Tag Archives: trà đàm

Không thay đổi

Chào các bạn,

Thay đổi là một vấn đề khó khăn. Một số người thay đổi cách nghĩ và cả cuộc đời trong có một giây. Một số người học tiếng Anh dễ như không. Nhưng một số người khác tốn bao công sức hàng tháng năm ròng với bao đau đớn, bao chương trình kế hoạch để thay đổi mà vẫn vô hiệu.

Tại sao vậy?  Tại sao cố gắng “leo dốc” vất vả làm vậy? Hay là cứ nhẹ nhàng yêu giọt nước mưa đang lăn trên má ta  🙂

Sau đây là một câu chuyện về Thay Đổi. Các bạn hãy đọc và cho ý kiến nhé.

Chúc các bạn một ngày dịu dàng,

Hiển.
.

Không thay đổi

“Tôi là một người điên nhiều năm rồi. Tôi lo lắng, trầm cảm và ích kỷ. Mọi người liên tục bảo tôi phải thay đổi đi.

Tôi bực tức lại họ, và tôi đồng ý với họ, và tôi muốn thay đổi, nhưng đơn giản là không thể, bất kể tôi đã cố gắng vất vả thế nào.

Điều làm tôi đau đớn nhất là, như những người khác, người bạn tốt nhất của tôi cứ đòi hỏi tôi phải thay đổi. Do đó tôi thấy bất lực và kẹt bẫy.

Rồi, một ngày kia, anh ấy nói với tôi, “Đừng thay đổi. Tôi yêu bạn đơn giản như bạn bây giờ.” Những từ ngữ đó là âm nhạc cho tai của tôi. “Đừng thay đổi. Đừng thay đổi. Đừng thay đổi… tôi yêu bạn như bạn bây giờ.”

Tôi thoải mái. Tôi sống động. Và đột nhiên tôi thay đổi.
Bây giờ tôi biết rằng tôi không thể thực sự thay đổi cho đến khi tôi tìm thấy ai đó yêu tôi bất kể tôi có thay đổi hay không.”

Đây có phải là cách Chúa yêu con không, Chúa ơi?
.

Don’t change

“I was a neurotic for years. I was anxious and depressed and selfish. Everyone kept telling me to change.

I resented them, and I agreed with them, and I wanted to change, but simply couldn’t, no matter how hard I tried.

What hurt the most was that, like the others, my best friend kept insisting that I change. So I felt powerless and trapped.

Then, one day, he said to me, “Don’t change. I love you just as you are.” Those words were music to my ears. “Don’t change. Don’t change. Don’t change. . . I love you as you are.”

I relaxed. I came alive. And suddenly I changed.

Now I know that I couldn’t really change until I found someone who would love me whether I changed or not.”

Is this how you love me, God?
~ Anthony de Mello, The song of the bird

Không làm, không ăn

Hyakujo, thiền sư người Trung quốc, thường làm việc lao động với các học trò ngay cả khi cả đã tám mươi, dọn vườn, cắt cỏ, tỉa cây.

Các học trò lo lắng thấy vị thầy già làm việc cực quá, nhưng họ biết thầy chẳng nghe lời khuyên của họ mà nghỉ ngơi, nên họ dấu đồ nghề làm vườn.

Ngày đó sư phụ chẳng ăn. Ngày kế tiếp thầy cũng chẳng ăn, và ngày kế tiếp cũng vậy. “Có lẽ thầy giận mình đã dấu đồ nghề,” các học trò đoán, “Mình phải trả lại thôi.”

Ngày họ trả lại đồ nghề, thầy làm việc và ăn như trước đó. Tối đó thầy dạy học trò: “Không làm, không ăn.”
.

Bình:

• Thiền sư già này là Bách Trượng Hoài Hải, đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, một trong ba người có ảnh hưởng lớn nhất trong Thiền tông–Sư tổ Bồ Đề Đạt Đa, Lục tổ Huệ Năng, Mã Tổ Đạo Nhất.

Sau khi Mã Tổ sáng lập tu viện Tòng Lâm, Bách Trượng Hoài Hải nối tiếp lập ra hệ thống các quy tắc trong tu viện. Chủ trương cuộc sống “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (Ngày nào không làm, ngày đó không ăn) của Bách Trượng từng gặp nhiều khó khăn, bị chỉ trích vì trái với quy củ, giới luật trước đây của người tu hành Phật Giáo, thậm chí có người còn cho sư là kẻ ngoại đạo.

• Thiền tông từ đó trở thành tích cực hơn. Các thiền sư có lối sống “vào đời” rất tích cực. Các vị không chỉ ngồi thiền cả ngày, chẳng làm gì như mọi người lầm tưởng. Thiền có thể thực hành mỗi giây phút, dù ta đang làm việc gì. Thiền không có nghĩa chỉ là ngồi Thiền.

• Ngay trong hàng khất sĩ, khất thực (xin ăn) là một loại tu tập tích cực hàng ngày. Đi khất thực là một công việc khó khăn, để tu tập hạnh khiêm tốn và tĩnh lặng cho mình, đồng thời giúp mọi người thực hành hạnh bố thí.

• “Không làm, không ăn” hay “làm để ăn” là quy luật tự nhiên. “Sống là làm”—đây là một triết lý tự nhiên về hoạt động tích cực trong đời sống.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

No Work, No Food

Hyakujo, the Chinese Zen master, used to labor with his pupils even at the age of eighty, trimming the gardens, cleaning the grounds, and pruning the trees.

The pupils felt sorry to see the old teacher working so hard, but they knew he would not listen to their advice to stop, so they hid away his tools.

That day the master did not eat. The next day he did not eat, nor the next. “He may be angry because we have hidden his tools,” the pupils surmised. “We had better put them back.”

The day they did, the teacher worked and ate the same as before. In the evening he instructed them: “No work, no food.”

# 83

Người trông cậy được

Chào các bạn,

Từ quan trọng nhất khi định điểm một người để tuyển họ vào việc nào đó là “trông cậy được” (reliable). Tất cả mọi nhận xét về đức tính và vốn liếng của người đó—thông mình, hoạt bát, kinh nghiệm…– rốt cuộc quy về một chữ “reliable.” Reliable thì tuyển, không reliable thì không tuyển.

Trong mọi liên hệ khác ở đời cũng chỉ một từ reliable—thương mãi, kinh tế, chính trị, chủ thợ, vợ chồng, bạn trai bạn gái, teamwork, v.v… Một người mà ta có thể sống chung hay làm việc chung thường xuyên là một người có thể trông cậy được. Hắn có thể đẹp trai hay xấu trai, kiêu căng hay khiêm tốn, thông minh hay khù khờ, nhưng nếu trông cậy được là được.

Trông cậy được (reliable, reliability) tối thiều được thành hình nhờ các tính chất sau:

1. Thành thật: Nếu bác không thành thật thì Diêm Vương gặp bác cũng phải chạy, nói chi người.

2. Lời nói chắc chắn: Nói 3 giờ có mặt thì động đất cũng có mặt lúc 3 giờ. Nói là sẽ làm việc gì thì sẽ làm việc đó. Việc gì chưa biết thì nói chưa biết, biết mơ hồ thì nói biết mơ hồ.

Dĩ nhiên là người nói chắc chắn cũng là người thành thật, nhưng đôi khi có người thành thật nhưng lại ăn nói không chắc chắn. Ví dụ: Hắn nói có mặt 3 giờ, thì thế nào hắn cũng có mặt, nhưng có thể là 4, 5 giờ. Tên này rât lỏng lẻo về thời gian.

3. Trung thành: Đã là bạn thì luôn là bạn, không vì bất đồng ‎y’ kiến về việc gì đó mà đổi bạn thành thù, hay vì cả hai mê một cô hoặc giành một chức vị mà không chơi với nhau được nữa, hay bực nhau chuyện gì đó rồi đổi bạn thành thù.

Trung thành không có nghĩa là luôn luôn đồng ý. Trung thành là luôn luôn giữ vững liên hệ nền tảng, dù có bất đồng ý về chuyện gì đó.

Trung thành là không bỏ chạy khi đụng chuyện—khi bạn lên thì là bạn, khi bạn bị đời chối bỏ và ngyền rủa thì ta bỏ bạn. Thế thì ruồi chạy theo mật chứ bạn bè gì. Bạn có nghĩa là: Khi cả thế giới bỏ bạn, bạn có thể đến tựa vào vai mình.

Vợ chồng, thầy trò … cũng vậy.

4. Hiểu ‎ý nhau: Người reliable nghe rất kỹ và luôn cố để hiểu đúng ý người kia và làm đúng ý. Rất ít khi có chuyện “Ồ, em tưởng thế này.”

Người reliable chẳng cần nói nhiều. Nói một từ với nhau là đã hiểu trọn ý.

Nhưng làm sao thực hiện được nghệ thuật hiểu nhau này? Thưa, lắng nghe với sự nhậy cảm của cả con tim và khối óc.

4. Không có ngạc nhiên: Một người reliable không bao giờ làm người kia ngạc nhiên. “Ủa, sao anh làm kỳ vậy?” “Trời, tui đâu có ngờ anh làm việc này.”

Người thường đưa cho bạn ngạc nhiên là không reliable.

Người reliable, nếu có việc gì không rõ thì luôn luôn hỏi lại. Muốn làm gì cũng nói chuyện qua với nhau trước.

Nói chung, người reliable là người nếu làm việc chung với bạn, buôn bán chung với bạn, ngủ chung với bạn, thì bạn luôn cảm thấy an tâm, thấy được thêm đồng minh, thêm sức mạnh; có thể đi chơi xa, để công việc lại cho người này chăm sóc mà không mảy may lo lắng.

5. Không dễ tin việc nhảm. Người reliable là người nếu có người nói xấu với họ về bạn, bạn biết là họ sẽ không tin, vì họ hiểu bạn.

Nếu có người nói xấu bạn mà họ tin ngay thì họ không reliable.

6. Tha thứ: Người reliable dù biết bạn sai cũng không thay đồi tình cảm với bạn, sẽ tha thứ cho bạn, và sẽ vẫn thương yêu bạn.

Nếu đọc đến đây mà bạn vẫn chưa hiểu reliable là thế nào thì theo công thức này: Người reliable nhất với bạn mà bạn đã biết là mẹ bạn. Hãy theo đó mà sống reliable với mọi người.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Một Rổ Nước

Có 1 ông già sống ở 1 trang trại trên núi ở phía đông bang Kentucky với đứa cháu trai nhỏ của ông. Mỗi sáng, ông ta dậy sớm ngồi trong bếp và đọc kinh Koran.

Cháu trai của ông ấy muốn được như ông và cố gắng bắt chước ông ta mọi cách mà cậu có thể. Một ngày nọ, cậu hỏi “Ông ơi, cháu đã cố gắng đọc kinh Koran như ông nhưng cháu không hiểu nó, và những thứ cháu hiểu thì cháu lại quên ngay khi gấp sách lại. Đọc kinh Koran sẽ có ích gì ạ ?”

Ông ta lặng lẽ lấy than bỏ vào lò và quay lại đáp: “Hãy mang cái rổ than nay xuống dưới sông và mang lại cho ta một rổ nước” Cậu bé làm theo những gì ông nói nhưng nước chảy hết ra ngoài trước khi chú bé về đến nhà. Ông ta cười và nói: “Lần tới, cháu phải chạy nhanh hơn 1 chút” và ông sai cậu ra sông để thử lại với cái rổ .

Lần này, cậu bé chạy nhanh hơn, nhưng lại 1 lần nữa, rổ lại rỗng trước khi cậu chạy về nhà. Thở đứt hơi, cậu nói với ông rằng việc lấy nước bằng 1 cái rổ là không thể và cậu đi lấy 1 cái xô để thay thế.
Ông nói: “Ta không muốn 1 xô nước, ta muốn 1 rổ nước cơ. Cháu chỉ không đủ cố gắng thôi”. Và ông ấy đi ra cửa xem cậu ta thử lại.
Tới lúc này, cậu bé biết rằng đây là 1 việc bất khả thi nhưng cậu ấy muốn cho ông ấy thấy rằng dù mình chạy nhanh hết sức nhưng
nước sẽ chảy hết trước khi cậu về tới nhà.


.

Một lần nữa, cậu nhúng rổ xuống sông và chạy thật nhanh nhưng khi cậu tới được chỗ ông thì cái giỏ lai trống không
Hổn hển thở, cậu nói: “ông thấy không,thật vô dụng thôi!”
“Thế cháu nghĩ nó vô dụng sao?” Ông ta nói “nhìn cái giỏ kìa”
Cậu bé nhìn cái giỏ và nhận ra nó khác hẳn. Cái giỏ than đã chuyển từ cũ, dơ bẩn và bây giờ thì nó sạch từ trong tới ngoài

“Cháu à, đó là những gì xảy ra khi con đọc kinh Koran. Con có thể không hiểu hoặc nhớ tất cả mọi thứ, nhưng khi con đọc nó, con sẽ được thay đổi, bên trong lẫn bên ngoài.. Đó là việc của Chúa trong cuộc sống của chúng ta.”

Phạm Hoàng Hiệp dịch
Lớp 6 THCS Tân Lợi

.

A BASKET OF WATER

An old man lived on a farm in the mountains of eastern Kentucky with his young grandson. Each morning Grandpa was up early sitting at the kitchen table reading his Quran.

His grandson wanted to be just like him and tried to imitate him in every way he could. One day the grandson asked, “Baba, I try to read the Quran just like you but I don’t understand it, and what I do understand I forget as soon as I close the book. What good does reading the Quran do?”


The Grandfather quietly turned from putting coal in the stove and replied, “Take this coal basket down to the river and bring me back a basket of water.” The boy did as he was told, but all the water leaked out before he got back to the house. The grandfather laughed and said, “You’ll have to move a little faster next time,” and sent him back to the river with the basket to try again.

This time the boy ran faster, but again the basket was empty before he returned home. Out of breath, he told his grandfather that it was impossible to carry water in a basket, and he went to get a bucket instead.

The old man said, “I don’t want a bucket of water; I want a basket of water. You’re just not trying hard enough,” and he went out of the door to watch the boy try again.

At this point, the boy knew it was impossible, but he wanted to show his grandfather that even if he ran as fast as he could, the water would leak out before he got back to the house.

The boy again dipped the basket into river and ran hard, but when he reached his grandfather the basket was again empty.

Out of breath, he said, “See Baba, it’s useless!”

“So you think it is useless?” The old man said, “Look at the basket.”

The boy looked at the basket and for the first time realized that the basket was different. It had been transformed from a dirty old coal basket and was now clean, inside and out.

“Son, that’s what happens when you read the Quran. You might not understand or remember everything, but when you read it, you will be changed, inside and out. That is the work of God in our lives.”
.

Unknown Author

Chẳng có gì hiện hữu

Yamaoka Tesshu, lúc còn là một thiền sinh trẻ, thăm hết thiền sư này đến thiền sư nọ. Chàng đến thăm Dokuon ở chùa Shokoku.

Muốn chứng tỏ là mình đã ngộ, Yamaoka nói: “Tâm, Phật, và mọi sinh linh, rốt cuộc, đều không hiện hữu. Bản chất thật của mọi hiện tượng là không. Không có đạt đạo, không có ảo ảnh, không có thánh nhân, không có phàm phu. Không có bố thí, không có nhận bố thí.”

Dokuon, đang hồi hút thuốc yên lặng, chẳng nói gì. Đột nhiên Dokuon lấy ống píp tre đánh Yamaoka. Chàng thiền sinh tức giận.

“Nếu không có gì hiện hữu,” Dokuon thắc mắc, “vậy thì cơn giận này đến từ đâu?”
.

Bình:

• Chàng thiền sinh trẻ Yamaoka này về sau thành thầy của Thiên hoàng.

• Nói rằng mọi sự “có” tức là “chấp có”, nói rằng mọi sự “không có” là “chấp không”. Cả hai chấp đều là chấp.

Con đường Phật pháp là “trung đạo” (đường giữa)—có mà là không, không mà là có (sắc bất dị không, không bắc dị sắc—sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc).

Có đó mà mất đó. Đóa hoa hôm nay thấy đây, ngày mai có thể héo tàn rủ chết.

Con người của ta hôm qua đã chết rồi, và hôm nay đã là một người mới. Sinh tử sinh tử nối tiếp từng sát-na ngắn ngủi trong dòng sống. Trong bài Tái sinh trong nguồn sáng, chúng ta có nói: “Mỗi giây đồng hồ, từ 200 ngàn đến 3 triệu tế bào trong cơ thể chúng ta chết đi và được thay thế bằng tế bào mới. Sau một giây đồng hồ, ta đã là con người mới với ngần ấy tế bào mới. Đời ta là một chuỗi của vô lượng cuộc tái sinh như thế, cũng như một đường kẻ thẳng chỉ là một chuỗi các điểm chấm nằm sát nhau.”

Đó là chuyển dịch liên tục, thay đổi liên tục. Đó là “vô thường” (không cố định, không thường hằng).

• Cô Bình hôm qua rất là sừng sộ, dữ dằn. Nhưng có thể cô Bình đó đã chết rồi và cô Bình hôm nay là một cô Bình mới có thể đầy yêu thương và nhân ái. Cho nên đừng lấy hình ảnh cô Bình hôm qua để đối xử với cô Bình hôm nay.

Thái độ rộng mở như vậy gọi là “vô chấp”.

Vì thế gian “vô thường”, nên ta cần “vô chấp.”

• (Đối với mọi người phần bên trên là đủ, phần này chỉ thêm cho người rất vững về lý luận. Người chưa thật vững về lý luận thì không nên đọc, hoặc nếu đọc vì tò mò thì sau khi đọc xong hãy quên ngay đi).

Khi chúng ta nói “mọi sự đều là Không” (tạm thời dùng chữ “Không” viết hoa), thì Không đây không có nghĩ là không có, mà là bản tính thật của mọi sự, với cái tên là Không.

Thí dụ dễ hiểu nhất là nước và sóng. Đứng nhìn biển ta thấy sóng—sóng là hiện tượng vô thường, biến hiện từng giây đồng hồ, sóng sinh ra rồi sóng tan, để con sóng mới đến… Sóng thì phù du vô thường, nhưng nước thì luôn luôn ở đó. Sóng là “hiện tượng” vô thường (non-permanent phenomenon), nước là “bản tính” thường hằng (permanent essence).

Thí dụ cao hơn: Hãy tưởng tượng vũ trụ là một khoảng Không vĩ đại. Từ khoảng Không đó mọi thứ sinh ra – cây cỏ, trái đất, tinh tú, tôi, bạn…–và khi sự gì chết đi thì lại trở về với khoảng Không đó. Mọi sự có sống có chết là hiện tượng vô thường (non-permanent phenomenon). Khoảng Không chẳng bao giờ thay đổi đó là bản tính thường hằng (permanent essence).

Suy tưởng mức cao hơn: Tất cả mọi thứ trong vũ trụ mà ta có thể tưởng tượng được đều là phù du vô thường (non-permanent phenomenon) hay “tương đối” (relative), và đều được sinh ra từ một cái nền vĩ đại thường hằng (permanent essence) hay “tuyệt đối” (absolute)–cái thường hằng vĩ đại này là Không, là Thượng Đế, là Allah, là Tuyệt Đối.

Đó là liên hệ giữa tương đối (relative) và tuyệt đối (absolute) mà mọi triết thuyết đông tây đều cố gắng khai triển.

Mọi tương đối đều từ Tuyệt Đối mà ra và luôn luôn nằm trong Tuyệt Đối.

Nhà Phật nói rằng mọi sự là Không, từ Không mà đến, và lại trở về Không là như thế. Đây là chữ Không của Bát Nhã Tâm Kinh.

(Đổi chữ Không thành chữ Chúa hay Allah, thì thành câu nói Thiên chúa giáo hay Hồi giáo: Mọi sự từ Chúa/Allah mà đến, và lại trở về Chúa/Allah).

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Nothing Exists

Yamaoka Tesshu, as a young student of Zen, visited one master after another. He called upon Dokuon of Shokoku.

Desiring to show his attainment, he said: “The mind, Buddha, and sentient beings, after all, do not exist. The true nature of phenomena is emptiness. There is no realization, no delusion, no sage, no mediocrity. There is no giving and nothing to be received.”

Dokuon, who was smoking quietly, said nothing. Suddenly he whacked Yamaoka with his bamboo pipe. This made the youth quite angry.

“If nothing exists,” inquired Dokuon, “where did this anger come from?”

# 82

Ba điều căn bản cho ta và cho đất nước

Chào các bạn,

Đề tài này là ba điều căn bản cho chính bản thân mỗi người chúng ta, và cũng cho đất nước của ta—cho ta và cho đất nước ta cùng một lúc. Sở dĩ thế vì thường là điều gì tốt cho ta thì cũng tốt cho đất nước–đất nước chỉ là các cá nhân chúng ta tụ lại mà thành.

Nhưng tại sao chúng ta muốn nói đến “ta” và “đất nước” như cặp bài trùng? Thưa, vì đó là một điều tương đối hiển nhiên nhất để sống với cái “ta” không vị kỷ. Ta mà chỉ là “tôi” thì rất vị kỷ. Ta cho “cô hàng xóm” bên cạnh, cũng rất vị kỷ. Ta cho “gia đình” của ta, thì ít vị kỷ một tí hơn “tôi”, nhưng vẫn còn rất vị kỷ.

Ra khỏi gia đình mới bắt đầu hết vị kỷ–làng xóm, thành phố, đất nước. Cho các tập thể ngoài gia đình, “dân tộc” hay “đất nước” thường được sử dụng nhiều nhất để nói đến cái tâm phục vụ, cái tâm vị tha của con người. Nếu ta nói “nhân loại” thì càng tốt hơn cả “đất nước.” Nhưng “nhân loại” thường quá rộng và quá trửu tượng cho những người trung bình để họ có thể nắm được ‎ý tưởng, trong khi “đất nước” thì rất rõ ràng cho đa số người trên thế giới, nên ở đây ta dùng “đất nước.”

Cho cả ta và đất nước, có ba điều cản bản mỗi chúng ta cần thành thục:

1. Tính sáng tạo: Nếu không sáng tạo thì năm nay đang ngủ trong hốc đá như người ở động đá (caveman), một ngàn năm nữa con cháu vẫn ngủ trong hốc đá.

Tính sáng tạo đòi hỏi ta đặt câu hỏi thường xuyên: Tại sao không ngủ ngoài trời? Tại sao không làm cách nào để ngủ gần bờ biển thay vì trên núi? Tại sao ta không ngủ bất cứ nơi nào ta đang đứng ban đêm? Làm sao để thực hiện được các ‎ ý định đó? Tại sao cha ông ta làm điều này? Tại sao ta nên làm theo? Tại sao ta nên làm khác đi?…

Phân tích (hỏi) và phê phán là điều kiện tiên quyết để sáng tạo. Không hỏi và phê phán—chỉ biết gọi dạ bảo vâng ăn ngủ–thì không thể có sáng tạo.

2. Tính hành động: Hỏi 100 năm cũng chẳng được gì nếu ta không hành động. Hành động là… hành động. Nếu khu xóm ta nhiều rác quá, ngưng xả rác và bắt đầu nhặt rác, ít nhất là quãng ngay trước nhà mình.

Việc này không cần suy tính, chiến lược chiến thuật, vận động tuyên truyền. Cứ làm đi, ngay lúc này, làm được việc gì có thể làm lúc này. Hành động làm cho thế giới thay đổi. Hành động là sáng tạo ra điều mới, là biến tư tưởng sáng tạo thành hiện thực sáng tạo.

3. Kỹ năng làm việc nhóm (teamwork)

Đây là kỹ năng yếu nhất của người Việt. Nếu bỏ tất cả mọi sự và kể đến chỉ một điểm yếu của người Việt mà ta cho là đầu mối của tất cả mọi nghèo đói của dân ta, thì ta có thể nói đến “teamwork.”

Và vấn đề teamwork chúng ta đã có cơ hội nghiên cứu nó 35 năm liền trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đây là một môi trường lý tưởng để nghiên cứu vấn đề rất rộng lớn này. Ở trong nước thì xưa nay vẫn không được tự do ăn nói và tổ chức như ở nước ngoài, cho nên nghiên cứu về teamwork không được tốt.

Ở nước ngoài, người Việt chúng ta có tự do muốn nói gì thì nói, muốn viết gì thì viết, muốn thành lập hội hè bè nhóm gì đó thì tha hồ. Và hậu quả 35 năm liền cho thấy, chúng ta chưởi bới nhau, đì nhau, hạch sách nhau, sát phạt nhau… thường xuyên, hàng ngày, đủ mọi cách… dù cho mọi người than phiền chán nản, dù cho mọi cố gắng để “đoàn kết”, dù cho người “trí thức” hay “chân tu” nhúng tay vào … dù cho… dù cho… Nếu tụ 10 người Việt ngồi lại làm việc, rất có khả năng lớn là trong một thời gian rất ngắn, 10 người này sẽ chia thành ba nhóm thanh toán nhau… tìm cách đì nhau… Dù cho ai có giải thích khuyên lơn thế nào cũng vô ích. Câu chuyện “teamwork” của người Việt ngày nay vẫn còn nóng hổi với các spam mail mà các bạn nhận hàng ngày, và nếu các bạn đã từng bỏ vài giây liếc qua các spam mail là thấy ngay các đấu đá. Chẳng có gi đáng ngạc nhiên.

Điều quan trọng là, mọi người trong cuộc đều có l‎ý đo để tin rằng họ hành động kiểu trẻ con và bệnh hoạn như vậy là đúng—vì hắn gian đối, vì hắn tự kiêu, vì hắn không biết teamwork, vì hắn quá cực đoan, vì hắn quá bảo thủ, vì hắn chẳng hiểu gì, vì hắn… vì hắn…

Các “vì hắn…” này luôn luôn đúng, thế mới chết. Ít nhất là đúng với người nói ra từ “vì hắn.” Và nếu bạn nghĩ là người đó nói sai, thì bạn chẳng hiểu gì hết. Không thể giả thiết là mọi người nói sai hết như vậy.

Thông thường là, người nói “vì hắn…” có một vài căn bản nào đó trên thực tế để quyết đoán điều “vì hắn…” này. Và chính vì vậy mà người nói “vì hắn” thường nói đúng một phần nào đó, dù chưa chắc đúng 100%; ít ra là thế trong đầu họ. Và vì vậy, người đó thực sự có vấn đề “với hắn” và “với cả team.”

Và chính vì “vì hắn” thường có căn bản chủ quan “đúng” như thế, cho nên người Việt chúng ta có vấn đề teamwork rất lớn, không thể giải quyết được.

Nếu so sánh tác phong teamwork của người Việt và người Mỹ (là nhóm dân mình có kinh nghiệm quan sát rất kỹ), thì người Mỹ cũng có hàng triệu cái “vì hắn…” chẳng khác ta một tí nào. Điểm khác biệt duy nhất là ta dùng “vì hắn” để đập vỡ team, thì người Mỹ tự động gạt tất cả các “vì hắn…” ra khỏi đầu khi ngồi vào team.

Khi ngồi vào team người Mỹ có một thái độ duy nhất: Cả team phải làm việc với nhau thế nào để làm lủng lưới địch thủ. Tất cả mọi tư tưởng khác về đồng đội sẽ tự động bị gạt ra ngoài suy tưởng—tên này hay tranh công, tên này hay giữ bóng trong chân hắn, tên này hay ba hoa, tên này hay kiêu căng… Tất cả các định giá này vẫn có đó, nhưng không ai nghĩ đến nó khi làm việc cho team. Nếu cần thì nhắc một câu “Cậu đừng giữ bóng trong chân lâu quá” hay “cậu đừng ham tranh công nhiều thế, có hại”—nhưng dù là gì, thì tất cả đều không ảnh hưởng đến mục tiêu duy nhất trong các nhóm viên là “làm việc chung để thắng.”

Trong một nhóm chỉ có một tư tưởng là đúng: “Làm việc chung để thắng.” Tất cả các chuyện khác–vì hắn… vì mày… vì anh…–không bao giờ được cho phép ảnh hưởng gì cả trong một team Mỹ. Một người có thể mắng người kia việc gì đó—stupid, tham lam, v.v…–và những lời mắng như vậy, đù đúng hay sai, thường bị gạt ra ngoài đầu ngay lập tức. (Nếu ấm ức, thì thắng xong có thể ra ngoài uống cà phê hỏi lại cho rõ. Nhưng khi đang làm việc team thì chẳng ai thắc mắc. Nếu có người thắc mắc, họ sẽ nhận được những cái nhìn ngạc nhiên tròn xoe. “Sao lại nói chuyện đó lúc này?”).

Đây là văn hóa sống, văn hóa team, ta không thể nói “Tại sao họ không giải quyết xong các ‘vì hắn’ trước khi ngồi vào team?” Câu trả lời là “không thể”, vì ta luôn luôn có hàng chục “vì hắn” cho mỗi người—và “không cần”, vì ta đã gạt bỏ hết mọi “vì hắn” như là không quan trọng khi ta làm việc nhóm. Hắn có kiêu căng hay lười biếng hay thích tranh công cũng chẳng ai quan tâm, miễn hắn chuyền bóng tốt cho anh em là được.

Chúng ta đã may mắn có 35 năm kinh nghiệm và quan sát để biết được vấn đề teamwork của chúng ta nằm ở đâu, mạnh đến thế nào, và thế nào để giải quyết. Và chúng ta phải giải quyết nó, nếu ta muốn đất nước ta ra khỏi cái nghèo hèn truyền kiếp.

Và cách giải quyết rất giản dị: “Khi ngồi vào team chỉ có một qui luật là đúng: Làm việc chung để thắng.” Tất cả mọi “tại vì… vì hắn… vì anh…” đều phải đặt bên ngoài đầu, và đều phải xem là sai khi nó chúng còn ở trong đầu.

Qui luật giản dị. Nhưng việc quan sát teamwork của chúng ta trong 35 năm qua cho biết đây là vấn đề khó khăn hàng đầu cho người Việt, không gì khó hơn. Chỉ vì ta… không làm thế được.

Nhưng dù được hay không thì vấn đề vẫn rất giản dị: Tương lai của mỗi người chúng ta và của đất nước nằm trong tay teamwork này.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Làm việc nhóm: Bách chiến bách thắng, Teamwork: thăm lại.

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Nhìn lại “Giấc mơ Mỹ”

Giấc mơ Mỹ là gì?

The American Dream – Giấc mơ Mỹ là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng bởi James Truslow Adams trong cuốn sách The Epic of America của ông viết năm 1931.

Giấc mơ Mỹ là “giấc mơ về một mảnh đất trong đó cuộc sống nên tốt hơn và giàu có hơn và đầy đủ hơn với tất cả mọi người, với cơ hội cho mỗi người tùy theo khả năng hoặc thành tích. Nó là một giấc mơ khó khăn đối với tầng lớp thượng lưu châu Âu để hiểu được một cách tương đối, và cũng nhiều người trong chúng ta tự cảm thấy mệt mỏi và nghi ngờ nó. Nó là không chỉ là một giấc mơ về chiếc ô tô và mức lương cao, mà là một giấc mơ về trật tự xã hội trong đó mỗi người đàn ông và phụ nữ có thể giành được vị trí cao nhất tùy theo khả năng bẩm sinh của họ, và được công nhận bởi những người khác vì chính con người họ, mặc cho hoàn cảnh ngẫu nhiên về mặt sinh trưởng hay vị trí.

Cội rễ của tư tưởng này không đâu khác là từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, trong đó có câu:

…tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng họ được Tạo hóa ban cho những quyền bất di bất dịch, trong số đó là Sinh sống, Tự do và mưu cầu Hạnh phúc.

Tuy vậy theo thời gian khái niệm Giấc mơ Mỹ cũng đã có nhiều biến đổi cùng với lịch sử của nước Mỹ. Trong giai đoạn công nghiệp hóa thế kỉ 19 và 20, từ những ý nghĩa lớn lao ban đầu, Giấc mơ Mỹ đã dần dần biến đổi thành một thứ triết lý “get rich quick”, làm giàu nhanh . Với đa số người dân Mỹ, Giấc mơ Mỹ một sự theo đuổi giàu có về vật chất: có nhà, có xe và có việc. Người Mỹ ngày càng bị cuốn vào vòng xoáy: làm việc nhiều giờ hơn để có những chiếc ô-tô lớn hơn, những ngôi nhà đẹp hơn, mua sắm nhiều hơn. Có điều là họ ngày có ít thời gian hơn để hưởng thụ chính sự thịnh vượng mà mình tạo ra.

Một Giấc mơ Mỹ ngày càng xa vời

Nếu hiểu Giấc mơ Mỹ theo nghĩa hẹp là sự theo đuổi vật chất như trên thì các con số thống kê gần đây cho thấy Giấc mơ Mỹ đang ngày càng kém lung linh và xa vời hơn trong mắt người dân Mỹ.

Một nghiên cứu cho thấy mức độ bất bình đẳng giữa mức lương của CEO và công nhân Mỹ đang ngày càng tăng theo cấp số nhân.

Mức lương của một CEO ở Mỹ trong năm 1980 gấp 40 lần mức lương trung bình của một nhân viên cùng công ty, trong khi ngày nay con số đó là 500 lần.

Trong suốt 20 năm từ năm 1979 đến năm 2000, mức lương trung bình của một công nhân Mỹ chỉ tăng có 11.5 cents một giờ mỗi năm (tính theo giá $ năm 2001). Số nhân công không có bằng cấp lên tới 100 triệu, chiếm 72.1% lực lượng lao động và mức lương trung bình của những công nhân này vào cuối năm 2000 còn thấp hơn cả so với năm 1979.

Trái lại, mức lương và thưởng của các CEO Mỹ đang không ngừng tăng nhanh chóng. Từ năm 1989 đến năm 2000, lương tăng 79%. Trong khi nếu tính cả thưởng bao gồm các khoản như thưởng quản lý, bán cổ phiếu, thưởng cổ phiếu mới, thưởng đặc biệt vv..thì con số này là 342%. Tính theo giá trị thực thì mức lương thưởng trả cho một CEO Mỹ trung bình là 2.4 triệu $ năm 1989 và 10.7 triệu $ năm 2000.

Một vấn đề nữa là lương cơ bản giảm, tức là khoảng 10 triệu người dân Mỹ đang phải chịu mức lương này và phần lớn trong số đó là những bà mẹ nuôi con một mình hoặc đàn ông là trụ cột gia đình. Năm 1979 mức lương cơ bản là 6.55$, và năm 2003 chỉ còn 4.94$ một giờ, giảm 21.4%.

Lương cơ bản giảm là nguyên nhân khiến cho nhiều người phải làm hai việc hay làm nhiều giờ hơn để đảm bảo nuôi sống gia đình. Trong khi số giờ làm việc ở các nước châu Âu như Đức giảm từ 1764 giờ xuống 1562 giờ từ năm 1979 đến năm 1998, thì ở Mỹ con số này tăng từ 1905 lên 1966. Nhiều gia đình người chồng phải đi làm hai việc còn vợ cũng phải đi làm thêm bán thời gian, thậm chí hai việc khác nhau, để có đủ tiền trang trải chi phí.

Một cuộc trưng cầu dân ý của đại học Xavier đã cho thấy rằng giấc mơ Mỹ dường như đang ngày càng vượt quá tầm tay của đại đa số dân chúng Mỹ, và họ ngày càng mất niềm tin đạt được nó.

– 68% cho rằng thế hệ con cái họ sẽ khó khăn hơn để đạt được giấc mơ Mỹ. Trừ những người dân Mỹ da đen thì lại cho rằng thế hệ họ và con cháu họ thấy dễ dàng hơn.
– 58% nghĩ rằng giấc mơ Mỹ đang trên đà đi xuống
– Những người hiểu giấc mơ Mỹ theo nghĩa là sự đảm bảo về tài chính có xu hướng tiêu cực hơn là những người nhìn nhận giấc mơ Mỹ là cơ hội, tự do và gia đình.

Nhiều người Mỹ đã nhận ra mặt trái của sự theo đuổi một Giấc mơ Mỹ về vật chất. Họ mệt mỏi vì làm việc quá nhiều, rồi mua sắm quá nhiều, rồi lại tiếp tục phải đi làm nhiều hơn để trả các hóa đơn đang ngày càng chồng chất. Rõ ràng là xét về mặt bảo đảm về vật chất, nhiều người dân Mỹ đã không có được giấc mơ của mình mà thậm chí còn là nạn nhân của chính sự theo đuổi Giấc mơ đó. Khi đặt những mục tiêu vật chất làm trọng, họ cũng đã không có được hạnh phúc hay tự do như những ý nghĩa cao đẹp nhất mà Adams đã khởi xướng.

Đồng cảm với ông, Marianne Williamson đã nhấn mạnh lại điều cốt lõi nhất của Giấc mơ Mỹ:

Giấc mơ Mỹ, khi được hiểu đúng nhất, không phải là một thứ vật chất. Hơn thế, đó là một thực tế rằng chúng ta có quyền để mơ mọi thứ. Đó là quyền để kì vọng rằng những tài năng và khả năng và sự tận tụy của chúng ta – chứ không phải là thành kiến của người khác – sẽ quyết định bản chất cuộc sống mà chúng ta sống.

Nhìn lại Giấc mơ Mỹ để thấy rằng những giá trị nhân bản sẽ luôn trường tồn với thời gian. Ngược lại sự theo đuổi vật chất không phải là con đường đi tới hạnh phúc như nhiều người trong chúng ta vẫn tưởng. Một đất nước mạnh và giàu có như nước Mỹ không có nghĩa là người dân nước đó hạnh phúc và xã hội đó phát triển bền vững.

Một giấc mơ quốc gia – Giấc mơ Việt Nam

Không chỉ có Mỹ mới có một Giấc mơ quốc gia, một giấc mơ của đại đa số dân chúng, mà còn có Giấc mơ Châu Âu, Giấc mơ Úc, Giấc mơ Canada… Mỗi một dân tộc, dựa trên hoàn cảnh lịch sử và văn hóa của mình, đều có thể có một giấc mơ chung.

Còn bạn, bạn nghĩ thế nào về một Giấc mơ Việt Nam?

Liệu rằng khi chúng ta cùng chia sẻ những suy nghĩ về giấc mơ của cá nhân mình, chúng ta có thể có được một giấc mơ chung cho toàn dân tộc?

Hoàng Khánh Hòa

Tham khảo:
http://memory.loc.gov/learn/lessons/97/dream/thedream.html
http://www.americansc.org.uk/Online/American_Dream.htm
http://www.kyklosproductions.com/articles/wages.html
http://swampland.blogs.time.com/2010/03/15/the-american-dream-not-doing-so-well/

Ngủ đi

Gasan đang ngồi bên giường thầy của mình, Tekisui, ba ngày trước khi thầy qua đời. Tekisui đã chọn Gasan làm truyền nhân.

Một ngôi chùa đã bị cháy gần đây và Gasan đang bận rộn xây chùa lại. Tekisui hỏi Gasan: “Khi xây xong chùa rồi con sẽ làm gì?”

“Khi thầy khỏe lại, tụi con muốn thầy giảng ở đó,” Gasan nói.

“Nếu như thầy không sống đến lúc đó thì sao?”

“Thì con sẽ tìm một người khác,” Gasan trả lời.

“Nếu con không tìm được người khác thì sao?” Tekisui tiếp tục.

Gasan trả lời lớn tiếng: “Đừng hỏi điên vậy nữa. Thầy ngủ đi.”
.

Bình:

• Các câu hỏi này rất ngớ ngẩn. Có lẽ là Tekisui đang trong trạng trái nửa mê nửa tỉnh, sắp chết.

Gasan chỉ muốn Tekisui tích cực (nghĩ đến lúc mình hết bệnh) hay là nằm nghỉ.

• Bên ngoài các lý‎ lẽ thường tình này, Thiền là sống ở đây lúc này. Thiền sư chẳng quan tâm đến các chuyện chưa tới “nếu này… nếu nọ…” Các câu bắt đầu bằng chữ “nếu” luôn luôn làm cho người ta sống với những cái “nếu” chưa đến, và không bao giờ sống thực.

Người mà cứ lo “nếu” hoài thì mê sảng như người bệnh sắp chết.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Just Go to Sleep

Gasan was sitting at the bedside of Tekisui three days before his teacher’s passing. Tekisui had already chosen him as his successor.

A temple recently had burned and Gasan was busy rebuilding the structure. Tekisui asked him: “What are you going to do when you get the temple rebuilt?”

“When your sickness is over we want you to speak there,” said Gasan.

“Suppose I do not live until then?”

“Then we will get someone else,” replied Gasan.

“Suppose you cannot find anyone?” continued Tekisui.

Gasan answered loudly: “Don’t ask such foolish questions. Just go to sleep.”

# 81

Phép lạ thật

Khi Bankei đang giảng thuyết tại chùa Ryumon, một sư Chân Tông, tin rằng có thể được cứu độ nhờ niệm phật Adiđà liên tục, ganh tị với Bankei vì đông người nghe Bankei và muốn cãi nhau với thiền sư.

Bankei đang giảng bài nửa chừng thì vị sư này xuất hiện, và làm rộn đến nỗi Bankei phải ngưng giảng và hỏi điều gì gây ồn ào.

“Tổ sư của tông chúng tôi,” vị sư nói, “có những quyền lực mầu nhiệm đến nỗi tổ cầm cây cọ đứng bên này sông, người phụ tá cầm tờ giấy đứng bên kia sông, và tổ viết thánh hiệu Adiđà trên tờ giấy, xuyên qua không gian. Ông có làm được phép lạ như thế không?

Bankei trả lời nhẹ nhàng: “Có lẽ con chồn của ông có thể làm xảo thuật đó, nhưng đó không phải cung cách của Thiền. Phép lạ của tôi là khi tôi đói tôi ăn, và khi tôi khát tôi uống.”
.

Bình:

• Shinshu là jodo shinshu, tịnh độ chân tông.

• Người ta hay nói đến những phép thần thông mà quên mất đời sống thật. Thiền hay ngộ là sống bình thường, giản dị, với một tâm rỗng lặng. Trần Nhân Tông, thiền tổ thiền Trúc Lâm viết bài Cư trần lạc đạo:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu báo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

    Trần Nhân Tông
    (Trần Khâm 1258-1308)

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Đói thì ăn no mệt ngủ liền
Trong nhà có của, đừng tìm nữa
Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền

    TĐH dịch

Các phép thần thông chẳng ăn nhập gì đến Thiền cả.

• Chúng ta tu tập đạo pháp để làm mọi việc hàng ngày một cách bình thường. Người không tu tập thì làm mọi việc hàng ngày một cách căng thằng và phức tạp.

Chúng ta tu tập để loại bỏ tất cả mọi thói quen và gánh nặng phức tạp, để trở thành “như trẻ em.” Chúng ta không tu tập để có thêm thần thông phức tạp.

• Rất tiếc là cho đến ngày nay các món bùa phép mê tín dị đoan cũng vẫn còn rất thịnh hành trong hàng phật tử ít học. Phật giáo thực sự là đạo giáo của trí tuệ khai mở.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

The Real Miracle

When Bankei was preaching at Ryumon temple, a Shinshu priest, who believed in salvation through repetition of the name of the Buddha of Love, was jealous of his large audience and wanted to debate with him.

Bankei was in the midst of a talk when the priest appeared, but the fellow made such a disturbance that Bankei stopped his discourse and asked about the noise.

“The founder of our sect,” boasted the priest, “had such miraculous powers that he held a brush in his hand on one bank of the river, his attendant held up a paper on the other bank, and the teacher wrote the holy name of Amida through the air. Can you do such a wonderful thing?”

Bankei replied lightly: “Perhaps your fox can perform that trick, but that is not the manner of Zen. My miracle is that when I feel hungry I eat, and when I feel thirsty I drink.”

# 80

Đứng sau lời nói

Chào các bạn,

Khi viết bài chúng ta thường có khuynh hướng mang các câu nói của các danh nhân vào bài mình viết—Einstein nói, Edison nói, Không tử nói… Nếu câu trích dẫn có liên hệ đến một điểm ta đang trình bày, hy vọng là câu trích dẫn đó sẽ làm mạnh bài viết của ta hơn.

Cùng một câu nói, nếu sau đó có tên Eisntein, thì câu nói đó sẽ được chú ‎ ý và tin tưởng hơn là chẳng có tên ai cả, hay là tên của John Doe vô danh nào đó. Tên và uy tín của một người đứng sau lời nói cho lời nói đó thêm sức mạnh và tính thuyết phục.

Vậy bạn có bao giờ nghĩ là tên bạn nên đứng sau tất cả mọi câu nói của bạn không?

Lỗi lầm của rất nhiều người ngày nay là chẳng để tên mình đứng sau lời mình nói, nhưng mà lại dùng một nick chẳng ai biết mình là ai.

Nếu bạn tin người bịt mặt đứng nói chuyện với bạn trong phòng, thì đầu óc bạn chắc là chẳng được thông suốt mấy. Người đứng đắn chẳng ai bịt mặt.

Nick trên Internet cũng chỉ là một khăn bịt mặt không hơn không kém. Nick có cái lợi là cho phép những người thiếu tự tin, sợ nói trước đám đông, có được can đảm nói chuyện. Nhưng nếu chỉ có can đảm sau nick, thì thực ra điều đó có giúp ta thêm can đảm ngoài đời thực không? Hay chỉ là sống một cách ảo tưởng trong thế giới ảo, và tạo nên bệnh đa nhân cách (multiple personality).

Hơn thế nữa, thông thường ta thấy đa số người đứng sau các nick như là dùng mặt nạ để có những tác phong rất thiếu văn hóa—thô lỗ bất lịch sự khi tranh luận, tác phong vừa thiếu lễ độ vừa thiếu thông minh, nói chuyện không cần lý luận hợp lý hay tôn trọng người đối diện… và chuyển tiếp rác đi khắp nơi mà không suy nghĩ là mình đang làm bẩn thế giới. Các tác phong này ít xảy ra khi người ta ngồi uống cà phê và tranh luận quanh một chiếc bàn, nhưng nó là chuyện hàng ngày trên Internet.

Thực ra, nếu chúng ta biết sử dụng Internet như là một “thế giới thật” thì chúng ta sẽ gặt hái rất nhiều lợi ích từ Internet.

Nếu ta dùng tên thật, và nói chuyện tử tế, thông minh, lý luận tốt, tác phong tốt… thì Intertnet là cơ hội để ta thực tập nói chuyện với đám đông một cách hiệu lực, huấn luyện ‎ lý luận vững chắc—vì viết một câu là có thể bị phản biện từ mấy mươi người, thêm nhiều bạn bè khắp nơi, đồng thời tạo ra tiếng tốt cho mình khắp thế giới, nơi nào có người đọc mình. Cách đây khoảng 15 năm, cơ hội như vậy không thể có.

Cho nên chúng ta cần thông thái để dùng Internet cách có lợi nhất cho mình và cho xã hội. Internet cũng như một chiếc loa làng— ta có thể dùng nó để la to “Tôi vừa thiếu văn hóa vừa dốt”, hay ta có thể dùng nó để hát hò kể chuyện cho dân làng yêu ta. Đó là sự lựa chọn của chính ta. Chiếc loa vô tội vạ.

Rất tiếc là nhiều bạn sinh viên trẻ ngày nay có tác phong vừa dốt vừa thiếu văn hóa trên Internet, vì sự chiến thắng của “văn hóa nick” trong bao nhiêu năm nay. Nếu chúng ta không cảnh tỉnh mọi người về tình trạnh này và khuyến khích mọi người dùng Intenet như là “thế giới thật”, thì chúng ta sẽ tạo nên một lớp “trí thức” mới vừa dốt vừa thô lỗ, chỉ thêm hại cho đất nước. Thà là có các bác nông dân ít đến trường.

Đó là chưa kể những nguồn thông tin dối trá và bẩn thỉu thả rác trên Internet thường xuyên. Đa số các nguồn thông tin này do các nicks vô danh đưa đi, các tổ chức buôn bán tình dục, các tổ chức chuyên lừa bịp, hoặc các tổ chức “chính chị” thiếu đạo đức. Rác rến của họ được quần chúng tiếp tay chuyển tiếp và nhân rộng lên nghìn lần. Nếu nhìn lượng rác được chuyển đi hàng ngày, chúng ta có căn cứ để hỏi rằng hình như Internet cho phép quần chúng thấy nhiều hơn và hiểu ít hơn?

Nếu các bạn còn dùng từ “thế giới ảo” để nói về Internet thì các bạn còn đi lạc rất xa. Internet rất thật. Và cái lợi hay cái hại từ Internet cho mỗi cá nhân cũng như xã hội đều rất thật. Chúng ta hãy dạy bảo nhau cách sử dụng Internet để làm đẹp cho chính mình và cho xã hội.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Cầu nguyện buổi tối

Chúa ơi,
Cảm ơn Người vì ngày hôm nay.
Cảm ơn Người đã đem đến sự an toàn cho con và những người con yêu.
Khi con ngủ, mong cho những giờ này đem đến cho con an bình.
Mong chúng chữa lành trí óc và cơ thể con.
Khi con ngủ, thưa Chúa, hãy ban phước thế giới.
Khi có nỗi đau, khi có những người không có chỗ để ngủ, người chịu đựng và người chết, cầu cho những thiên thần của Người đến với họ và dẫn lối trái tim họ.

Thưa Chúa,
Hãy để ánh sáng rọi vào.
Hãy sử dụng những giờ ngủ của con.
Hãy chuẩn bị cho con, trong những giờ nghỉ ngơi này, cho sự phục vụ Chúa lớn hơn.
Mong cho ánh sáng xung quanh con, ngày mai tỏa sáng quanh con.
Làm mềm trái tim con.
Cảm ơn Chúa.
Amen.

Hoàng Khánh Hòa dịch
.

Evening Prayers

Dear God,
Thank You for this day.
Thank You for my safety and the safety of my loved ones.
As I enter sleep, may these hours give me peace.
May they bring healing to my mind and body.
While I sleep, dear Lord, please bless the world.
Where there is pain, where there are people who have no place to sleep, who suffer and who die, may Your angels come unto them and minister to their hearts.

Dear Lord,
Please let the light stream in.
Please use my hours of sleep.
Please prepare me, during these hours of rest, for greater service to You.
May the light that surrounds me, tomorrow shine through me.
Soften my heart.
Thank You, Lord.
Amen

Marrianne Williamson

Lư hương

Một phụ nữ ở Nagasaki tên Kame là một trong số rất ít nghệ nhân làm lư hương ở Nhật. Mỗi lư hương là một tác phẩm nghệ thuật, chỉ đặt trong phòng trà, trước bàn thờ gia đình.

Trước Kame, bố của chị đã là một nghệ nhân như vậy, và Kame rất mê uống rượu. Chị cũng hút thuốc và giao tiếp với đàn ông thường xuyên. Khi nào có được ít tiền, chị làm tiệc mời nghệ sĩ, thi sĩ, thợ mộc, lao động, đàn ông đủ mọi ngành nghề chính cũng như nghề tay trái. Nhờ giao thiệp với đàn ông, Kame triển khai các thiết kế nghệ thuật của chị.

Kame làm việc rất chậm, nhưng khi một tác phẩm đã xong nó luôn luôn là một đại tác phẩm. Các lư hương của chị được qúy trọng trong các gia đình mà phụ nữ không bao giờ uống rượu, hút thuốc, hay giap tiếp tự do với đàn ông.

Có một lần thị trưởng thành phố Nagasaki nhờ chị làm một lư hương cho ông. Chị trì hoãn cả nửa năm. Rồi thị trưởng được thăng chức vào một chức vụ tại một thành phố khác, đến thăm chị. Ông hối chị khởi sự làm lư hương cho ông.

Cuối cùng cũng tìm ra hứng khởi, Kame làm lư hương. Sau khi hoàn tất, chị đặt nó trên bàn. Ngắm nghía thật lâu và cẩn thận. Chị hút thuốc và uống rượu trước nó như là trước mặt bạn bè. Chị quan sát nó cả ngày.

Cuối cùng, cầm cái búa, chị đập nó thành từng mảnh vụn. Chị thấy nó không được hoàn toàn như tâm chị đòi hỏi.
.

Bình:

• Kame sống theo cách mà người đời cho là bậy bạ, là xấu, nhất là vào thời xưa.

Kame tạo ra cái mà người đời tôn trọng nhất trong nhà—đặt trước bàn thờ tổ tiên để đốt hương.

Vì sao?

Vì cách sống của Kame cho Kame ‎ý tưởng sáng tạo (từ các người bạn nam), và vì Kame đặt hết tim óc vào việc sáng tạo. Chị tuân theo kỹ luật sáng tạo—có hứng khởi mới làm, không hứng không làm.

Dù là thị trưởng đặt hàng thì hứng không có là không có, và không có hứng thì không làm, kể cả làm cho thị trưởng.

Làm xong, không ưng ‎ý là đập bỏ, dù thị trưởng đã đợi hơn 6 tháng rồi.

• Sản phẩm của tim óc đến từ khả năng của tim óc lấy chất liệu từ chính cuộc sống của mình—dù đó là cuộc sống người khác cho là xấu–và biến chất liệu đó thành sản phẩm với kỹ luật cao nhất của sáng tạo.

• Các thiền sư Ikkyu hay Tosui, sống kiểu “phóng túng”–lang thang ngoài đường hơn là tu trong chùa–hay Tanzan uống rượu, lấy chật liệu từ cuộc sống đó, dùng kỹ luật của tim óc để tạo ra những tư tưởng Phật pháp–như các bài thiền thi nổi tiếng của Ikkyu hay câu chuyện bế người đẹp qua vũng bùn của Tanzan. Những giáo pháp đó cũng được người đời qúy trọng.

• Không thể dùng cách sống bên ngoài để định giá tâm hay sản phẩm của tâm được.

• Khi tâm đã vững như các thiền sư đã giác ngộ, thì bên ngoài thế nào cũng chẳng nghĩa lý gì đến tâm.

Nhưng, nếu tâm chưa ngộ, chưa vững, mà phóng túng bên ngoài thì đó chẳng phải là nuôi khỉ hoang mà chẳng có chuồng sao?

Cho nên bên ngoài thường quan trọng cho người chưa ngộ, và không quan trọng cho người đã ngộ.

Người chưa ngộ phải nắm bên ngoài mà tu tập, nhưng nếu không biết khi nào phải bỏ bên ngoài, tức là cứ “chấp” vào bên ngoài, thì cũng chẳng bao giờ giải phóng tâm bên trong được.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Incense Burner

A woman of Nagasaki named Kame was one of the few makers of incense burners in Japan. Such a burner is a work of art to be used only in a tearoom, before a family shrine.

Kame, whose father before her had been such an artist, was fond of drinking. She also smoked and associated with men most of the time. Whenever she made a little money she gave a feast inviting artists, poets, carpenters, workers, men of many vocations and avocations. In their association she evolved her designs.

Kame was exceedingly slow in creating, but when her work was finished it was always a masterpiece. Her burners were treasured in homes whose womanfolk never drank, smoked, or associated freely with men.

The mayor of Nagasaki once requested Kame to design an incense burner for him. She delayed doing so until almost half a year had passed. At that time the mayor, who had been promoted to office in a distant city, visited her. He urged Kame to begin work on his burner.

At last receiving the inspiration, Kame made the incense burner. After it was completed she placed it upon a table. She looked at it long and carefully. She smoked and drank before it as if it were her own company. All day she observed it.

At last, picking up a hammer, Kame smashed it to bits. She saw it was not the perfect creation her mind demanded.

# 79

Tình yêu là điều lớn nhất

Chào các bạn,

Corinthians 1 chương 13 nói rằng:

Love is patient, love is kind. It does not envy, it does not boast, it is not proud. It is not rude, it is not self-seeking, it is not easily angered, it keeps no record of wrongs. Love does not delight in evil but rejoices with the truth. 7It always protects, always trusts, always hopes, always perseveres.
Love never fails.

Tình yêu là kiên nhẫn, tình yêu là dịu dàng.
Tình yêu không ghen ti, không khoe khoang, không kiêu hãnh.
Tình yêu không khiếm nhã, không vị kỷ, không nhạy giận, không chấp trước.
Tình yêu không vui sướng trong tội lỗi, nhưng hân hoan với sự thật.
Tình yêu luôn luôn bảo vệ, luôn luôn tin tưởng, luôn luôn hy vọng, luôn luôn kiên trì.
Tình yêu không bao giờ thất bại.

Trần Đình Hoành dịch

And now these three remain: faith, hope and love. But the greatest of these is love

Và có ba điều còn lại: niềm tin, hi vọng và tình yêu. Nhưng điều lớn nhất trong số này là tình yêu.

Tình yêu là gì nhỉ?

Tình yêu không hạn hẹp trong tình yêu đôi lứa hay tình yêu với những điều quen thuộc với mình. Tình yêu là tình yêu với cuộc sống, với vạn vật. Ví như hôm nay ai đó làm bạn phiền lòng, bạn cũng chẳng vì thế mà ghét họ, vì nếu như bạn yêu con người, bạn sẽ tha thứ cho những lỗi lầm của họ. Và nếu như bạn gặp điều không may, bạn cũng chẳng vì thế mà khó chịu với ai đó, hay đâm ra ghét đám cỏ cây vô tội.

Trong tình yêu, bạn sẽ luôn cảm thấy mình khiêm nhường và dịu dàng. Bạn không thể ghét bỏ, không ghen tị, không phiền lòng, luôn sống hết mình với ngày hôm nay, và tin rằng ngày mai sẽ là một ngày mới.

Một ngày mới tức là khi thức dậy bạn sẽ nhìn mọi thứ bằng ánh mắt trong trẻo và ngây thơ như đứa trẻ mới sinh. Những phiền muộn của ngày hôm qua đã không còn và bạn lại thấy mình tràn đầy năng lượng để cống hiến.

Vì sao tình yêu là điều lớn nhất?

Ví dụ khi lựa chọn một công việc, bạn có thể giải thích cho quyết định của mình rằng “Tôi muốn làm công việc này vì tôi thấy xét về mặt thăng tiến nghề nghiệp, lương bổng, vị trí trong xã hội thì đây là một cơ hội tốt. Tôi lại có năng lực (tiếng Anh giỏi, có kinh nghiệm) nên tôi rất tự tin vào khả năng của mình và hi vọng là tôi sẽ được nhận công việc này”. Thế rồi khi bắt tay vào làm, bạn lại thấy có bao nhiêu là vấn đề: sếp thì khó tính, đồng nghiệp không nhiệt tình, đi công tác nhiều, lương không tăng là mấy…Rất rất nhiều lí do nảy sinh rồi đến một ngày, bạn tự hỏi tại sao mình lại chọn công việc nhàm chán này? Mình đang tiêu phí thời gian và sức lực của mình vì cái gì? Bạn thấy mình vô nghĩa.

Và bạn chợt nhớ cái cảm giác hồi đi học bạn rất thích môn Anh văn. Bạn học trong lớp thì toàn kêu học ngoại ngữ khó quá và rất lười làm bài. Con bạn thì chỉ chờ được làm thêm nhiều bài tập để học thêm các từ mới và mong ngóng mỗi buổi đến lớp được gặp cô giáo. Bạn như bị hút hồn mỗi lần cô cho nghe các bài phát biểu của người bản xứ. Bạn đã thấy lúc nào cũng hứng khởi và đạt điểm cao nhất lớp rất dễ dàng. Tại sao bạn không có cảm giác đó trong công việc hiện tại?

Bạn nhận ra rằng mình thực sự không hề yêu thích công việc này chút nào. Vì không yêu, bạn rất dễ cảm thấy thực tế không như mình mong đợi và đòi hỏi nhiều hơn. Bạn luôn cảm thấy không hài lòng, rồi một ngày nào đó có thể là bạn quyết định xin nghỉ việc. Bạn sẽ có trăm ngàn lí do cho quyết định đó bạn quên mất rằng tất cả chỉ cần gói trong một câu ngắn gọn, “Tôi không yêu công việc này.”

Tương tự như vậy, nếu bạn yêu thích làm kinh doanh và yêu công việc của mình, bạn có thể trắng tay vì nó, nhưng đó không là thất bại. Vì bạn yêu nó và bạn hạnh phúc đã được sống hết lòng với nó. Vì yêu công việc đó, bạn lại tìm thấy động lực để tiếp tục gây dựng lại doanh nghiệp của mình. Tình yêu sẽ luôn dẫn chúng ta đến cái đích cuối cùng mà chúng ta mong muốn. Bạn có tin vậy không?

Chúng ta vẫn thường than phiền về ngày hôm nay, buồn nản với hiện tại và chỉ cảm thấy được vỗ về hơn mỗi khi tưởng tượng ra một tương lai tươi sáng đang chờ phía trước. Điều đó tốt, nhưng sẽ không thể giúp bạn điều gì nếu như quyết định của bạn cho ngày mai mà không có tình yêu. Không có nó, ngày mai của bạn sẽ lại tiếp tục là một ngày than phiền và bạn tiếp tục sống trong sự mong chờ một ngày mai tươi sáng.

Niềm tin và hi vọng có thể giúp bạn đạt được mục tiêu tương lai, nhưng tình yêu mới là cái giúp bạn sống thực sự ngày hôm nay và giây phút này.

Chúc các bạn một ngày của tình yêu 🙂

Hoàng Khánh Hòa

Xem thêm:

Tình yêu

Tình yêu: một diễn giải của Corinthians 1, chương 13

Thịnh vượng thật

Một người giàu nhờ Sengai viết vài chữ cho thịnh vượng của gia đình ông ta, để gia đình có thể xem đó như báu vật truyền từ đời này sang đời kia.

Sengai lấy một tờ giấy lớn là viết: “Cha chết, con chết, cháu chết.”

Ông nhà giàu nổi giận. “Tôi hỏi thầy viết vài chữ cho hạnh phúc gia đình tôi! Tại sao thầy làm chuyện giễu thế này?”

“Đâu có chuyện giễu,” Sengai giải thích. “Nếu trước khi anh chết mà con anh chết, anh sẽ rất đau khổ. Nếu cháu anh chết trước khi con anh chết, cả anh và con anh sẽ rất đau lòng. Nếu gia đình anh, từ đời này sang đời kia, chết theo thứ tự tôi viết, đó sẽ là dòng tự nhiên của cuộc đời. Tôi gọi đó là thịnh vượng thật.”
.

Bình:

• Người giàu nhờ viết vài chữ về thịnh vượng: Đây cũng chính là câu hỏi Cái gì quí giá nhất thế gian mà một thiền sinh đã hỏi thiền sư Sozan. Sozan trả lời “Đầu con mèo chết”, và trong bài này thì cũng trả lời câu hỏi về thịnh vượng bằng ba chữ chết.

Cuộc đời phù du, mộng ảo bọt bóng, chẳng có gì là giá trị, chẳng có gì là thịnh vượng, mọi sự, ngay chính cả ta, có đó rồi chết đó.

• Tất cả mọi sự ở đời đều không chắc, chẳng có thịnh vượng nào bền vững. Chỉ có cái chết là ta nắm chắc trong tay.

• Chết thì không vui. Cho nên, những cái chết càng ít buồn thì đó chính là càng hạnh phúc.

Chính vì vậy mà các thiền sư thường sắp xếp phút cuối của đời mình nhẹ nhàng như một chuyến về nhà. Các bài thơ trước khi chết của các thiền sư thường xem rất nhẹ đời sống, như Bài thơ cuối cùng của Hoshin.

Tôi đến từ sự sáng
Và về lại sự sáng
Gì đây?
Kaa!

• Dù vậy, xem ra các thiền sư hay bị ám ảnh bởi cái chết, vì hay lấy “chết” ra trả lời cho nhiều câu hỏi khác nhau?

Từ “ám ảnh” thì hơi nhiều cảm tính, nên không được khách quan lắm. Nhưng, sự thật là đối với mỗi người chúng ta, và trong tất cả mọi truyền thống tâm linh của con người, sự chết là một sự kiện quan trọng của đời sống. Sinh là khởi đầu, tử là điểm cuối, của cuộc đời của ta ở thế giới này. Ta không kiểm soát được sự sinh của ta, nhưng ta có thể dành cả đời để chuẩn bị cho sự tử, dù là ta có nghĩ đến “chuẩn bị” hay không.

Đời là một cuộc thi. “Chết” là tiếng kẻng báo giờ thi đã hết. Sau đó là đỗ hay rớt, lên lớp hay xuống lớp. Cho nên, dù là không sợ chết, sự chết vẫn quan trọng với mỗi người chúng ta—điểm cuối cùng của một cuộc chạy đường dài.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Real Prosperity

A rich man asked Sengai to write something for the continued prosperity of his family so that it might be treasured from generation to generation.

Sengai obtained a large sheet of paper and wrote: “Father dies, son dies, grandson dies.”

The rich man became angry. “I asked you to write something for the happiness of my family! Why do you make such a joke of this?”

“No joke is intended,” explained Sengai. “If before you yourself die your son should die, this would grieve you greatly. If your grandson should pass away before your son, both of you would be broken-hearted. If your family, generation after generation, passes away in the order I have named, it will be the natural course of life. I call this real prosperity.”

# 78

Bốn chuyện ngắn khuyết danh

1/ Một Lời Cầu Nguyện


.

Tôi đang đi dạo buổi sáng như thông lệ thì một xe tải rác đậu ngay bên cạnh tôi. Tôi tưởng bác tài muốn hỏi đường. Thay vì thế, bác chỉ cho tôi bức hình của một cậu bé lên 5 thật đáng yêu

“ Đây là cháu ngoại của tôi tên Jeremiah.” Ông ấy nói, “ Cháu nó đang thở bằng máy tại bệnh viện Phoenix.”
Nghĩ rằng ông ta sẽ xin tiền quyên góp cho chi phí bệnh viện, tôi thọc tạy vào túi tìm ví. Nhưng ông ta muốn gì chứ không phải tiền

Ông nói: : Tôi đang xin mọi người nếu có thể cho cháu một lời cầu nguyện. Xin ông làm ơn cầu nguyện cho cháu nhé.

Tôi đã làm như thế. Và những khó khăn của tôi dường như ít đi.

1/ Say a Prayer

.

I was taking my usual morning walk when a garbage truck pulled up beside me. I thought the driver was going to ask for directions. Instead, he showed me a picture of a cute little five-year-old boy.
“This is my grandson, Jeremiah,” he said. “He’s on a life-support system at a Phoenix hospital.”
Thinking he would next ask for a contribution to his hospital bills, I reached for my wallet. But he wanted something more than money.
He said, “I’m asking everybody I can to say a prayer for him. Would you say one for him, please?”
I did. And my problems didn’t seem like much that day.

2/ Đón Trong Mưa



Một đêm nọ, lúc 11 giờ 30 , một người phụ nữ Mỹ gốc Phi đang đứng bên đường xa lộ Albama cố chống đỡ một cơn mưa bão lớn. Chiếc ô tô của bà bị hỏng và bà đang rất cần được đi nhờ xe. Người ướt đẫm, bà ấy quyết định vẫy chiếc xe kế tiếp. Miột thanh niên da trắng dừng lại để giúp. Người thanh niên đưa bà đến nơi an toàn, giúp tìm người hổ trợ và cho bà lên xe taxi. Bà dường như rất vội vã.! Bà viết địa chỉ của cậu, cám ơn cậu và xe chạy đi. Bảy ngày sau có tiếng gõ cửa nhà cậu thanh niên. Cậu kinh ngạc khi thấy một bộ Ti Vi và dàn máy đĩa âm thanh nổi được giao đến nhà cậu. Trên đó có gắn kèm một lá thư. Lá thư như sau:

Kính gửi Cậu James,

Rất biết ơn cậu đã giúp đỡ tôi trên đường xa lộ . Mưa bão đã làm ướt cả y phục lẫn tâm hồn tôi. Thế rồi cậu đến. Vì cậu mà tôi đã có thể đến kịp với người chồng đang hấp hối ngay trước lúc ông ấy ra đi. Xin Chúa ban phước lành cho cậu đã giúp tôi và phục vụ những người khác vị tha.

Chào cậu.
Bà Nat King Cole
.

2/ Pickup in the Rain

One night, at 11:30 pm, an older African-American woman was standing on the side of a Alabama highway trying to endure a lashing rain storm. Her car had broken down and she desperately needed a ride. Soaking wet, she decided to flag down the next car. A young white man stopped to help her The man took her to safety, helped her get assistance and put her into a taxi cab. She seemed to be in a big hurry! She wrote down his address, thanked him and drove away. Seven days went by and a knock came on the man’s door. To his surprise, a giant combination console color TV and stereo record player were delivered to his home. A special note was attached. The note read:
Dear Mr. James: Thank you so much for assisting me on the highway the other night. The rain drenched not only my clothes but my spirits. Then you came along. Because of you, I was able to make it to my dying husband’s bedside just before he passed away. God bless you for helping me and unselfishly serving others.

Sincerely,
Mrs. Nat King Cole.


3/ Cho Máu

.


Cho Máu xảy ra nhiều năm về trước, khi đó tôi làm nhân viên truyền máu tình nguyện tại bệnh viện Stanford. Tôi biết 1 cô bé tên Liza bị bệnh và cần máu của đứa em trai 5 tuổi, cậu bé này đã mắc cùng căn bệnh và sống sót như một phép nhiệm màu nhờ phát triển kháng thể cần thiết chống đỡ với bệnh tật. Bác sĩ giải thích trường hợp này cho cậu em nhỏ của Liza, và hỏi cậu có sẵn lòng cho máu chị mình không. Tôi thấy cậu bé do dự một thoáng rồi hít một hơi thở dài, cậu nói: “Vâng, cháu sẽ cho máu nếu điều này cứu được chị Liza”
Khi việc cho máu đang tiến hành, cậu nằm bên cạnh chị mỉm cười, như mọi chúng ta sẽ làm thế, nhìn thấy màu hồng dần trở lại trên đôi má của chị. Thế rồi mặt cậu tái nhợt đi và nụ cười trên khuôn mặt câu tắt, “ Cháu sẽ chết ngay bây giờ sao?”

Vì còn bé, cậu bé hiểu không đúng lời bác sĩ. Cậu nghĩ rằng cậu sẽ phải cho chị tất cả máu mình.

3/ Giving Blood


.

Giving Blood many years ago, when I worked as a transfusion volunteer at Stanford Hospital, I got to know a little girl named Liza who was suffering from a disease and needed blood from her five-year-old brother, who had miraculously survived the same disease and had developed the antibodies needed to combat the illness. The doctor explained the situation to her little brother, and asked the boy if he would be willing to give his blood to his sister. I saw him hesitate for only a moment before taking a deep breath and saying, “Yes, I’ll do it if it will save Liza.”
As the transfusion progressed, he lay in bed next to his sister and smiled, as we all did, seeing the color returning to her cheeks. Then his face grew pale and his smile faded. He looked up at the doctor and asked with a trembling voice, “Will I start to die right away?”
Being young, the boy had misunderstood the doctor; he thought he was going to have to give her all his blood.

4/ Chướng Ngại Trên Đường Ta Đi

Ngày xưa, có một vì vua đặt một tảng đá trên lòng đường. Rồi nhà vua núp xem ai sẽ dời tảng đá lớn. Một số cận thần và thương nhân giàu có nhất của nhà vua đi qua và bước vòng tảng đá. Nhiều người lớn tiếng chê bai vua vì không để cho đường quang, nhưng chẳng ai làm điều gì đưa tảng đá khỏi con đường. Sau đó một bác nông dân đi đến mang theo một gánh rau.
Đến chỗ cục đá, anh đặt gánh rau nặng xuống, cố gắng lăn hòn đá sang lề đường. Sau một hồi cố gắng xô đẩy, cuối cùng anh ta thành công. Khi người nông dân nhấc quang gánh rau lên, anh ta thấy một cái ví tiền trên đường nơi mà lúc nãy là tảng đá. Chiếc ví chứa nhiều đồng vàng và một tờ thư của Vua ghi rằng tiền vàng này tặng cho người đã chuyển cục đá ra khỏi đường đi. Người nông dân biết nhiều người khác chẳng bao giờ hiểu. Mọi chướng ngại đem lại một cơ hội để cải thiện tình trạng của mình

.

4/ The Obstacle in Our Path
.

In ancient times, a king had a boulder placed on a roadway. Then he hid himself and watched to see if anyone would remove the huge rock. Some of the king’s wealthiest merchants and courtiers came by and simply walked around it. Many loudly blamed the king for not keeping the roads clear, but none did anything about getting the big stone out of the way.

Then a peasant came along carrying a load of vegetables. On approaching the boulder, the peasant laid down his burden and tried to move the stone to the side of the road. After much pushing and straining, he finally succeeded. As the peasant picked up his load of vegetables, he noticed a purse lying in the road where the boulder had been. The purse contained many gold coins and a note from the king indicating that the gold was for the person who removed the boulder from the roadway. The peasant learned what many others never understand. Every obstacle presents an opportunity to improve one’s condition.
.

Huỳnh Huệ dịch

Unknown Authors