khi kịp thời ghi nhận đúng đắn nỗ lực và thành tựu khởi đầu của họ, nhà phê bình mới thật sự góp tay vãi một nắm phân đạm vào đám ruộng hợp tác xã văn chương tiếng Việt. Còn nhà văn có vươn ra cánh đồng văn chương thế giới hay không và vươn ra tới đâu, chỉ có họ trả lời được. Ở thì tương lai.

Sài Gòn, 9-2008 & 1-2010.