Nếu thấy hoàng hôn vẫn mỉm cười,
là bạn còn hi vọng
Nếu thấy vẻ đẹp ở sắc màu của một nụ hoa bé nhỏ,
là bạn còn hi vọng
Nếu thấy niềm vui khi nhìn cánh bướm chập chờn,
là bạn còn hi vọng
Nếu thấy ấm lòng bởi nụ cười thơ ngây con trẻ,
là bạn còn hi vọng
Nếu thấy điều tốt đẹp ở tha nhân,
là bạn còn hi vọng
Nếu giọt mưa phùn trên tay làm xao xuyến,
là bạn còn hi vọng
Nếu sắc cầu vồng khiến bạn dừng chân chiêm ngưỡng,
là bạn còn hi vọng
Nếu bộ lông mềm mại của chú chó khiến bạn trầm trồ,
là bạn còn hi vọng
Nếu gặp người mới quen thấy sôi nổi và hào hứng,
là bạn còn hi vọng
Nếu chìa bàn tay bè bạn cho những ai lay động hồn mình,
là bạn còn hi vọng
Nếu khổ đau của tha nhân làm bạn muộn phiền,
là bạn còn hi vọng
Nếu không để một tình bạn chết non,
là bạn còn hi vọng
Nếu mong tìm một thời khắc, một chốn an bình cho suy tưởng,
là bạn còn hi vọng
Nếu nhìn lại quá khứ và mỉm cười,
là bạn còn hi vọng
Nếu phải đối mặt với điều rủi, nghe tin kế hoạch không thành, bạn vẫn ngẩng cao đầu đáp:
“Vâng, NHƯNG….”, là bạn còn hi vọng
Hi vọng là những điều kì diệu
Hi vọng có thể cong oằn, rẽ hướng, nhưng hiếm khi gãy vỡ
Hi vọng nuôi ta sống khi mọi cái đã mất
Hi vọng cho ta lý do tiếp tục phấn đấu và dũng khí bước tiếp khi ta chỉ muốn buông tay cay đắng
Hi vọng khiến ta nở một nụ cười khi lòng ta bối rối
Hi vọng nâng bước ta trên lối mòn khi hồn ta lạc hướng
Hi vọng là phép màu để ta gìn giữ
Hi vọng phục hồi nghị lưc trong mỗi chúng ta đưa ta vào những nơi đen tối nhất của phong ba. Bạn ơi- ĐỪNG BAO GIỜ ĐÁNH MẤT HI VỌNG
YOU STILL HAVE HOPE
If you can look at the sunset and smile, then you still have hope
If you can find beauty in the colors of a small flower, then you still have hope
If you can find pleasure in the movement of a butterfly, then you still have hope
If the smile of a child can still warm your heart, then you still have hope
If you can see the good in other people, then you still have hope
If the raindrop drizzling on you still thrills you, then you still have hope
If the sight of a rainbow still makes you stop and stare in
wonder, then you still have hope
If the soft fur of a favored pet makes you stop and stare in
wonder, then you still have hope
If you meet new people with trace of excitement and
optimism, then you still have hope
If you still offer your hand in friendship to others that
have touched your life, then you still have hope
If the suffering of others still fills you with pain and
frustration, then you still have hope
If you refuse to let a friendship die, then you still have hope
If you look forward to a time or place of quiet and
reflection, then you still have hope
If you can look to the past and smile, then you still have hope
If, when faced with the bad, when told everything is futile,
you can still look up and end the conversation with the phrase:” Yeah…BUT”, then
you still have hope
Hope is such marvelous things
It bends, it twists, it sometimes hides, but rarely does it break
It sustains us when nothing else can
It gives us reason to continue and courage to move ahead
when we tell ourselves we’d rather give in
Hope puts a smile on our face when the heart cannot manage
Hope puts our feet on the path when our eyes cannot see it
Hope moves us to act when our souls are confused of the direction.
Hope is a wonderful thing, something to be cherished and
nurtured and something that will refresh us in return, and can be found in each of us
Hope can bring us into the darkest places of storms NEVER LOSE HOPE
Tình bạn
Là chi?
Là tình yêu
Là hiểu biết
Là chia sớt
Là cảm thông
Là dỗi hờn
Là tha thứ
Là bí mật cùng chia
Là lắng nghe từ A đến Z
Là vổ về an ủi
Là không phê hay phán
Là trò đùa tinh quái
Là tiếng cười hòa quyện
Là tay trong tay ra phố
Là đổi cả áo quần
Là yêu thương cho đi
Là chia chung trái ổi
Là người lau nước mắt
Là người khản giọng hoan hô
Là người cho cả thời giờ
Là người sẵn sàng đứng đợi
Là gió mát trong ngày oi ả
Là mặt trời cho sáng mù sương
Là trái tim rực lửa yêu thương
Là bờ vai cho ta tựa
Là vàng ròng không sợ lửa
Là hoa hồng dịu dàng của lòng ta
Là khi giông bão bên đời
Là thành lũy cho ta nương tựa
Là ước mơ ấp ủ
Là sức mạnh yêu thương
Là niềm vui bất tận
Là hạnh phúc
Là tất cả
Là Tình yêu
Diệu kỳ và đơn giản
Là Bạn của tôi
Hướng Dương
FRIENDSHIP
What is
Friendship?
Is
Love
Knowledge
Share
Sympathy
Sulks
Forgiveness
Shared secrets
Listening from A to Z
Consolation
No criticism nor comment
Mischievous games
Smile in harmony
Hand in hand walking downtown
Pooling clothes
Love given
Guava shared
Person wiping tears
Person hoarse for cheering
Person giving time
Person ready to wait
Cool wind on a hot day
sunshine on a foggy morning
Heart ablazing with love
Shoulder to lean on
Pure gold against the fire
Gentle rose for our soul
Wall of our defence
In the eye of the storm
Dreams cherished altogether
Power of love
Inexhaustible joy
Happiness
All
Passion
Wonderful and simple,
My life’s angel It’s you!
Chào các bạn,
Dưới đây là một bài thơ song ngữ, thành tích lao động của the DED gang (Băng Thảo Luận Anh Ngữ Hàng Ngày).
Bài thơ này do H’Triem Knul, một cô giáo trẻ người Êđê, viết. Chị Linh Nga Niê kdam phổ biến. Quan Jun và mình làm việc để dịch sang Anh Văn.
Khan là sử thi của người Êđê, ở Tây Nguyên. Kể khan là đọc sử thi. Các bạn có thể tìm hiểu thêm về khan trong các bài báo đăng lại trong bài DED hôm qua
Bài này sẽ là quà tặng cho tác giả. (Nhưng hiện thời chưa chuyển đến tác giả, để chờ vài bữa xem có cần thêm thắt thay đổi bản dịch không). Post ở đây để chia sẻ với các bạn, mới ra lò, vừa đọc vừa thổi.
Mến,
Hoành
.
Người kể khan
Già đang khan
Già say lời kể
Người nghe say lời già
Già kể từ ngày trước
Ngày sau chưa hết lời
Trẻ em đến lúc buồn ngủ
Người lớn đến lúc mỏi lưng
Chỉ có già đau
Khi anh hùng của bài khan ngủ quên . không bảo vệ nhà sàn của anh
Già bật tiếng khóc
Khi dân làng của người anh hùng bị bắt làm nô lệ
Giọng già như gió cuốn bụi bay
Giọng già như hổ gầm buổi tối
Giọng già như suối chảy đầu hôm
Già cao giọng giữa nhà
Trẻ em đến phải ngủ dậy mà nghe
Người lớn đến phải thẳng lưng mà nghe
Lời kể trở thành bài ca
Lời kể như hoa ban sớm
Người anh hùng của bài khan như vẫn còn sống
Người anh hùng của bài khan như chưa hề lầm lỗi
Con cháu của người luyến tiếc người không hết
Con cháu của người không trách người một lời
Giọng già kể không bớt bồi hồi
Giọng già kể càng lúc càng say
Chưa đến mùa rượu cần
Đã nghe nồng mùi men
Những anh hùng
Bởi già khan
Bất tử
H’Triem Knul
.
Gia telling khan
Gia is telling khan
Intoxicated by the khan’s verses
The audience intoxicated with Gia’s voices
One day to the next
Gia’s words haven’t stopped
The kids have fallen asleep
The adults have felt backache
Only Gia is hurt
When the khan hero overslept
and failed to protect his nhà sàn
Gia bursts into tears
When the villagers were captured into bondage
Gia’s voice–the wind’s rolling the flying dust
Gia’s voice–the tiger’s roar in the night
Gia’s voice–the stream’s flow in the sunset
Gia lifts up his voice in the mid of the house
So high that the kids have to wake up and listen
That the adults have to straighten up and listen
The words become a chant
Words like flowers in the dawn
The khan hero seems alive still
The khan hero seems to have made no mistake
His descendants miss him till no end
His descendants have no blame for him
Gia’s voice unceasingly moving
Gia’s voice becomes more intoxicating by the time
The wine season is not yet here
But the fermentation is already felt
Heroes
By Gia’s khan
Never die
Dear everyone,
Below is a very good poem from a young Ede school teacher named H’Triem Knul (which I’ve got from chị Linh Nga). Hope that you guys, especially the Daklak gang, will translate this into English (and I will help editing it), so that we will have a nice gift to the author.
To know more about kể khan, please read the VHTT article and the VietBao.vn article following the poem.
Have fun!
Hoanh
.
Người kể khan
Già đang khan
Già say lời kể
Người nghe say lời già
Già kể từ ngày trước
Ngày sau chưa hết lời
Trẻ em đến lúc buồn ngủ
Người lớn đến lúc mỏi lưng
Chỉ có già đau
Khi anh hùng của bài khan ngủ quên . không bảo vệ nhà sàn của anh
Già bật tiếng khóc
Khi dân làng của người anh hùng bị bắt làm nô lệ
Giọng già như gió cuốn bụi bay
Giọng già như hổ gầm buổi tối
Giọng già như suối chảy đầu hôm
Già cao giọng giữa nhà
Trẻ em đến phải ngủ dậy mà nghe
Người lớn đến phải thẳng lưng mà nghe
Lời kể trở thành bài ca
Lời kể như hoa ban sớm
Người anh hùng của bài khan như vẫn còn sống
Người anh hùng của bài khan như chưa hề lầm lỗi
Con cháu của người luyến tiếc người không hết
Con cháu của người không trách người một lời
Giọng già kể không bớt bồi hồi
Giọng già kể càng lúc càng say
Chưa đến mùa rượu cần
Đã nghe nồng mùi men
Những anh hùng
Bởi già khan
Bất tử
(TT&VH Cuối tuần) – “… Làng Đăk Rơwa bên bờ con sông Đak Bla hiền hòa của Kontum. Làng như một tổ chim nhỏ đậu trên một gành đá hơi nhô ra trên mặt sông ở đoạn này vừa duyên dáng như một cô gái lại vừa thư thái như một cụ già. Cả làng là một tiếng ngân dài nhẹ nhàng và sâu lắng của chính dòng sông kia và những cánh rừng kia, bên này và bên nọ con sông hiền hòa ấy. Nhà rông của làng, có lẽ vào loại nhà rông đẹp nhất hiện nay ở Kontum, cũng rất tài tình, nhỏ thôi nhưng không hiểu tại sao lại tạo cảm giác rất cao, bay bổng mà đằm chắc, mảnh mai và vững chãi. Chính trong ngôi nhà rông ấy tôi đã nghe già làng Đăk Rơwa hát kể sử thi…” (*)
Nhưng đấy là câu chuyện từ hơn 10 năm trước của nhà văn Nguyên Ngọc. Lần này dẫn chúng tôi về lại Kontum, ông bảo: “Còn mấy nghệ nhân hát kể sử thi hay lắm…”
Ngôi nhà rông nơi từng diễn ra những đêm kể khan
Có lẽ một trong những điều kỳ lạ nhất của văn hóa Tây Nguyên nhiều bí ẩn chính là sử thi. Người Êđê gọi đó là khan, người M’nông gọi là Ót Nrông, người Gia Lai gọi Hri, Bana gọi H’ăng mon, còn người Kinh gọi đó là trường ca. Một trong những bản trường ca tráng lệ nhất, gần như học sinh phổ thông nào cũng biết, ấy là Bài ca chàng Đam San – Khan Damsan, từng gây chấn động giới nghiên cứu folklore châu Âu khi nó được phát hiện và xuất bản lần đầu năm 1927 (người phát hiện và sưu tầm, dịch khan Damsan từ tiếng Êđê ra tiếng Pháp là viên Công sứ Pháp cai trị tại Đăk Lăk lúc bấy giờ, Léopold Sabatier.
Năm
1927 cuốn sách được xuất bản tại Paris, do Toàn quyền Pháp P.Pasquier và nhà văn Roland Dorgelès viết lời tựa). Lời ca của khan Damsan đến bây giờ vẫn có thể khiến chúng ta phải nghiêng mình kính nể về sự gợi cảm, sức tưởng tượng và bay bổng của từng con chữ. “Hãy đánh vang lên tiếng chiêng nhịp nhàng, hãy đánh thật êm, cho điệu nhạc vang xa khắp xứ. Hãy đánh lên, tiếng chiêng luồn qua dưới sàn nhà, dâng lên cao và thoát ra từ các xà trên mái nhà; cho con khỉ Hua quên cả nắm lấy cành cây; cho các ác thần và các phù thủy quên làm hại con người; cho con rắn mang bành cuộn mình trong hang phải bò ra nằm dài; cho con hươu phải dừng lại, lắng nghe; cho con thỏ phải ngồi yên dựng ngược tai lên; cho con hoẵng phải dừng lại, trương cổ ra mà quên cả gặm cỏ; cho tất cả đều chỉ còn có thể nghe đến tràn ngập tiếng chiêng nhịp nhàng của Damsan…”(**)
Được dự đoán ra đời vào khoảng thế kỷ 16, khi xã hội Tây Nguyên có những thay đổi lớn do các cuộc chiến tranh giữa các buôn làng và từng được so sánh với thần thoại Hy Lạp, sử thi Tây Nguyên cũng gắn liền với tên tuổi những anh hùng thần thoại của buôn làng Tây Nguyên như Đam San, Đăm Di, Xinh Nhã… Thậm chí sử thi Tây Nguyên còn được đánh giá là nhiều hơn hẳn thần thoại Hy Lạp về dung lượng, với hơn 200 bộ đã được sưu tầm, ghi chép; có những sử thi ngắn mà cũng có tới vài trăm câu, có những sử thi dài tới 30.000 câu, có thể xếp vào loại dung lượng lớn nhất trong văn học dân gian thế giới!
Nhưng sự kỳ diệu của sử thi Tây Nguyên so với nhiều sử thi dân gian các dân tộc khác, cũng giống như sự độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên (xem loạt Di sản văn hóa Tây Nguyên bài 3 và 4), là sức sống đương đại của nó trong các buôn làng: chiêng phải được đánh lên và khan phải được kể, được hát lên. Khan được kể trong những đêm đặc biệt ở nhà rông, với những nghi lễ cũng thật đặc biệt.
Và nhà rông với mái tôn (Ảnh: Trần Công Minh)
“… Đêm trong nhà rông, hầu như cả làng đều có mặt. Mấy ché rượu cần đã được mở. Từng nhóm quây quanh ché rượu. Cười nói lúc râm ran, lúc thì thào. Đủ mọi chuyện, chuyện có con thú lạ nào đó mới xuất hiện trong từng, tiếng kêu lạ, dấu chân lạ, hành tung cũng lạ. Con thú gì? Vì sao nó tìm đến rừng này? Hay một con thú quen không biết bỏ đi đâu lâu lắm rồi nay bỗng đột ngột trở về, đã có người gặp, điềm gì đây? Chuyện mùa tỉa lúa đã bắt đầu, những cơn mưa mong chờ sao còn chưa đến? Chuyện mắng mỏ và khuyên nhủ một cậu con trai mới lớn chưa biết ứng xử cho phải phép với người già. Cả chuyện ngoài Hà Nội vừa nghe được trên đài. Cả chuyện quốc tế nữa, bên Mỹ, bên Tàu… (kiểu này ngôn ngữ đương đại của người Kinh gọi là “tám”). Thỉnh thoảng một cô gái trong một nhóm ở cuối nhà rông bỗng đột ngột cất lên tiếng hát. Rồi tiếng hát chợt tắt, cũng như nó đã chợt bắt đầu… (một kiểu “hát với nhau”?). Nhưng, đến một lúc, có ai đó gõ mạnh mấy tiếng xuống mặt sàn, và như một dấu hiệu đã được thống nhất, các nhóm rải rác khắp nhà bỗng kéo nhau dồn hết về một chỗ: quanh bếp lửa ngay chính giữa nhà rông. Hóa ra nãy giờ nhân vật chính của đêm nay đã ngồi sẵn ở đấy: già làng. Và việc chính đêm nay bây giờ mới khởi sự: già làng sẽ kể sử thi!”.
Ông già gỡ chiếc ống điếu ra khỏi miệng và gõ nhẹ lên hòn đá dùng làm ông đầu rau ở bếp lửa. Tiếng gõ nhẹ nhưng rất âm vang. Im lặng. Ông cụ ngồi thẳng người, đằng hắng lấy giọng và bắt đầu hát. Giọng ông ngân nga, trầm bổng, một điệu nhạc đều đều, đôi khi hơi cất lên một thoảng, lại chùng xuống, đều đều, đến buồn tẻ, nhưng rồi bỗng đột ngột vút lên, cao vọi, đến ngút hơi, và cũng đột ngột như vậy, lại trầm xuống đến thì thầm…
Có kịch nữa. Lời đối thoại được hỗ trợ bằng chuyển động phong phú và liên tục trên khuôn mặt người kể, bằng cả động tác tay, có lúc toàn thân… Thỉnh thoảng ông cụ đứng hẳn dậy, bước đi và vung vẩy tay chân trong một không gian tưởng tượng” (*).
Giống như một giao hưởng, khan cũng có từng chương với những khoảng lặng khá dài. Và cũng giống như một vở kịch, với những nguyên tắc ước lệ rất cao. Một khan như già làng Đăk Rơwa đã kể, kéo dài qua nhiều đêm, có thể 10 đêm như vậy mới xong. “Có một nguyên tắc bất di bất dịch khi hát kể sử thi: đã bắt đầu một sử thi thì mười hay đến mấy chục đêm cũng không bao giờ được bỏ dở. Hết đêm trắng này qua đêm trắng khác, phải hát kể cho tận cùng, phải nghe theo cho đến tận cùng. Bởi, cũng như mọi con người ở trên trần gian và mọi vật trong vũ trụ vô biên này, các nhân vật trong sử thi cũng phải đi cho kỳ hết số phận của mình, không ai được dừng lại dang dở giữa chừng” (*). Nhưng hơn 10 năm đã qua rồi. Vâng, tất cả những câu chuyện kể trên là chuyện của 10 năm trước. Con đường mà hơn 160 năm trước, những nhà truyền giáo Pháp đầu tiên tìm lối lên Tây Nguyên muốn vượt qua phải mất nhiều tháng và nhiều người đã gục ngã, thì giờ đây chỉ mất hơn nửa ngày từ Đà Nẵng và khoảng một ngày đi xe từ TP.HCM. Mọi thứ lao nhanh với tốc độ khiến chính chúng ta cũng phải giật mình. Và cũng giống như mọi con người trên trần gian và mọi vật trong vũ trụ vô biên này, những đêm kể khan đang đi đến đến dấu chấm hết cho số phận của mình…
(*) Trích từ Những chiều kích của rừng – Nguyên Ngọc
(**) Trích Bài ca Chàng Đam San
– Ở làng Ghè (xã Ia Dơk – Đức Cơ) có một người còn trẻ, chưa từng nghe một nghệ nhân nào kể Khan (trường ca, sử thi…) lại bỗng nhiên biết kể 10 Khan rất dài. Các nghệ nhân và dân làng chỉ còn biết gọi anh là “người Yàng”!
Trận ốm kỳ dị
Rơmah Kim.Ảnh: Ngọc Tấn
Rơmah Kim không biết năm mình sinh, chỉ nhớ năm nay vừa tròn 30 mùa rẫy. Kim sinh ra tại làng Sung Kép – xã Ia Kla. Cha mất lúc Kim mới 10 tuổi. Anh chỉ có một em gái đang ở với mẹ.
Vào khoảng năm 1990 Kim lấy vợ. Vợ Kim là Keng – vốn là con của một người Kinh lưu lạc được ông Klit mang về nuôi. Lấy vợ được mấy tháng, Kim theo cánh thanh niên lên biên giới đãi vàng. Một hôm do sơ ý, Keng làm vỡ quả bầu đựng nước. Bị mẹ đánh đuổi, Keng xấu hổ bỏ nhà đi. Khi trở về Kim tìm vợ khắp nơi nhưng không thấy. Mãi sau này trong một lần đi rừng, Kim tình cờ nhìn thấy một bộ xương người. Nhờ chiếc còn lại của bộ xương mà Kim nhận ra đó chính là vợ mình. Năm 1992 Kim lấy vợ khác và về sống tại làng Ghè. Vợ chồng anh giờ đã có 5 con…
Nhìn tướng mạo Kim, khó ai nghĩ là anh là một con người đặc biệt. Kim cao dong dỏng, mái tóc xoăn tự nhiên khá đẹp; da hơi vàng do dấu tích của những trận sốt rét. Mắt Kim không hoạt nhưng khi suy nghĩ để trả lời một điều gì thì ánh lên những tia rất sắc. Kim hay chuyện và có vẻ sôi nổi dù vốn tiếng phổ thông không nhiều bởi Kim không được đi học và ít tiếp xúc với người Kinh…
Ở làng Súng Kép, Kim lớn lên như mọi đứa trẻ bình thường. Chẳng có gì đặc biệt nếu câu chuyện không bắt đầu từ một trận ốm kì lạ vào tuổi 15. Kim vẫn còn nhớ rất rõ, hôm ấy anh sang nhà người bà con ở xã B1 xin củ mì (sắn) về. Nồi mì bắc lên bếp vừa chín, bỗng Kim thấy hoa mắt rồi gục xuống. Qua một đêm vẫn thấy Kim bất động, người nhà tưởng Kim anh đã chết, liền trói heo để chuẩn bị đám ma thì tự nhiên Kim tỉnh lại.
Hai mắt anh đỏ ngầu, miệng lảm nhảm những gì không ai hiểu, Kim chạy khắp làng hùng hổ như tìm đánh ai. Rồi Kim vớ cái bao tải nhét đủ thứ giẻ rách, chổi cùn vắt lên vai chạy vào rừng. Mãi hôm sau, dân làng mới tìm thấy Kim đang ngồi lảm nhảm dưới một gốc cây to. Phải ba người đàn ông khỏe mạnh mới bắt nổi Kim đưa về nhà. Thêm một ngày nằm thiêm thiếp, cuối cùng Kim tỉnh lại và ăn uống bình thường.
Sau trận ốm kì dị đó tự dưng Kim thấy đầu mình như có ai vén sang một bên bức màn tối. Khan ở đâu tự dưng đầy ắp trong đầu Kim. Đầy nghi hoặc, Kim cố nhớ lại những gì đã xảy ra trong lúc ốm. Trong cái đêm mê man đó, Kim đã gặp một ông già. Đó là một người Jrai ăn vận theo lối xưa, bên mình mang một cây mác dài. Ông già dẫn Kim đi hết ngọn núi này đến con suối khác. Sau cùng hai người tới một ngôi làng xa lạ. Ở đó có một đám đông ăn mặc rất đẹp đang ngồi nghe một ông già kể Khan. Ông già bảo Kim ngồi nghe cho đến khi thuộc hết các Khan thì hai người trở về làng cũ. Rồi ông già biến mất…
Kim đem Khan Điêu H’lun kể cho tụi con nít trong làng nghe thử. Chúng nghe say sưa quên cả ăn. Chuyện Kim biết kể Khan lan ra từ đó.
“Người già chịu thua thôi!”
Sử thi, người Kinh gọi là trường ca, người Êđê gọi làkhan, người Ba Na gọi là H””ăng mon, người Jarai gọi là H””Rih, người Mơ Nông gọi là Ốt nrông… đã ăn sâu, đã sống, đã phát triển hòa trong không gian sinh tồn ngàn đời của cư dân miền thượng và chính nó đã góp phần làm cho không gian ấy càng trở nên kỳ vĩ. Sử thi không chỉ là huyền thoại. Nó không chỉ tồn tại trong không gian tiền sử mà trường tồn trong đời sống tinh thần của các tộc người, của nhân loại bởi chính những giá trị thẩm mỹ lớn lao của nó. Sử thi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, là một kho tư liệu về các tộc người thời cổ xưa. Khơi nguồn sử thi chính là con đường tìm về thời tiền sử, tìm về những giá trị văn hóa đích thực của các dân tộc.
(Theo Uông Thái Biểu)
Rơmah Kim đã kể cho tôi nghe chuyện anh trở thành “người Yàng” một cách trung thực. Khó mà nghĩ được một con người quanh năm miệt mài với nương rẫy, ít khi bước chân ra khỏi làng lại bịa chuyện nhằm mục đích gì. Điều này càng được khẳng định khi tôi có dịp tìm hiểu qua các nghệ nhân.
Ở làng Súng Kép – nơi Rơmah Kim sinh ra và lớn lên có một người biết Kim rất rõ – đấy là ông Rơma Mloi. Mloi năm nay đã gần 60 tuổi, nguyên là bộ đội phục viên. Ông cho biết ở làng Súng Kép trước nay duy nhất chỉ một người biết kể Khan – đó là Rơmah Tơ (cha vợ ông). Nhờ cha vợ, Mloi cũng biết một số Khan nhưng những Khan này không giống những Khan Rơmah Kim biết. Hơn nữa Rơmah Tơ đã chết từ năm 1979, và ông cũng chưa thấy Kim nghe ông già kể Khan bao giờ.
“Việc Kim nghe rồi bắt chước người già ở làng là không có. Lúc đó nó còn nhỏ, làm gì đủ trí khôn để nhớ. Còn chuyện nó biết nhiều Khan là thật. Thằng Chel với bọn thanh niên ở làng này đã nghe nó kể lúc đi đào vàng. Nó kể hay đến mức lũ thằng Chel bảo nó cứ ở nhà không phải đi làm, tối cứ khan cho chúng nó nghe là được… Mình nghĩ nó không có tài phép gì đâu, do cái đầu nó mà ra cả thôi”Ông Mloi nói.
Như vậy khả năng còn lại là Rơmah Kim học Khan từ những nghệ nhân bên làng vợ hoặc các làng khác? Thế nhưng điều nghi vấn đầu tiên của tôi đã bị loại trừ khi gặp trưởng thôn Rơlanh Luinh. Ông cho biết làng Ghè trước nay không có ai biết kể Khan. Hơn nữa khi Kim về sống với vợ thì đã biết kể Khan rồi. Hỏi thêm ông Luinh tôi được biết cả vùng này trước nay chỉ có ông Rơmah Jam ở làng Do là biết khan. Ông Jam cũng đã từng nghe Kim kể Khan và biết khá nhiều điều thú vị về Kim.
Ông Jam năm nay đã 75 tuổi, được coi là “cán bộ Cách mạng lão thành” của xã. Nghe hỏi về Kim, ông tỏ vẻ rất thú vị và nói ngay những điều mình nghĩ: “Việc thằng Kim tự nhiên biết Khan như thế, cả đời mình chưa thấy mà cũng chưa nghe ông bà nói bao giờ. Còn tại sao thì mình chịu. Mình chỉ biết sự thật là nó khan rất hay. So với nó thì mình thua xa!”
Là một nghệ nhân có tiếng nhưng ông Jam cũng chỉ biết có bốn Khan (đã được sưu tầm và lưu giữ tại Viện NCVHDG). Ông Jam không giấu nổi sự khâm phục của mình với Kim, và dường như trong tâm tưởng ông cũng tin là Kim có “Yang” thật. – “Những nghệ nhân bình thường như mình, do học từ miệng người khác nên giỏi lắm cũng chỉ nhớ được các Khan ngắn hoặc nhớ không trọn vẹn; khi kể có thể bị vấp. Trong khi thằng Kim có những Khan dài kể tới 2 ngày 2 đêm mới hết. Mà nó kể rất mạch lạc, rất hay, không vấp váp – cứ như là nước mạch ngầm chảy ra!”
Sử thi Tây Nguyên ra đời khi con người chưa có chữ viết. Nó được lưu truyền chỉ nhờ vào khả năng nhớ, diễn và kể của các nghệ nhân. Sử thi Tây Nguyên có không gian sống chủ yếu bên bếp lửa dưới mái nhà rông. Người kể sử thi kể từ đêm này qua đêm khác, người nghe cũng vậy. Nếu ai đã cùng người Tây Nguyên dự một đêm khan sẽ thấu hiểu nỗi đam mê của cư dân bản địa với khan.
(Theo Uông Thái Biểu)
…Đến đây thì xem như sự hoài nghi của tôi về việc Kim học Khan từ một nghệ nhân nào đó trong vùng đã không có cơ sở. Tôi nghĩ đại thể Kim tự dưng biết nhiều Khan cũng tương tự như những hiện tượng mà khoa học đã nói tới: có người không may bị điện giật hay sét đánh, lúc sống dậy quên hết tiếng mẹ đẻ và tự dưng nói được những ngoại ngữ mà mình chưa hề biết.
Theo GS.TS Phan Đăng Nhật thì Rơmah Kim là hiện tượng mà các nhà khoa học nước ngoài gọi là “những yếu tố Shaman trong sử thi”. Những yếu tố Shaman có thể tìm thấy trong sử thi viết của nhiều nước trên thế giới cũng như trong sử thi của nhiều nền văn hóa không có chữ viết ở phương Bắc”. Hiểu một cách đơn giản, nó tương tự như hiện tượng người bị “ốp đồng” sau những biến động về tâm – sinh lý…
“Yang cho mình, mình phải cho lại dân làng”
Dù được mọi người cho là “người Yàng” nhưng Rơmah Kim không nghĩ như vậy. Trái lại anh còn tỏ vẻ không thích khi có người tò mò muốn biết chuyện đời mình. Ở làng Ghè, Kim vẫn sống một cuộc sống bình thường như mọi người: ngày lên rẫy, tối về với vợ con. Kim không mấy khi đi đâu nếu không có người mời anh đi kể Khan cho một đám cưới hay đám ma nào đó.
Kim cho biết hiện anh đang thuộc 10 Khan. Dài nhất là Điêu H”Lun và Nhuốt – Nhoang. Mỗi Khan phải kể tới 2 ngày đêm mới hết. Các Khan còn lại đều có độ dài 1 đêm. Hiện nay tên Rơmah Kim khắp vùng ai cũng biết, bởi vậy người mời anh đi kể Khan ngày càng nhiều.
Này đây là người kể khan. Giọng ông lên bổng, xuống trầm, rồi ông hú, ông hét, ông hát, ông giả giọng của tất cả các nhân vật có trong câu chuyện. Ông bắt chước tiếng chim hót, suối chảy, cọp gầm, mang tác, tiêng khiên đao va nhau, tiếng mũi tên lướt vèo trong gió… Này đây là người nghe khan. Lúc thì tất cả mọi người nghệt mặt ra thẫn thờ; lúc thì bi thảm, xót thương; lúc thì cười lăn cười bò; lúc lại cùng ồ lên ngạc nhiên hoặc phẫn nộ. Cứ như thế sáng theo ngọn lửa, khan kéo dài từ đêm này qua đêm khác.
(Theo Uông Thái Biểu)
Với đồng bào dân tộc, kể khan, đánh chiêng hay đẽo tượng nhà mồ đều không phải là nghề kiếm sống, nó không mang lại lợi ích vật chất nào cho người biết. Bởi vậy Rơmah Kim không bao giờ đòi hỏi gì, ngược lại mỗi lần nhận lời đi kể khan cho ai là một lần Kim phải tốn kém vì phải làm lễ tạ ơn Yàng theo lệ tục. Lễ vật cho mỗi lần thường là một con gà, một ghè rượu. Kim tự mình cúng lễ. Anh gọi tên ông già Glung, cảm ơn ông đã dạy cho mình kể Khan; xin ông phù hộ cho mình và dân làng mạnh khỏe… Ngoài Kim không ai biết đến điều kì dị này: mỗi lần kể Khan Kim đều thấy ông già Glung đến ngồi cạnh. Ông luôn nhắc Kim kể cho đúng, cho hay – nhất là không được bỏ dở nửa chừng. Bởi vậy nếu vì một lý do nào đó mà kể dở thì Kim phải mổ gà làm lễ tạ.
Mỗi đêm Kim kể Khan thật sự là một đêm hội làng. Nhà Kim nghèo, vợ chồng quanh năm vất vả mà vẫn thiếu ăn, có năm thiếu tới bốn tháng. Nhưng mỗi lần thấy bà con kéo đến nghe say sưa là Kim quên hết. Làng Kim không có người quậy phá, ai cũng chăm chỉ làm ăn; biết giữ những gì ông bà để lại – có ai biết một phần cũng là nhờ những đêm trắng nghe Kim kể Khan.
Cách đây ít lâu, Kim vừa đau một trận nặng, phải đi điều trị tận bệnh viện tỉnh. Trong cơn mê sự việc lại tái diễn y như 15 năm trước, chỉ khác lần này Kim không mộng du và chỉ biết thêm 1 Khan. Tôi gặng hỏi nhiều lần nhưng Kim bảo anh phải làm lễ tạ ông già Glung đã mới tiết lộ được.
Lại thêm một chi tiết kì lạ nữa về con người này! Nhưng thôi, điều đó có lẽ nên giành cho các nhà khoa học. Với tôi, những đêm khan của Kim phục vụ dân làng mới đích thực là ý nghĩa!
Ai yêu Đường thi cũng đều biết đến bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị.
Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu;
Mày chau tay gảy khúc sầu,
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
Nhưng không mấy chúng ta thực sự nghe đàn tỳ bà, nhất là nghe nó một mình.
Đàn tỳ bà có một ngôi vị rất lớn trong văn học và thi ca Trung Quốc.
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi
(Lương Châu Từ của Vương Chí Hoán)
Dịch nghĩa:
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn uống nhưng tiếng tỳ bà đã giục lên ngựa
(Nếu) tôi nằm say trên chiến trường, bạn đừng cười
(Vì) xưa nay thời chiến chinh ai đi mà trở lại.
TDH
Đàn tỳ bà được xem là đàn Flamenco của Trung Quốc vì tỳ bà rất phổ thông trong âm nhạc truyền thống Trung Quốc, và cách biểu diễn, nhất là các tiếng rung nghe rất giống kỹ thuật tremolo của nhạc Flamenco.
Hôm nay chúng ta có ở đây bài Tỳ Bà Hành, qua lời dịch của Việt của Phan Huy Thực (có nơi ghi là Phan Huy Vịnh). Tiếp theo là lời tiếng Anh của Francis Chin; một bài dịch rất rõ nghĩa, đã đăng năm 1979 ở báo Business Times của Singapore.
Sau đó chúng ta có một số bản nhạc solo tỳ bà của Liu Fang, nhạc sĩ Trung Quốc, tuổi trẻ tài cao, danh cầm số một thế giới về tỳ bà. Tiếng đàn của Liu Fang khi vũ bão như sấm động, khi nhẹ nhàng như gió thoảng, khi nhức nhối như giọt lệ.
Liu Fang sinh năm 1974 tại thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Học tỳ bà năm 6 tuổi và 9 tuổi bắt đầu trình diễn. Năm 11 tuổi trình diễn cho Nữ Hoàng Anh Elizabeth khi bà qua thăm Trung Quốc năm 1985. Liu Fang cũng học thập lục huyền cầm, nhưng nổi tiếng ngày nay như là danh cầm tỳ bà số một trên thế giới. Năm 2001 chị được giải ‘Future Generation Millennium Prize’ của Hội Đồng Nghệ Thuật Canada, dành cho các nhạc sĩ dưới 30 tuổi. Chị đã trình diễn trên nhiều chương trình TV ở các nước trên thế giới. Đĩa Silk Sound của chị được giải Academie Charles Cros Award của Pháp (như là Grammy của Mỹ). Hiên nay chị ở Canada.
Sau các video trình diễn của Liu Fang là một bài viết nói thêm về Phan Huy Thực và bài dịch Tỳ Bà Hành, để các bạn cần tham khảo có thêm tài liệu.
Trước khi vào bài thơ Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị có một lời giới thiệu về bài thơ. Lời này không thấy trong bản dịch tiếng Việt, nhưng có trong bản tiếng Anh của Francis Chin. Mình dịch lời giới thiệu này sang tiếng Việt, đặt trước bài dịch của Phan Huy Thực.
Kính mời!
Hoành
.
Giới thiệu (bởi Bạch Cư Dị)
Năm thứ mười đời Hoàng Đế Yuan Ho, tôi bị giáng chức và bị đày về huyện Jiu-jiang làm tùy viên. Mùa hè năm sau đó, khi tôi đang tiễn một người bạn ra đi, chúng tôi nghe trên thuyền bên cạnh có tiếng tỳ bà theo điệu nhạc kinh đô.
Hỏi thăm thì biết là người chơi đàn từng là một ca kỷ ở kinh đô ngày trước và ngày nay là vợ của một thương nhân. Tôi mời cô ấy qua thuyền tôi chơi nhạc. Cô ấy kể lại cho chúng tôi nghe chuyện đời cô và nỗi bất hạnh của cô. Từ ngày rời kinh đô đến nay tôi không hể thấy buồn, nhưng từ đêm hôm đó, tôi bắt đầu cảm nhận gánh nặng của cuộc đời đi đày của tôi. Vì vậy, tôi viết bài thơ 612 chữ này.
Say những luống ngại khi chia rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Đàn ai nghe vẳng bên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu;
Mày chau tay gảy khúc sầu,
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu,
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ;
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao;
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông;
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời.
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la;
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên.
Gã thiện tài so phen dừng khúc,
Ả thu nương ghen lúc điểm tô,
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi;
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trảy, lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dong;
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh đường li cách,
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi;
Thuyền không, đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen”.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
“Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau,
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm:
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối:
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von;
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng.
Há chẳng có ca rừng, địch nội?
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe.
Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca”.
Đứng lâu dường cảm lời ta,
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi;
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh.
(Người dịch: Phan Huy Vịnh
Xuất bản: Thơ Đường (tập 1) – NXB Văn học, 1987)
.
The Song of the Pipa
Introduction
In the 10th Year of Emperor Yuan Ho, I was banished and demoted to Jiu-jiang district as an assistant official. In the summer of the following year, as I was seeing a friend off, we heard from a neighbouring boat a pipa [four-string lute] played in the style of the Capital.
On inquiry, I learnt that the player used to be a sing-song girl from the Capital who was now married to a merchant. I invited her to my boat to play for us. She also related to us her story and unhappiness. Since my departure from the Capital I had not felt sad; but since that night, I began to feel the weight of my exile. So, I wrote this poem in 612 words:
By the head water of the Hsin-yang River
Where maple leaves and reeds sigh in the autumn wind,
I said goodbye to a friend departing in the night.
When I got down from my horse, my guest was already in the boat.
Silently, we lifted our cups for a final farewell toast
But the wine could not soothe our sadness
That rose with the rising tide and flooded the moon.
Suddenly we heard a pipa across the water.
I, the host, forgot my return, the guest the journey on.
In the darkness we asked for the player.
The music broke off, whoever wishing to reply seemed uncertain.
So we re-lit the lamp, reset our table with food and wine,
And moved our boat nearer, hoping to see the player.
But only after much urging did she appear
Still clutching her pipa that half-covered her face.
She turned the pegs and tested the strings
And as she strummed we could sense her deep feeling
For every note was heavy with thought
Telling a sorrowful tale of life.
With lowered brows and sure hands, she poured into the music
The limitless depths of her heart.
She plucked the strings, brushed them and swept on…
With a song of the Rainbow Skirt and the Six Little Ones.
The major chords chanted like falling rain,
The minor chords whispered secrets,
In a delightful medley
Like the clinking of pearls on a jade plate,
Like the notes of a nightingale among flowers,
Like the singing of a brook as its water rushed the bank.
A cold touch suddenly froze the music,
And in the silence we heard her innermost sorrow
For now the stillness told more than any music could.
A silver jar shattered and water gushed out,
And armoured horsemen clashed in their fighting gear.
Once more she swept all four strings like the tearing of silk.
East and west, the boats were hushed by her music,
While the autumn moon rose white above the water.
Finally she inserted the peg under the strings,
Adjusted her clothes, composed herself and told her story:
“I was a girl from the Capital,
living at the foot of the Hsia-mo Hill.
At thirteen, I had already mastered the pipa
and critics praised me as the best player ever.
I was familiar with the tunes of popular songs and dances
And my talent and beauty made many girl envious.
The young men of the city competed for my favours.
One song could bring me rolls of silk,
Jewelled hairpins and silver combs.
My clothes too were often crimsoned with wine.
Year after year, the feasting and laughter went on,
As autumn changed to spring in carefree abandon.
“Then my brother left for the Army and my aunt died.
Evening and morning passed and my beauty waned.
At last, no longer young, I was married to a merchant.
But he cares more for his business than his wife.
Last month, he left for Fouliang town to buy tea
Leaving me to look after an empty boat.
With only the moon and cold river for companions.
In the deep of the night, I dreamt of my girlhood
But the happy memories hastened my tears.”
When I heard her playing the pipa, I sighed
When I heard her story, I became sadder still.
“There are no strangers on the world’s horizon,
Meeting and sharing the same fate,
What does past acquaintance matter?
“A year ago, I left the Capital
To become a sick exile in this town.
The place is so forsaken there is no good music.
For an entire year I heard nothing of string or pipe.
My house near the river is low and damp,
Surrounded by reeds and rushes.
Morning and night, all I hear
Are the blood-cuddling cuckoo calls and the cries of apes.
“In spring mornings among the flowers
And under a moon in autumn nights,
I would bring wine, only to drink alone by the river.
There are mountain songs and village piping
But they cut my ears with their grating sound.
Tonight, hearing you play the pipa
Is like listening to fairy music from afar.
Don’t go just yet, but play us another tune
And I will compose the words of a song for you.”
Moved by my words she stood for a moment,
Then sitting down she began strumming anew.
But the forlorn notes were different from before
And everyone listening could not hold back their tears.
Who among them was most affected?
The author, a junior official, with his blue sleeves wet.
Translated by Francis Chin,
published June 9, 1979 in Business Times newspaper, revised May 24, 2008 for the Web
.
Bản này có nhan đề “Vua Chu cởi chiến bào” (King Chu doffs his armour — Ba Wang Xie Jia), là một bản nhạc tỳ bà truyền thống. Nói lại một câu chuyện thương tâm xảy ra năm 202 trước công nguyên.
.
Bản này tên là “Tuyết bay làm đẹp ngàn thông” (Swirl snow decorating the evergreen — Fei Hua Dian Cui). Đây là một bản nhạc rất nhẹ nhàng, ngược với các bản nhịp quân hành (như bản trên).
.
Bản này gọi là Trên Nhịp Vũ (On a theme to dance — Ge Wu Yin), do Liu Tianhua (1895-1932) viết. Video này là trình diễn tại hội chợ TFF Rudolstadt ngày 9 tháng 7 năm 2006, do German TV (ARD1) phát sóng.
.
Bản này Liu Fang biểu diễn cùng tiếng trống của Ziya Tabassian. Nhan đề Đêm lễ hội lửa trại (The night of bonfire festival) do Wu Junsheng soạn trong thập niên 1980s cho tỳ bà solo, thu hình buổi trình diễn ngày 27 tháng 3 năm 2002.
Gần đây do một sự tình cờ chúng tôi phát hiện được một bài viết có nhan đề “Tỳ bà hành bạt” chép chung trong cuốn Nam phong giải trào ở Thư viện Quốc gia (R1674). Bài dài khoảng 450 chữ. Sau lời bạt là nguyên văn chữ Hán bài “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị và lời dịch ra quốc âm. Đáng chú ý là bài viết có ghi cụ thể dòng lạc khoản “Minh Mệnh thập nhị niên ngô nguyệt trung hoán. (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ Hình bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt”. Hà Tốn Phủ chính là Hà Tông Quyền bạn đồng liêu với dịch giả bài Tỳ bà hành mà ở đoạn đầu lời bạt ông đã giới thiệu dịch giả là “Cựu Bộ trưởng Xuân Khanh” (Tên hiệu Phan Huy Thực).
Hà Tông Quyền (1789-1893) quê huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đỗ Hội nguyên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), lúc nhỏ đi học nổi tiếng thông minh, làm quan đến chức Lại bộ Tham tri, Sung đại thần Viện cơ luật, khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Lại. Ông là một nhà khoa bảng nổi tiếng văn chương, được các sĩ phu đương thời ca ngợi. Ngoài thơ chữ Hán ông còn để lại 30 bài vịnh Kiều bằng chữ Nôm hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do Minh Mệnh đề xướng năm 1830. Ông được Minh Mệnh tin dùng và thường xuyên được vào bái kiến nhà vua.
Trong lời bạt ông ca ngợi và đánh giá cao bài dịch “Tỳ bà hành” của họ Phan, đồng thời ông cũng nêu lên quan điểm về dịch thuật của mình là không nên quá chú trọng về mặt kỹ xảo mà làm sai lạc nội dung của nguyên tác. Qua lời bạt chúng ta còn được biết thêm về thời điểm ra đời của bản dịch (trước năm 1831).
Thực ra từ trước tới nay đã có nhiều người đề cập đến địch giả bài “Tỳ bà hành” nổi tiếng của Bạch Cư Dị. Ngay từ năm 1926 Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cũng đã thông báo trên tạp chí Nam Phong dịch giả “Tỳ bà hành” là Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ly, Trương Linh Tử và sau này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn, Hoàng Thị Ngọ cũng khẳng định như vậy. Khi viết về dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn, GS. Phan Huy Lê cho biết gia phả họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch “Tỳ bà hành” là Phan Huy Thực. Chúng tôi cũng đã được đọc cuốn Phan tộc công phả hiện đang lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (A2963) do Phan Huy Dũng – cháu nội Phan Huy Thực biên tập, trong đó có ghi tóm tắt tiểu sử 6 người con của Phan Huy ích. Trong đoạn nói về Phan Huy Thực, gia phả có ghi rõ các trước tác của ông như: Hoa thiều tạp vịnh, Tỳ bà hành diễn âm khúc, Nhân ảnh vấn đáp… Riêng đối với Phan Huy Vịnh thì gia phả không hề nói đến việc ông dịch “Tỳ bà hành”.
Như vậy gia phả họ Phan Huy là nguồn tư liệu duy nhất đáng tin cậy để xác định người dịch Tỳ bà hành và đồng thời cũng để đính chính những ngộ nhận lâu nay được gán ghép cho Phan Huy Vịnh. Sở dĩ có sự nhầm lẫn kéo dài có lẽ là do nguồn tư liệu của Trần Trung Viên trong cuốn Văn đàn bảogiám (soạn năm 1926) và nhất là cuốn Thi văn hợp tuyển dùng trong các trường trung học trước năm 1945 đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học sinh lúc bấy giờ. Hai cuốn sách này gần đây đã được in lại vài ba lần nhưng vẫn không được đính chính, ngay cả bộ Từ điển văn học 2 tập in năm 1983-1984 cũng ghi Phan Huy Vịnh là người dịch “Tỳ bà hành” và Phan Huy Thực không có tên trong bộ Từ điển này (Cuốn Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 đã có đính chính và bổ sung). Vì đã thành thói quen nên những cuốn sách mới gần đây như Thơ Đường trong nhà trường dùng cho học sinh Trung học, sinh viên và người yêu thích thơ Đường hoặc cuốn Bạch Cư Dị – Tỳ bà hành của Hồ Sỹ Hiệp tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên cứu và cuốn Thơ Bạch Cư Dị của NXB Hội Nhà văn vừa mới in xong trong quí IV-2006, vẫn để tên người dịch là Phan Huy Vịnh.
Để góp thêm một minh chứng cho vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn lời bạt của Hà Tông Quyền cho bài dịch “Tỳ bà hành” của Phan Huy Thực.
*
Lời bạt cho bài dịch “Tỳ bà hành”
“Tỳ bà hành” là tác phẩm của Bạch Lạc Thiên, các sĩ phu nước ta rất hâm mộ và đã diễn ra quốc âm, nhưng vì lời văn dài mà ngôn ngữ lại có phần mới nên đôi khi vẫn gặp những chỗ khó dịch và người dịch thường giữ lấy ý chính mà lại bỏ qua nhiều chi tiết trong nguyên bản. Khi dịch một bài văn nếu chỉ chú ý về mặt kỹ xảo (cầu công) mà không bám sát nội dung của nguyên tác thì có khác gì “gãi không đúng chỗ ngứa” và thử hỏi như vậy đã phải là người hiểu được thi sĩ họ Bạch chưa?
Khi tôi tiếp xúc với bài diễn âm của cựu Bộ trưởng Xuân Khanh họ Phan, tiên sinh bảo: Đó là bài tôi dịch ra đấy. Khi xem tôi thấy lời dịch bám sát nội dung, từng chữ từng câu răm rắp không sai mà âm vận thì lại vừa khoan thai vừa hùng tráng. Tôi đã ngâm nga, đọc đi đọc lại nhiều lần và rất lấy làm tâm đắc tưởng như đang được tiếp xúc với thi nhân cự phách đời Đường – người đang bị biếm trích ở đất Giang Châu trước cảnh thê lương của hơi thu và lau lách đìu hiu để tạo nên một thiên tuyệt bút, như đang được chứng kiến cảnh:
“Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nước Ngựa sắt dong sàn sạt tiếng đao” [1]
Tiên sinh đã diễn ra quốc âm trong lúc chưa gặp vận còn đang phải ẩn náu nơi sơn dã, chẳng khác cảnh sông Bồn và đã mượn chén rượu của người khác để giải nỗi sầu riêng, nếu không phải là người có thiên tư và chịu ảnh hưởng truyền thống học vấn của gia đình thì làm sao mà có được? Tiên sinh vốn sở trường về văn chương, thanh luật, nên âm vận trong câu dịch hài hoà toát lên cảnh phong lưu tao nhã, xứng đáng cùng với Lạc Thiên là những bậc hào hoa một thủa. Có những chỗ Lạc Thiên chưa diễn đạt hết thì tiên sinh lại dùng thanh âm mà giãi bày một cách tường tận.
Tôi thô vụng và quê mùa, không biết được nhiều, nhưng bề trên đã bảo, tôi không dám từ nan, bèn mạo muội viết ra lời bạt này và nếu như tác phẩm của tiên sinh nổi tiếng thì tôi cũng được thơm lây và cũng coi như được dự buổi tiễn đưa trong đêm trăng trên bến Tầm Dương để được cùng chia sẻ nỗi niềm u hoài của kẻ cô thần khoáng phụ, như thế còn gì sung sướng cho hơn, chắc tiên sinh cũng không cười tôi là kẻ ngông cuồng và Bạch Lạc Thiên cũng sẽ thông cảm cho tôi.
Trung tuần tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 12 (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ Hình bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt.
*
Qua lời bạt ta thấy Hà Tông Quyền đánh giá rất cao bài dịch của Phan Huy Thực. Trước Phan Huy Thực cũng đã có người dịch “Tỳ bà hành”. Trên tạp chí Văn học số 4/1975, Trần Thị Băng Thanh cho biết đã tìm được một bản dịch chép trong cuốn Thạch Động tiên sinh thi tập. Sau Phan Huy Thực, Phan Văn Ái cũng dịch “Tỳ bà hành” thành hai bài: một bài theo thể thất ngôn trường thiên, một bài theo thể thất ngôn bát cú. Trên tạp chí Nam Phong thỉnh thoảng cũng có sưu tầm được một vài bài dịch không đề tên người dịch. Tuy nhiên những bài xuất hiện trước và sau bản dịch của Phan Huy Thực đều không có mấy tiếng vang và đã nhanh chóng bị quên lãng. “Tỳ bà hành” được phổ biến rộng rãi và xem như một di sản văn học quí giá của Việt Nam chủ yếu là thông qua bản dịch của Phan Huy Thực. Nghệ thuật hát ca trù tồn tại đã lâu đời và từ khi có bài dịch “Tỳ bà hành” của Phan Huy Thực thì nó đã lan nhanh và đã trở thành một điệu hát trữ tình, giàu chất thơ, nhạc điệu, làm phong phú và bổ sung thêm cho hàng chục làn điệu ca trù khác trong các ca quán thời xưa. Những người mê ca trù trước đây thường thuê thuyền đón ả đào hát “Tỳ bà hành” trong những đêm trăng huyền ảo để thưởng thức và làm sống lại nguồn cảm xúc của nhà thơ với người ca nữ trên bến nước Tầm Dương.
“Tỳ bà hành” không những là nguồn cảm hứng cho những nhà Nho tài tử và các bậc tao nhân mặc khách trước đây như Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh… mà cả những thi nhân hiện đại cũng mượn trăng nước Tầm Dương đưa vào tác phẩm của mình. Nhà thơ tình Xuân Diệu thì “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người” hoặc “Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi”, Vũ Hoàng Chương cũng than “Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu”, nữ sĩ Ngân Giang thì “Bến Tầm Dương trăng nước một con thuyền, ngán tình canữ” và nhà thơ chân quê Nguyễn Bính thì dành Cây đàn tì bà cho một chuyện thơ dài.
Bài dịch “Tỳ bà hành” của Phan Huy Thực là một kiệt tác đã có những câu thần bút làm say đắm bao thế hệ các nhà thơ. Xuân Diệu cũng đã phải thốt lên: “Ai đã đọc bản dịch ‘Tỳ bà hành’ quên những đoạn nào thì quên, thậm chí nếu quên cả bài, thì bốn câu mở đầu cũng không quên được”.
Bốn câu mở đầu đó là:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Nguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét như sau khi ông so sánh mấy câu trên đây với câu thơ của Bạch Cư Dị:
“Mới đầu chúng ta thấy có cái gì khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản: Tầm Dương giang đầu dạ tống khách không buồn, không vắng vẻ, không mông lung bằng Bến TầmDương canh khuya đưa khách. Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ do chữ dạ dịch ra là canh khuya. Dạ (đêm) không gợi ý nhiều bằng canh khuya. Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt ở chỗ đó.
Đọc câu thơ thứ hai: Phong diệp địch hoa thu sắt sắt và câu dịch Quạnh hơithu lau lách đìu hiu thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều nhờ những chữ lau lách đìu hiu, cả chữ quạnh, chữ hơi nữa, vì tôi thấy lau lách buồn hơn địch hoa;hơi thu, đìu hiu gợi cảm hơn là thu sắt sắt.
Bài dịch “Tỳ bà hành” của Phan Huy Thực là một tác phẩm toàn bích, và có lẽ cũng vì thế mà Tản Đà tài hoa cũng không dịch lại bài này và nhà thơ đã chọn một bài trường thiên nổi tiếng khác của Bạch Cư Dị là bài “Trường hận ca” và ông cũng đã thành công.
(Tác giả hiện làm việc tại Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.)
[1]Lấy hai câu dịch của Phan Huy Thực để điển đạt ý “ngân bình thiết kỵ”.
I don’t know exactly how and when my liking for poetry began. The seed of my love for Wordsworth and Byron must have been sowed during my collegiate days.
“The Daffodils” is one of the best poems that Ms Hue has introduced to us. Three years passed, but the poem has stayed in my mind since the morning she recited it in our English Literature class. It has made a great impression upon me. How regretful it would be if this poem were not recommended to to the poetry buff.
“The Daffodils” known as “I Wandered Lonely As A Cloud” is a famous poem written in 1804 by William Wordsworth. Daffodils is one of the most popular poems of the Romantic Age, unfolding the poet’s excitement, love and praise for a field blossoming with daffodils. It was inspired by an April 15, 1802 event, in which Wordsworth and his sister, Dorothy, came across a “long belt” of daffodils on a walk near Ullswater Lake in England. This poem was first published in 1807, and a revised version was released in 1815.
I wander’d lonely as a cloud
That floats on high o’er vales and hills
When all at once I saw a crowd,
A host of golden daffodils,
Beside the lake, beneath the trees
Fluttering and dancing in the breeze.
Continuous as the stars that shine
And twinkle on the milky way,
They stretched in never-ending line
Along the margin of a bay:
Ten thousand saw I at a glance
Tossing their heads in sprightly dance.
The waves beside them danced, but they
Out-did the sparkling waves in glee:
A poet could not but be gay
In such a jocund company!
I gazed – and gazed – but little thought
What wealth the show to me had brought:
For oft, when on my couch I lie
In vacant or in pensive mood,
They flash upon that inward eye
Which is the bliss of solitude!
And then my heart with pleasure fills,
And dances with the daffodils.
Just reading the first verses, we can feel the time and space William wrote The Daffodils. The inspiration for this poem may have been drawn from a walk he took with his sister Dorothy around Lake Ullswater.
“I wander’d lonely as a cloud
That floats on high o’er vales and hills …
… Beside the lake, beneath the trees”
The poet was wandering in the forest and enjoying the fascinating nature around him, when suddenly he saw a crowd of golden daffodils by the lakeside. The daffodils appeared so beautifully that he was compelled to gaze at these flowers playing with pleasure in the wind.
His sister Dorothy later wrote in her journal as a reference to this walk: “I never saw daffodils so beautiful they grew among the mossy stones about and about them, some rested their heads upon these stones as on a pillow for weariness and the rest tossed and reeled and danced and seemed as if they verily laughed with the wind that blew upon them over the lake, they looked so gay ever dancing ever changing…”
How glorious and plentiful these daffodils were! Maybe this was also the first time he had come across such an immense field of daffodils along the shore. It was impossible for us to count them, but the author could still feel how many flowers were stretching as far as the eye can see:
“Ten thousand saw I at a glance”… (Hyperbole)
“They stretched in never-ending line
Along the margin of a bay…
The figures of simile and metaphor are also subtly used and it is not very hard for us to find them in the poem. The golden daffodils were compared to the stars shining and twinkling on the galaxy; and enjoying themselves in a happy dance.
“Continuous as the stars that shine
And twinkle on the milky way…” (Simile)
Though the lake’s sparkling waves danced beautifully, the daffodils seemed to do much better than them, in its pleasure.
“The waves beside them danced, but they
Out-did the sparkling waves in glee”… (Comparison/Personification)
The poet felt happy and pleasant in the meanwhile to see golden flowers smiling in the sunshine. He put his loneliness aside and mingled with the beautiful sight. To him, the daffodil’s charm was a great gift and no fortune was as wonderful as the beauty granted by the God:
“I gazed – and gazed – but little thought
What wealth the show to me had brought”… (Metaphor)
In the description of the daffodils, William used quite a lot of literary devices and it was these figures that helped us understand more about the vivid picture he draw and the way he connected with the nature.
“I wander’d lonely as a cloud
That floats on high o’er vales and hills…” (Simile)
“Fluttering and dancing in the breeze…” (Personification)
“Tossing their heads in sprightly dance…” (Personification)
“The waves beside them danced, but they
Out-did the sparkling waves in glee…” (Comparison/Personification)
Through characterized daffodils, we could find that nature had its own soul. William lifted him out of his soul and placed him in a higher state in which the soul of nature and the soul of man were united into a single harmony. Apparently, he felt dazed with so many daffodils around him and there was no limitation between his vision and the long belt of golden flowers.
Many years later, the daffodil’s beauty still haunted William. Whether he stayed in empty or thoughtful mood, the images of daffodils came to mind and flashed upon his inner eyes.
“They flash upon that inward eye
Which is the bliss of solitude!” (Oxymoron)
The memory of the daffodils was etched in the author’s mind and soul to be cherished forever. When he was feeling lonely, dull or depressed, he thought of the daffodils and cheered up. These flowers seemed to be emerging before him, far and wide. Then his loneliness and sorrow seemed to vanish; and he desired to dance with the daffodils.
“And then my heart with pleasure fills,
And dances with the daffodils.”
The full impact of the daffodil’s beauty (symbolizing the beauty of nature) did not strike him at the moment of seeing them, when he stared blankly at them but much later when he sat alone, sad and lonely and remembered them. Thanks to the closing of the last stanza, we can get more reason why William wrote the poem. His impression at the daffodils would never fade in his mind, and it was the amazing motivation for him.
“For oft, when on my couch I lie
In vacant or in pensive mood,
They flash upon that inward eye…”
We can point out that William’s state was changing in a slight way. He was not alone any longer, yet he probably thought that he would be stronger if he made a contrast between a lonely traveler and happy daffodils. This simple but effective way seems to take hold on us, and then each time we read this poem, we can see the harmonious beauty of the poet and the long belt of golden daffodils and enjoy their brightness.
This poem helps us get into our head how much love and admiration William gives to Nature. He would like to call us to come back to the nature and enjoy it. Moreover, at any rate William could make us realize that what we feel at the beauty of golden daffodils is the way they speak to us, via their own soul.
As for me, the Daffodils has touched my soul very deeply
MỘT VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “HOA THỦY TIÊN”
Tôi không biết đích xác như thế nào và khi nào tôi bắt đầu đem lòng yêu thích thơ ca. Chắc hẳn những hat giống cho tình yêu Worsdsworth và Byron… đã được gieo trong những ngày của đời sinh viên của tôi.
“Hoa Thủy Tiên” là một trong những bài thơ hay nhất mà cô Huệ đã giới thiệu cho chúng tôi. Ba năm đã trôi qua, và bài thơ vẫn còn ở trong tâm trí tôi kể từ buổi sáng mà cô đọc cho chúng tôi trong giờ Văn học Anh. Bài thơ để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Thật đáng tiếc nếu không giới thiệu bài thơ này đến bạn đọc yêu thơ ca.
“Hoa Thuỷ Tiên” còn được biết đến với tên khác “Tôi Phiêu Du Như Áng Mây Trôi” là một bài thơ nổi tiếng được William Wordsworth sáng tác năm 1804. Đây là một trong những bài được yêu thích nhất của thời kỳ văn học lãng mạn, thể hiện hứng thú, tình yêu, và chiêm ngưỡng của nhà thơ trước một cánh đồng rực rỡ Thủy tiên vàng. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một sự kiện xảy ra ngày 15 tháng Tư năm 1802, khi Wordsworth cùng chị gái mình, Dorothy, tình cờ nhìn thấy một thảm hoa Thủy tiên nhân một cuộc dạo chơi gần hồ Ullswater. Bài thơ được giới thiệu lần đầu tiên năm 1807, và được tái bản năm 1815.
Như đám mây phiêu diêu đơn độc
Trôi bồng bềnh trên thung lũng, núi đồi
Ồ phía dưới trải dài khắp muôn nơi
Hoa Thuỷ tiên nở vàng rực rỡ
Bên bờ hồ, và bên dưới tán cây
Cùng thổi sáo, khiêu vũ với gió nhẹ
Và cứ thế như sao trời toả sáng
Lấp lánh trên dòng sông Ngân bạt ngàn
Hoa trải dài xa tít tắp muôn nơi
Và bất chợt, bên bờ hồ tôi thấy
Mười nghìn hoa Thuỷ tiên vàng khoe sắc
Uốn mình theo điệu vũ luân sống động
Bên Thuỷ tiên, từng con sóng nhảy múa
Thủy tiên càng toả sáng trong hân hoan
Một bài thơ không thể tả hết lời
Nhưng niềm vui bên bạn bè – có thể
Tôi ngắm nhìn và rồi chợt nghĩ đến
Điều tuyệt vời bên Thủy tiên đem lại
Và mỗi tối khi nằm trên trường kỷ
Khi lơ đãng hay lúc trầm tư
Thuỷ tiên lại hiện về trong tâm trí
Đó chính là niềm vui trong cô đơn
Và khi ấy tim tôi tràn cảm xúc
Nhảy múa cùng những đoá Thuỷ tiên xinh.
Đọc những khổ thơ đầu tiên, ta có thể cảm nhận được khoảng thời gian và không gian William viết bài thơ “Hoa Thủy Tiên” này. Cảm hứng bài thơ có thể từ một lần dạo chơi cùng người chị gái Dorothy bên hồ Ullswater.
“Như đám mây phiêu diêu trong đơn độc
Trôi bồng bềnh trên thung lũng, núi đồi….
…..Bên bờ hồ, phía dưới những tán cây”
Khi đang thơ thẩn trong rừng và ngắm nhìn cảnh đẹp tuyệt quanh mình, chợt người thi sĩ nhìn thấy một thảm hoa Thuỷ tiên vàng cạnh hồ nước. Hoa Thuỷ tiên đẹp đến nỗi nhà thơ phải đứng lại ngắm nhìn nhứng đóa hoa này hòa mình trong gió.
Chị gái William, Dorothy, sau này đã ghi lại trong nhật ký như một gợi nhớ rằng: “Tôi chưa từng thấy những đoá hoa Thuỷ tiên nào đẹp đến vậy. Chúng mọc xen kẽ nhau giữa những tảng đá phủ đầy rêu, một vài bông hoa ngả cánh lên những phiến đá ấy như thể đang tựa đầu vào gối để xua đi sự mệt mỏi, những đóa khác thì tung mình uốn lượn, nhảy múa như thể chúng cười đùa với những cơn gió thoảng trên mặt hồ, những bông hoa trông thật vui vẻ, cứ mãi nhảy múa, cứ mãi rập rờn…”
Những bông Thuỷ tiên ấy thật là rực rỡ và nhiều biết bao! Cũng có thể đây là lần đầu tiên nhà thơ bắt gặp một cánh đồng hoa Thuỷ tiên rộng thênh thang, trải dài theo bờ hồ đến vậy. Thật không thể đếm nổi bao nhiêu bông hoa, nhưng tác giả vẫn cảm nhận được thảm hoa ấy trải dài bất tận phía chân trời xa.
“Và bất chợt, bên bờ hồ tôi thấy
Mười nghìn hoa Thuỷ tiên vàng khoe sắc (Cường điệu hoá)
Uốn mình theo điệu vũ luân sống động”
Phép so sánh và ẩn dụ cũng được tác giả sử dụng thật tinh tế, và chẳng khó cho ta tìm thấy trong bài thơ này. Những bông Thuỷ tiên vàng được ví như những vì sao toả sáng lấp lánh trên dải ngân hà, đắm mình trong vũ điệu hạnh phúc.
” Và cứ thế như sao trời toả sáng
Lấp lánh trên dòng sông Ngân bạt ngàn” (phép so sánh)
Dẫu những con sóng lóng lánh/bạc đầu của mặt hồ khiêu vũ đã đẹp rồi, nhưng dường như hoa Thuỷ tiên còn tuyệt hơn thế nữa, trong niềm hân hoan của mình,
“Bên Thuỷ tiên, từng con sóng nhảy múa
Thủy tiên càng toả sáng trong hân hoan” (sự so sánh và nhân hoá)
Thi nhân cũng cảm thấy thật hạnh phúc và dễ chịu khi ngắm nhìn những đóa thuỷ tiên vàng hàm tiếu dưới ánh nắng mai, và gạt nỗi trống trải sang một bên để hoà mình vào cảnh đẹp. Với nhà thơ, vẻ đẹp của hoa Thuỷ tiên là một món quà tuyệt vời và không có tài sản nào tuyệt vời bằng món quà mà Chúa đã ban tặng cho:
Tôi ngắm nhìn và rồi chợt nghĩ đến
Điều tuyệt vời bên Thủy tiên đem lại
Khi miêu tả những bông hoa thuỷ tiên, William đã sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ và chính những biện pháp này giúp chúng giúp ta hiểu sâu hơn về bức tranh rực rỡ mà tác giả phác họa cũng như cách nhà thơ giao tiếp/hòa mình với thiên nhiên
“Như đám mây phiêu diêu trong đơn độc
Trôi bồng bềnh trên thung lũng, núi đồi” (So sánh)
Cùng thổi sáo, khiêu vũ với gió nhẹ (nhân hoá)
“Bên Thuỷ tiên, từng con sóng nhảy múa
Thủy tiên càng toả sáng trong hân hoan” (so sánh/nhân hoá)
Qua những bông hoa Thuỷ tiên được nhân cách hóa, ta có thể nhận ra rằng thiên nhiên mang tâm hồn riêng của mình. William đã thoát ra khỏi tâm hồn và đặt mình vào một trạng thái cao hơn, nơi mà ở đó hồn thiên nhiên và hồn người như được hòa quyện vào nhau. Dường như là, nhà thơ cảm thấy mê hồn bởi quá nhiều bông hoa Thuỷ tiên quanh mình và không có giới hạn nào giữa tầm nhìn của nhà thơ với thảm hoa vàng rực rỡ đấy.
Nhiều năm về sau, vẻ đẹp của hoa Thuỷ tiên vẫn ám ảnh William. Dẫu cho có cảm thấy trống vắng hay trầm tư, nhưng hình ảnh của hoa Thuỷ tiên vẫn hiện lên trong tâm trí và loé sáng trong con mắt tâm tưởng nhà thơ.
Cô đơn phiền muộn dường như tan biến, rồi nhà thơ trở nên khao khát múôn được khiêu vũ cùng với Thuỷ tiên vàng
Thuỷ tiên lại hiện về trong tâm trí
Đó chính là niềm vui trong cô đơn!” (phép nghịch hợp)
Kí ức về hoa thuỷ tiên đã khắc sâu trong tâm trí và tâm hồn nhà thơ và mãi mãi được ấp ủ. Khi cảm thấy cô đơn, buồn bã hay tuyệt vọng/chán chường, tác giả lại nghĩ đến hoa thuỷ tiên và cảm thấy vui trở lại. Những bông hoa ấy dường như hiện lên trước mắt ông, rộng mênh mông. Nỗi cô đơn và phiền muộn dường như tan biến, và nhà thơ lại muốn nhảy múa cùng những đóa thủy tiên.
“Và khi ấy tim tôi tràn cảm xúc
Nhảy múa cùng những đoá thuỷ tiên xinh.”
Tác động trọn vẹn của vẻ đẹp của hoa Thuỷ tiên (tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên) thực ra không gây ấn tượng với thi sĩ ngay khoảnh khắc nhìn thấy chúng, khi ông ngắm nhìn sững sờ, mà là những lúc tác giả ngồi một mình, cô đơn và nhớ về hoa Thủy tiên. Nhờ khổ thơ cuối, ta có thể hiểu lý do William viết nên bài thơ này. Ấn tượng về hoa Thủy tiên sẽ không phai mờ trong tâm trí, và đấy cũng là một thôi thúc tuyệt vời đối với nhà thơ.
Và mỗi tối khi nằm trên trường kỷ
Khi lơ đãng hay lúc trầm tư
Thuỷ tiên lại hiện về trong tâm trí
Có thể thấy rằng tâm trạng của William đang thay đổi một cách nhẹ nhàng. Dù không còn thấy cô đơn nữa, nhưng nhà thơ vẫn nghĩ rằng mình sẽ mạnh mẽ hơn nếu tạo ra sự tương phản giữa người lữ hành cô đơn với những đoá hoa thuỷ tiên hạnh phúc. Biện pháp đơn giản nhưng đầy hiệu quả này dường như có tác động lớn đến chúng ta, và mỗi khi đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận vẻ đẹp hài hoà của nhà thơ và thảm thuỷ tiên vàng; và tận hưởng vẻ rực rỡ đấy.
Bài thơ giúp ta nhận ra tình yêu và lòng ngưỡng mộ mà William dành cho thiên nhiên phong phú và sâu đậm biếtdường nào. Nhà thơ kêu gọi ta hãy trở về và tận hưởng thiên nhiên. Hơn nữa, ở một mức độ nào đấy, William giúp ta nhận thấy rằng những gì chúng ta cảm nhận về vẻ đẹp của những bông hoa thuỷ tiên vàng chính là cách những bông hoa nói chuyện với chúng ta, bằng chính tâm hồn mình.
Với riêng tôi, bài thơ đã chạm vào cõi sâu thẳm trong hồn tôi
Chào các bạn,
Bài thơ song ngữ sau đây là thành quả lao động cực nhọc của các bạn trong mục English Discussion tuần rồi. Chị Kiêm Yến và anh Quan Jun dịch bài thơ Regrets của mình, với Viên Hy dịch nhưng không post vì “dịch ra không có vần” 🙂 (Thực ra trong ngôn ngữ đã có sẵn âm thanh, đâu cần phải theo nhịp điệu và âm vận cổ điển thì mới vận dụng được âm thanh của ngôn ngữ. Có nhiều cách sắp xếp ngôn ngữ để vận dụng âm thanh).
Mình đã bỏ nhiều thời gian phân tích cách dịch của chị Yến và anh Quân, rồi dùng 2 bải dịch của hai bạn, cùng với biên tập của mình, hòa trộn thành sản phẩm cuối mình. Mình nghĩ là một người dịch, dù người đó là ai, thì khó mà đạt được phẩm chất của bản dịch này.
Post đây để chia sẻ với các bạn yêu thơ nhưng không theo dõi mục Daily English Discussion. Các bạn cho the DED Gang một tràng pháo tay nhé.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
.
Regrets
I regret the days and months we were together
When the sun was bright
the tamarind trees green
and the bomb explosions the city’s routine
When all I wanted was to hold you tight
and place a slight kiss on your lips
When the world was so huge
that life was closer to death than Saigon to Hanoi
or you to me
The fear of the unknown
beyond the first kiss
was larger than my valor
(though I wasn’t at all bothered
by the nightly exploding rockets)
Those days
gray monsoons
red flares
quiet eyes
wet hair
Love rolling in thunders in the heart
And I just wanted to kiss you slightly on the lips
Why didn’t I?
TDH
.
Hối tiếc
Anh hối tiếc tháng ngày bên nhau
Thuở mặt trời sáng
vòm me xanh
và bom nổ hàng ngày trong thành phố
Thuở anh chỉ muốn siết em thật chặt
và hôn nhẹ môi em.
Thuở thế giới rộng đến nỗi
sự sống gần cái chết hơn Sài Gòn gần Hà nội
hay anh gần em
Cơn sợ hãi mơ hồ
sau nụ hôn đầu
còn lớn hơn dũng cảm trong anh
(dù anh chẳng chút xao lòng
bởi tầm đạn nổ đêm đêm)
Những ngày tháng ấy
những cơn mưa xám
hỏa châu đỏ
mắt thầm
tóc ướt
Hi everyone,
Hey, you guys, the talented Daklak Gang, the poets, and the poetry lovers out there, could you do me a personal favor.
Below is a poem entitled “Regrets”, which I wrote in English in 2000 and have edited it three times since.
Sometimes I wanted to translate it into Vietnamese, but every time I tried to start, I backed out. For some reason, I am not too excited about translating my own stuff, although I am more ready with other people’s writings.
So could you kindly translate this poem and make it into a beautiful Vietnamese piece for me to keep.
Thanks a million 🙂
Hoanh
.
Regrets
I regret the days and months we were together
When the sun was bright
the tamarind trees green
and the bomb explosions the city’s routine
When all I wanted was to hold you tight
and place a slight kiss on your lips
When the world was so huge
that life was closer to death than Saigon to Hanoi
or you to me
The fear of the unknown
beyond the first kiss
was larger than my valor
(though I wasn’t at all bothered
by the nightly exploding rockets)
Those days
gray monsoons
red flares
quiet eyes
wet hair
Love rolling in thunders in the heart
And I just wanted to kiss you slightly on the lips
Trong một lần giúp anh Ái tìm tác giả của bài thơ “Vô Đề” mình đã vô tình đọc được bài thơ “Tương kiến thời nan biệt diệc nan” của Lý Thượng Ẩn, mặc dù bài thơ này không đúng với bài thơ mà anh Ái cần tìm nhưng mình vẫn check rất nhiều tài liệu về bài thơ, và hôm nay mình xin được phép gửi đến các bạn và các anh chị trong ĐCN phần dịch phân tích về bài thơ này nhé, chúc mọi người một ngày tươi sáng
Lý Thượng Ẩn là một nhà thơ vào thời cuối của nhà Đường, đương thời ông cùng Đỗ Mục ngang danh. Nhưng, nếu xét về mặt ảnh hưởng đến đời sau thì ông lại vượt trội hơn hẳn Đỗ Mục. Cống hiến lớn nhất của ông trong lịch sử thơ ca, là làm phong phú thêm nghệ thuật thơ trữ tình. Trong thơ của mình, ông thường dùng những từ ngữ thanh tao để cấu tạo nên hình tượng tốt đẹp, gửi gắm những tình cảm sâu đậm và những hàm ý ẩn giấu vào trong thơ, làm cho người đọc cảm nhận được những vẻ đẹp vừa uyển chuyển nhưng lại rất mông lung. Thất ngôn luật tuyệt được coi là loại tác phẩm thể hiện được phong cách đặc sắc này của ông, trong đó các tác phẩm thuộc thể loại “Vô Đề” (đa phần là thất ngôn cận thể) được coi là điển hình. Thể thơ này không phải nhất thời nhất địa mà đa phần viết về tình yêu, vì nội dung của bài hay vì một lý do nào đó không tiện nói ra hoặc khó khăn trong việc chọn chủ đề để đặt cho bài thơ nên tác giả thường gọi là “Vô Đề”. Sau đây mình sẽ giới thiệu với các bạn một tác phẩm”Vô Đề”-“Tương kiến thời nan biệt diệc nan” của Lý Thượng Ẩn nhé:
无题 Vô Đề Vô Đề -(Tương kiến thời nan biệt diệc nan)
相见时难别亦难, Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
东风无力百花残。 Đông phong vô lực bách hoa tàn.
春蚕到死丝方尽, Xuân tám đáo tử ti phương tận,
蜡炬成灰泪始干。 Lạp cự thành khôi lệ thủy can.
晓镜但愁云鬓改, Hiểu kính đản sầu vân tấn cải,
夜吟应觉月光寒。 Dạ ngâm ứng giác nguyệt quang hàn.
蓬山此去无多路, Bồng sơn thử khứ vô đa lộ,
青鸟殷勤为探看。 Thanh điểu ân cần vi thám khán.
(phiên âm-Kiều Tố Uyên)
Khó gặp nhau mà cũng khó xa,
Gió xuân đành để rụng trăm hoa.
Con tằm đến thác tơ còn vướng,
Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa.
Sáng ngắm gương buồn thay mái tuyết,
Đêm ngâm thơ thấy lạnh trăng ngà.
Bồng lai tới đó không xa mấy,
Cậy với chim xanh dọ lối mà.
(dịch thơ-Khương Hữu Dụng và Tương Như)
Bài thơ này, thông qua lời nói của một người con gái để viết lên tâm trạng khi yêu. Trong đau thương, thống khổ nhưng vẫn luôn thể hiện được tình yêu nóng bỏng, khát vọng, kiên nhẫn… danh giới tình cảm sâu đậm dai dẳng, và rất phong phú.
Hai câu đầu, viết về mối tình trắc trở không có hạnh phúc và tâm trạng trữ tình của người con gái: vì gặp phải những trở ngại lớn, đôi tình nhân đã không còn cơ hội gặp được nhau, nỗi thống khổ vì xa cách làm cho người con gái này khó có thể chịu đựng được. Chữ “别” tức “biệt” trong câu đầu không phải chỉ lời nói chia tay trong hiện tại, mà chỉ sự xa cách trong quá khứ. Hai chữ “ 难”, chữ thứ nhất chỉ cơ hội gặp nhau khó, chữ thứ hai chỉ nỗi thống khổ khó có thể chịu đựng được. Các bậc tiền bối trong thơ đã từng viết “别日何易会日难” tức “Biệt nhật hà dị hội nhật nan” hay “别易会难得” tức “Biệt dị hội nan đắc”…đều nhấn mạnh sự khó khăn trong việc gặp lại, và nỗi khổ khi phải biệt ly.
Nhưng Lý Thượng Ẩn đã tiến xa hơn một bước trong việc bộc bạch: vì “tương kiến thời nan” cho nên “biệt diệc nan”- khó có thể cắt đứt, thống khổ khó có thể chịu đựng. Nhà thơ trong cùng một câu đã sử dụng hai lần từ “nan” tức”khó”, sự xuất hiện của chữ “nan” thứ hai vì trùng lập nên tạo cho người đọc có cảm giác đột ngột, nhưng thông qua đó lại có thể thấy được đây là sự biệt ly không có ngày gặp lại. Trạng thái đau khổ triền miên này người đọc không thể cảm nhân được trong câu “biệt dị hội nan đắc” nhưng trong “tương kiến thời nan biệt diệc nan” thì lại rất rõ.
Cách dùng cảnh vật để phản ánh cảnh ngộ và tình cảm của con người dưới ngòi bút của Lý Thượng Ẩn là rất thường gặp, ta có thể cảm nhận được điều đó ngay trong bài thơ này trong việc phân tích câu thứ hai: Người con gái chữ tình này đã bị tổn thương đến mức vậy, lại đối mặt với cảnh vật vào cuối mùa xuân, tất nhiên càng làm người con gái này đau lòng và khó quên. Vào tiết cuối xuân, gió đông thổi lực không mạnh, trăm hoa tàn lụi, và hương sắc của mùa xuân cũng dần mất theo, sức người trước cảnh vật đó cũng không có cách nào cứu vãn được, lại thêm cảnh ngộ bất hạnh của bản thân và vết thương trong tâm linh, người con gái này cũng trôi theo mùa xuân và lụi tàn giống những bông hoa ngoài kia. Câu “Đông phong vô lực bách hoa tàn”, vừa miêu tả cảnh thiên nhiên, lại vừa phản ánh tâm trạng của người con gái trữ tình này, người vật giao nhau, tâm linh và tự nhiên đã kết hợp với nhau một cách tinh vi.
Bốn câu tiếp theo viết về tình cảm uẩn khúc một cách rõ nét hơn. Chữ “丝” tức “ti” trong câu “Xuân tám đáo tử ti phương tận” có cách đọc giống với chữ “思” tức “tư” nên chữ “ti” ở đây ngụ ý chỉ tương tư. Ý của toàn câu là chỉ sự tưởng nhớ của người con gái đến đối phương, giống như con tằm chỉ khi nào nhả hết tơ đến khi chết mới chịu dừng.
“Lạp cự thành khôi lệ thủy can” là một cách tự ví von bản thân, vì không được hội tụ nên đau khổ, nỗi đau này kéo dài mãi không kết thúc giống như nước mắt của cây nến chỉ đến khi nào nến cháy hết thành tro mới chịu thôi. Tưởng nhớ trong vô tận, mọi thứ trước mắt đều là vô vọng, do đó, người con gái này đã để cho nỗi đau của mình trôi theo dòng đời. Mặc dù biết là vô vọng nhưng người con gái này sống chết vẫn tưởng nhớ đến đối phương, và nguyện dành quãng đời còn lại của mình để yêu người đó.
Do đó trong hai câu này vừa thể hiện nỗi đau và bi thương trong thất vọng, lại vừa thể hiện tình yêu nóng bỏng và lòng kiên nhẫn theo đuổi đến cùng.Theo đuổi ở đây là vô vọng, nhưng trong vô vọng vẫn quyết tâm theo đuổi, do đó theo đuổi ở đây cũng đã được Lý Thượng Ẩn nhuộm màu bi quan. Những tình cảm này hình như tuần hoàn trong vô tận, khó có thể đoán nó sẽ dừng lại ở đâu. Nhà thơ chỉ thông qua hai hình ảnh để so sánh đã diễn tả được trạng thái tâm lý phức tạp của người con gái, qua đó có thể thấy khả năng liên tưởng của nhà thơ phong phú đến mức nào.
Trong câu năm: “云鬓改” tức “vân tấn cải”, chỉ người con gái bị nỗi đau khổ giày vò nên đêm đến xoay ngang xoay dọc vẫn không ngủ được, đến mức tóc mái cũng rụng, dung mạo tiều tụy. “晓镜”tức “hiểu kính” chỉ sáng sớm dậy soi gương phát hiện tóc bị rụng nên sầu khổ, mà ở đây Lý Thợng Ẩn lại nhấn mạnh là “đản sầu”. Nếu chú ý các bạn sẽ phát hiện Lý Thượng Ẩn đã miêu tả một cách rất sinh động tâm trạng uẩn khúc của người con gái này. Bản thân vì đau khổ mà mất ngủ tiều tụy, sáng dậy vì phát hiện dung mạo tiều tụy mà đau khổ. Đau khổ trong đêm là vì tình yêu mà mình theo đuổi không thực hiện được, đến sáng hôm sau vì tiều tụy mà sầu, vì tình yêu mà hy vọng giữ được nét thanh xuân của mình. Nói tóm lại người con gái này vì tình yêu mà tiều tụy, vì đau khổ mà phiền muộn.
Đến câu thứ sáu “夜吟”tức “dạ ngâm”, người con gái từ bản thân mình đã tưởng tượng ra đối phương cũng đang đau khổ giống mình, đêm đến cũng mất ngủ và thường ngâm thơ để tưởng nhớ đến mình. Ở đây nhà thơ đã mượn hình ảnh lạnh lẽo của ánh trăng để phản ánh tâm trạng cô đơn, lạnh giá của người con trai. Và từ “应” tức “ứng” trong câu này là một điều ước đoán, lường trước đã được Lý Thượng Ẩn khéo léo đưa vào trong câu thơ để qua đó giúp người đọc hiểu rằng những tâm tư của đối phương đều là do người con gái tưởng tượng ra mà thôi.
Nhưng tại sao nhà thơ lại có ngụ ý như vậy, chẳng phải vì muốn thông qua sự chủ động trong tưởng tượng của người con gái để nói lên người con gái này đã thấu hiểu được hết những suy nghĩ, tâm tư của đối phương đó sao. Càng tưởng tượng cụ thể, nỗi nhớ càng sâu sắc, càng làm cháy lên khát vọng hội ngộ.
Vì biết hội ngộ là vô vọng nên người con gái đành phải thông qua sứ giả để thay mình đến thăm đối phương và đây cũng là nội dung của hai câu kết cục . Trong thơ thời Đường thường dùng tiên lữ để ví von với người bạn tình, Thanh Điểu là một nàng tiên, Bồng Sơn là một núi tiên trong thần thoại truyền thuyết, cho nên Lý Thượng Ẩn đã dùng Bồng Sơn tượng trưng cho nơi ở của người con trai, và dùng Thanh Điểu làm sứ giả thay cho người con gái. Lý Thượng Ẩn thông qua việc gửi gắm hy vọng vào sứ giả làm kết cục, chứ không thay đổi cảnh ngộ đau khổ “tương kiến thời nan” của người con gái, và đó là hy vọng trong tuyệt vọng, con đường phía trước vẫn là xa tít mù tắp. Bài thơ đã kết thúc tại đây, nhưng nỗi đau khổ và sự quyết tâm đeo đuổi tình yêu của người con gái đó thì vẫn tiếp tục.
Bài viết này phần phiên âm do mình dịch, còn phần thơ do Khương Hữu Dụng và Tương Như dịch.
Cảm ơn anh Ái nhiều vì đã tìm giúp em phần dịch thơ nhé.. À nếu các bạn có thể gửi lời dịch thơ thêm nữa cho bài thơ này thì rất hay.
Dưới đây là bài bài báo nhà thơ Vương Trọng vừa viết về bài thơ Lời Thỉnh Cầu ở Nghĩa Trang Đồng Lộc, mà anh viết năm 1995, khắc lên bia xi-măng năm 2002, mình dịch ra Anh ngữ năm 2005 (biên tập lại năm 2008), và khắc song ngữ lên bia đá tại Nghĩa Trang Đồng Lộc tháng 1 năm 2009.
Mình thăm Đồng Lộc tháng 5 năm 1995, trên một chuyến về thăm quê hương cụ Hồ tại Nghệ An, với một số Việt Kiều khác, do anh Nguyễn Ngọc Trân, trưởng Ban Việt Kiều Trung Ương tổ chức. Trên đường anh Trân cho xe ghé vào Đồng Lộc. Lúc đó mình hoàn toàn chẳng biết Đồng Lộc là gì cả.
Ấn tượng đầu tiên của mình là, đó là một vùng rất nghèo khổ, xác xơ, nóng đổ lửa… và nó làm cho mình có cảm giác buồn buồn vì cái nghèo của quê hương và cái khổ của dân quê. Mình vẫn luôn luôn như thế từ hồi 16, 17 tuổi.
Vào đến nơi, thấy mười ngôi mộ xi măng khiêm tốn nằm trên một ngọn đồi với vài bóng cây lưa thưa, giữa một vùng đồng khô cỏ cháy. Rồi từ từ hiểu chuyện, nhìn hố bom nơi các cô hy sinh, nhận biết rằmg các cô này cở tuổi mình hay có người chỉ sinh trước một hai năm, nhưng cuộc đời có quá nhiều khác biệt… làm cho mình thật là nhức nhối. Lúc đó mình “try to be connected” với các cô bằng cách nhờ anh Trân chụp một tấm ảnh mình ngồi bên cạnh một ngôi mộ. Tấm ảnh này có đăng trong báo Quê Hương (của Ban VKTW) sau chuyến đi đó.
Vì các cô trẻ mãi không già, cho nên mình luôn luôn có cảm tưởng các cô này là những người em gái bất hạnh của mình. Vì vậy, mình không quên các cô được những tháng năm sau đó. Hơn 10 năm sau, khi đọc nhật ký Đặng Thùy Trâm lần đầu, ý tưởng đầu tiên đến trong đầu mình là 10 cô gái Đồng Lộc.
Đến năm 2005, 10 năm sau khi anh Vương Trọng viết bài thơ và 3 năm sau khi nó được khắc vào bia xi măng, chị Diệu Ánh (admin của VNBIZ forum) trong một chuyến du hành trên quốc lộ Trường Sơn, ghé qua Đồng Lộc, thấy bài thơ, chụp và gởi cho mình. Mình dịch ngay ra tiếng Anh và post trên VNBIZ. Đây là bài thơ duy nhất mà mình ứa nước mắt rất nhiều lần trong khi dịch.
Đến đầu năm 2008 chị Diệu Ánh gặp chị Minh Lý, phóng viên Hà Tĩnh nhưng hiện sống ở Vũng Tàu, chị Minh Lý biết anh Vương Trọng. Thế là mình chỉnh sửa lại bài thơ một tí nữa rồi nhờ chị Diệu Ánh và Minh Lý chuyển đến anh Vương Trọng. Anh Vương Trọng nói chuyện với anh Thế Ban, sở Văn Hóa Thể Thao Hà Tĩnh. Sở quyết định khắc cả bài nguyên thủy lẫn bài dịch vào bia đá, thay bia xi măng đã hao mòn quá nhiều. Tháng giêng 2009, bia đá hoàn thành.
Mình đã viết một bài hồi tháng ba năm nay (2009) về bài thơ này để chia sẻ với các bạn. Hôm nay chúng ta nghe câu chuyện từ phía anh Vương Trọng. Bài này của anh Vương Trọng đã đăng trên Văn Nghệ Công An ngày 20 tháng 7 năm 2009.
Cám ơn anh Vương Trọng. Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
.
Bài thơ song ngữ ở Nghĩa Trang Đồng Lộc
Vương Trọng
Vương Trọng
Từ khi Ngã ba Đồng Lộc trở thành khu di tích lịch sử của Thanh niên xung phong cả nước, khách tìm đến nơi này mỗi ngày một đông, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên. Có người nói rằng, chỉ cần đến nơi này một lần, bài học về giáo dục truyền thống tự nhiên thấm vào người, và lớp trẻ có điều kiện để nhận thức được cái giá của độc lập, tự do.
Gần đây có nhiều bạn trẻ sau khi viếng thăm Ngã ba Đồng Lộc, ra Hà Nội có tìm gặp tôi để trò chuyện. Có người tôi quen biết từ trước, nhưng cũng có kẻ tôi mới được gặp lần đầu. Nguyên nhân là vì một bài thơ của tôi đã được khắc đá và dựng lên ở nghĩa trang này. Hơn nữa, bài thơ đó lại được dịch ra tiếng Anh, khắc trên tấm bia đá cao 2,5 mét, rộng 1 mét, mặt này là bài thơ Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc của tôi, mặt kia là bản dịch của ông Trần Đình Hoành, một Việt kiều ở Mỹ. Bởi vậy tôi muốn có đôi lời tâm sự với bạn đọc về chuyện này. Đài tưởng niệm Đồng Lộc
Mùa hè năm 1995, lần đầu tôi đến thăm nghĩa trang Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc. Mặc dù mười cô gái đã hy sinh trước đó 27 năm trời, thế nhưng khi đứng lặng trước hố bom đã giết các cô, khi thắp hương lần lượt cắm lên mười nấm mộ, cũng như khi chứng kiến những kỷ vật các cô để lại…, tôi tự nhủ phải viết một cái gì đấy để giải tỏa nỗi xúc động. Bút ký, tuỳ bút cũng có thể chuyển tải được cảm xúc này, nhưng vì trong đoàn còn có nhà văn Xuân Thiều, nhà văn Nam Hà, nên tôi nghĩ nên “nhường” văn xuôi cho hai vị cao niên này. Bởi thế trước mắt tôi chỉ còn một cửa hẹp là thơ.
Nhưng thơ về Đồng Lộc cũng không phải dễ, vì trước đó đã có nhiều người viết rồi, có bài khá nổi tiếng như của nhà thơ Huy Cận. Thế thì mình phải viết thế nào để không bị chìm lấp bởi những bài đã có. Sự hy sinh cùng một lúc của mười cô gái trẻ khi đang san lấp hố bom làm mọi người cảm động, nên khi nào trên mười ngôi mộ cũng có thật nhiều hương khói. Khi cắm những nén hương đang cháy lên mộ các cô, tôi tự hỏi, nếu mười cô gái hiển linh, họ sẽ nghĩ thế nào? Bức ảnh cuối cùng của 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc (Nhiếp ảnh gia Văn Sắc)
Qua tài liệu thu thập được, tôi biết số người hy sinh ở ngã ba này thật nhiều, riêng Trung đoàn phòng không 210 đã có 112 liệt sĩ đã hy sinh khi bảo vệ mảnh đất này. Thế mà họ không có bia mộ để thắp hương, bởi thịt xương họ đã hoà trộn vào đất. Thế là cái ý tưởng dùng lời mười cô gái trò chuyện với các đoàn khách thăm viếng được nẩy sinh, và tôi thấy thuận lợi khi muốn chở ý tưởng: mọi chính sách, chế độ đối với những người đã hy sinh, nghĩ cho cùng là vì những người đang sống. Bởi vậy, xây dựng cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc cũng là một cách thể hiện sự biết ơn đối với các liệt sỹ đã hy sinh.
Bài thơ có bốn khổ thì ba khổ đầu là lời mười liệt sĩ nhắc người đến nghĩa trang nên nhớ thắp hương cho những liệt sĩ mà thân xác đã tan trong đất, khuyên các em nhỏ nên trồng cây, các bạn cùng trang lứa cố gắng sản xuất. Còn các cô chỉ ước có vài cây bồ kết…
Bài thơ tôi viết và in lần đầu vào năm 1995, đến năm 1998 lại xuất hiện trong tuyển tập thơ về Đồng Lộc. Điều đáng nói là tập thơ này đã đến tay anh Nguyễn Tiến Tuẫn, là một trong ba anh hùng ở Đồng Lộc, thời mà mười cô gái hy sinh, anh đang phụ trách đơn vị Cảnh sát giao thông ở trọng điểm ác liệt này. Anh bảo rằng, anh bị bài thơ ám ảnh, và tự đặt cho mình phải làm một việc gì đó để giải toả sự ám ảnh này. Việc anh làm là lên huyện Hương Sơn tìm hai cây bồ kết con để đáp ứng lời thỉnh cầu của mười cô gái: ” Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang/ Cho mọc dậy vài cây bồ kết/ Hương chia đều trong hư ảo khói nhang”. Hai cây bồ kết anh trồng rất cẩn thận, hố đào to, phân tro nhiều nên tốt rất nhanh.
Bốn năm sau, năm 2002 thì hai cây bồ kết đã cao tới ba, bốn thước; cây lớn vào mùa thu đã nở hoa. Một lần trở lại thăm nghĩa trang đúng lúc gặp một đoàn khách, biết anh là người đã trồng hai cây bồ kết này, mọi người rất cảm phục và hỏi anh từ ý nghĩ nào mà làm được việc hết sức độc đáo và tuyệt vời này? Anh trả lời là từ cảm xúc một bài thơ, thế là họ hỏi anh có nhớ bài thơ đó không. Anh nói rằng bài thơ đó anh đã thuộc, nhưng không quen đọc thơ trước đám đông, anh hứa với họ là nếu lần sau quay lại thì thế nào cũng được đọc bài thơ đó ở đây. Mọi người nghe, kể cả người giới thiệu khu di tích, ai cũng nghĩ anh nói thế cho qua chuyện, ai ngờ anh bắt đầu ý định khắc bài thơ ấy lên đá. Điều trước tiên là phải liên hệ với Tỉnh đoàn Hà Tĩnh, đơn vị phụ trách khu di tích này. Nghe anh trình bày ý định khắc đá bài thơ đó, mọi người tán thành và coi đây là một việc làm văn hoá. Thế là chiều ngày 14 tháng 8 năm 2002, bia đá cỡ 80cm . 40cm với bài thơ 25 câu chia thành bốn khổ, được khắc sâu và tô màu sơn vàng rất dễ đọc đã dựng lên cạnh hai cây bồ kết bên nghĩa trang Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc. 10 Mộ
Mấy năm năm nay, nhiều tờ báo đã đăng bài về chuyện này, và có nhiều bài đã gây xúc động người đọc. Ông Trịnh Xuân Tòng là cán bộ giảng dạy trường đại học Cần Thơ, đã nghỉ hưu; sau khi đọc bài báo của Ngô Vĩnh Bình nói về chuyện bài thơ và hai cây bồ kết, ông đã bỏ công mấy tuần liền để vẽ một bức tranh cỡ lớn với nhan đề : Múa dưới trăng, nỗi vui mừng khi có cây bồ kết . Trong bức tranh, ông đã vẽ mười cô gái liệt sĩ ở ngã ba Đồng Lộc, khi trăng lên đã cùng nhau nhảy múa, năm cô leo lên cây, năm cô múa trên đất. Trong bức tranh lớn đó, ông trích bốn câu thơ làm đề từ:
Ngày bom vùi, tóc tai bết đất
Nằm xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết…
Đặc biệt hơn, ông còn viết một bức thư cảm động Gửi mười em gái ngã ba Đồng Lộc. Bức tranh và bức thư này, báo QĐND đã giới thiệu trong số đặc biệt ra ngày 22- 12- 2002.
Gần đây tôi có dịp trở lại Đồng Lộc. Khác hẳn với quang cảnh tôi đã chứng kiến năm 1995, bây giờ ở khu di tích Đồng Lộc, đường sá rộng rãi, nhà cửa xây dựng khang trang, và đặc biệt cây cối quanh vùng tươi xanh như một vùng du lịch sinh thái. Không còn những vạt “cỏ may khâu nặng ống quần” khách đến thăm, không còn đồi Trọ Voi trọc lóc, lở lói. Nhiều cảnh tôi nhắc đến trong bài thơ đã lạc hậu so với bây giờ. 10 Cô
Đồng chí giới thiệu khu di tích hướng dẫn đoàn chúng tôi đi thắp hương trên từng nấm mộ và đốt những quả bồ kết khô. Mấy năm nay, nhiều đoàn khách đến thăm khu di tích này thường đem theo những chùm quả bồ kết khô để đốt sau khi thắp nhang. Người đầu tiên đốt bồ kết ở đây là nhà văn Nguyễn Thế Tường, quê Quảng Bình, công tác tại Tuần báo Văn nghệ. Tháng 10 năm 2002, anh Tường gặp tôi ở Tuần báo Văn nghệ, khi anh sắp vào nghĩa trang Đồng Lộc, anh hỏi tôi có nhắn gì không. Tôi nói rằng, hai cây bồ kết mới ra hoa nhưng chưa có quả, tôi muốn nhờ anh mua hộ tôi một chùm bồ kết, vào đó đốt để viếng mười cô gái. Anh đã làm thế, và ngạc nhiên, khi vừa đốt mấy quả bồ kết thì bát hương lớn bỗng hoá, cháy bùng lên, làm mọi người ngạc nhiên và anh gọi điện cho tôi ngay. Ngẫu nhiên hay tâm linh? Anh bảo rằng mọi người có mặt hôm đó, kể cả những người quản lý khu di tích, không ai nghĩ là ngẫu nhiên.
Tôi tới bia đá khắc bài thơ của mình thì thấy có nhiều em sinh viên đang xúm xuýt mở sổ chép thơ. Biết tôi là tác giả, nhiều em xin chụp ảnh lưu niệm và hỏi chuyện quanh bài thơ. Bằng vi tính, nét chữ khắc đẹp, chỉ tiếc cắt khổ phần đầu không thật chính xác, vì bài thơ của tôi gồm bốn khổ, khổ đầu sáu câu chứ không phải bốn câu như đã khắc. Tương đài Đồng Lộc, khi còn hoang vu, tháng 5 năm 1995, khi TĐH đến thăm
Sau đó không lâu, trong đoàn Việt kiều Mỹ về nước đến viếng nghĩa trang Đồng Lộc, có ông Trần Đình Hoành, một luật sư nhưng ham mê văn học, người đã từng dịch nhiều bài thơ của các nhà thơ Việt Nam ra tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ. Ông xúc động khi đọc bài thơ “Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc” và muốn truyền sự xúc động đó cho du khách nước ngoài nên đã dịch bài thơ này. Giám đốc sở Văn hoá và Du lịch Hà Tĩnh là nhà văn Đức Ban, người rất hiểu tác dụng của thơ văn vào cuộc sống, đã cho bài thơ và bản dịch đó hiển hiện lên bia đá như các bạn đã thấy vào sáng 17 tháng giêng năm 2009.
Nhân đây tôi chép lại bản tiếng Việt và tiếng Anh đã khắc trên hai mặt bia đó.
Ô. Trương Tấn Sang, Bộ Chính Trị, trong lễ khánh thành bia đá
Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc
– Mười bát nhang, hương cắm thế đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành phần cho đất
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp
Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi.
– Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa
Ơi các em tuổi quàng khăn đỏ
Bên bia mộ xếp hàng nghiêm trang quá
Thương các chị lắm phải không, thì hãy quay về
Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao vùng đất trống
Các chị nằm còn khát bóng cây che.
– Hai mươi bảy năm qua, chúng tôi không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm, lại trở về Đồng Lộc
Thương chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa ăn cuối cùng, mười chị em không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường.
– Cần gì ư ? Lời ai hỏi trong chiều
Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết
Hương chia đều trong hư ảo khói nhang.
Đồng Lộc, 5 – 7- 1995
Vương Trọng
.
Học sinh trường THCS Đồng Lộc A Request at Dong Loc Cemetery
That’s enough for ten bowls
The rest of incense, let’s save for others
We’re not the sole fallen ones
So much blood and bone was spent for Dong Loc
Memories, let’s spread evenly
Like grass in the valley, sunlight on the hill.
Look! Tongue-grass buds cling to the pants!
O you red-scarfed children standing straight by the tombs
You love us so much, don’t you?
Then, go home, find little plants
Plant them on Tro Voi Hill and on these bare lands
We’re so thirsty longing for some tree shades!
Twenty-seven years have passed, we haven’t grown a day
Three times changing bed, we’re now back in Dong Loc
Friends, if you love us, don’t cry!
Go back and tend the rice for better harvest
The last meal we ten had no rice
Just a handful of cassava, then out with hoes we went.
Our needs? One afternoon someone has asked
We’re not yet married and haven’t got a chance to love
When the bomb buried us all, our hair was enmeshed in dust
Lying here in these tombs, we haven’t got a chance to wash our hair
We ask that on the parched ground of this cemetery
Someone would grow some carob trees
That spread fragrance evenly in the ethereal incense smoke…
Dong Loc July 5, 1995
VUONG TRONG
Translated by TRAN DINH HOANH
( A Vietnamese Resident in The USA)
Trân Sa, hiện đang ở Canada, là thi sĩ mình rất ái mộ. Chị sinh ra và lớn lên ở Nha Trang, khu xóm mới, cũng cùng khu với và nhà bà thím mà mình ở trọ năm lớp 7 tại Trung Học Võ Tánh (ngày nay là Lý Tự Trọng).
Bài thơ này, mình đã phổ nhạc nhiều năm về trước (hình như khoảng 1992, và trong thập niên 90s mình hay đàn cho Phượng hát trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng). Mình dịch bài này ra tiếng Anh lần đầu năm 2000. Hôm nay lấy ra, mài dũa thêm một tí trước khi post.
Bài này có lẽ Trân Sa viết trong thập niên 80s hay đầu thập niên 90s, lúc liên hệ với Việt Nam còn chưa tốt, và các giấc mơ là những chuyến về thăm nhà thường xuyên cho mỗi người (dĩ nhiên là kể cả mình).
Chia sẻ cùng các bạn.
Hoành
. Rendezvous In Dream
In dream I rush back
No one is left
In the yard of the ancient vows
The moon etches my lone shadow
Not even a goodbye
Life’s too short for waiting
Turbulent times have taken all
Leaving me with a color-turning leaf
The past returns not
Autumn weighs down on the shoulders
All around is wild grass
For what is a shoe mark left?
In dream I miss the rendezvous
Waking up—sunlight has whitened the sky
On the pillow, the teardrop has just dried
Looking out… a sole piece of cloud flows
Looking out… yes, a sole piece of cloud flows
Translated by TDH
. Hẹn chiêm bao
Chiêm bao tất tả tôi về
Thấy không còn ai ở đó
Mảnh sân xưa đã hẹn thề
Trăng tôi còn in một bóng
Không cả vài lời chia biệt
Đời quá ngắn để chờ nhau
Ly loạn dành phần tất cả
Chừa tôi chiếc lá thay màu
Dĩ vãng không còn trở lại
Mùa thu nặng xuống hai vai
Bốn bề hoang tàn cỏ dại
Làm chi còn một dấu hài
Chiêm bao tôi đành lỗi hẹn
Tĩnh ra nắng trắng khung trời
Giọt lệ vừa khô trên gối
Nhìn ra một chiếc mây trôi
Nhìn ra… ừ, chiếc mây trôi
Văn học thời Đường được coi là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc. Đặc biệt thơ ca cổ điển trong giai đoạn này phát triển đến mức tột đỉnh, và được coi là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Trong lịch sử hơn 300 năm của nhà Đường, đã có hơn 48900 tác phẩm thơ ca được viết và lưu truyền đến tận ngày nay. Một lượng lớn các tác phẩm đó cũng đã làm hơn 2300 thi nhân được ghi danh trong sử sách. Ý tưởng được gửi gắm vào trong thơ của Đường thơ chủ yếu là kết hợp chủ nghĩa thực tiễn và chủ nghĩa lãng mạn, về hình thức có các dạng:
– Thất ngôn tứ tuyệt (tức bài thơ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ, thực chất là một bài “thất ngôn bát cú” đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối tạo thành),
– Ngũ ngôn tứ tuyệt (tức bài thơ có bốn câu, mỗi câu năm chữ, được biến thể từ bài thất ngôn tứ tuyệt: bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu),
– Ngũ ngôn bát cú (tức bài thơ có tám câu, mỗi câu năm chữ, được biến thể từ bài thất ngôn bát cú: bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành).
Trong đó thất ngôn bát cú được coi là dạng thơ chuẩn, và các dạng còn lại được coi là thơ biến thể.
Các thi nhân nổi tiếng vào thời Đường chủ yếu là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Lý Hạ, Đỗ Mục…. Do chịu ảnh hưởng của các luồng tư tưởng khác nhau (Nho giáo, Đạo giáo, hay Phật giáo), do đó phong cách Làm thơ của các nhà thơ đời Đường cũng rất khác nhau. Thơ của Lý Bạch thì mang phong cách phóng túng, còn Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị thì lại theo khuynh hướng hiện thực kết hợp với trữ tình nhiều hơn.
Thơ Đường súc tích, đa dạng, phong phú, không chỉ nói lên được tâm tình, khát vọng của bản thân mà còn vẽ lên được những thực hiện đời sống lúc bấy giờ.
Lý Bạch
Lý Bạch
Theo sử sách ghi lại thì Lý Bạch là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng (thời nhà Hán), sinh năm 701 tại Lũng Tây trong một gia đình khá giả, ngay từ nhỏ ông đã cùng cha của mình đi ngao du khắp nơi, được chứng kiến cuộc sống vất vả của người dân nghèo, vì thế trong ông hình thành tư tưởng không thích trốn quan trường và đến năm 16 tuổi ông đã chọn cuộc sống ẩn trên núi Đái Thiên.
Được 2 năm ông lại xuống núi và bắt đầu cuộc hành trình viễn du của mình dòng giã suốt 3 năm trời, khi đến Vân Mông ông đã cưới cháu gái của Hứa tướng, và cũng từ đó tiếng tăm thơ ca của ông đã vang rộng khắp nơi.
Đến năm 745 ông được người bạn thơ tiến cử vào cung để làm thơ hầu vua, nhưng được một thời gian do cách sống say xỉn, phóng túng ham chơi của mình ông đã bị mọi người trong triều ghét bỏ và thường nói xấu sau lưng, thấy vậy ông đã tự nguyện rời cung và tiếp tục cuộc sống ngao du đây đó khắp nơi.
Khoảng chừng 10 năm, sau đó ông lại về núi Lư ở ẩn. Được một thời gian ông lại về phủ của Vương Lân sống, do Vương Lân làm phản nên Lý Bạch cũng bị liên lụy và bị băt theo, ông đã bị đi đày khắp các vùng Động Đình, Tam Giác…sau đó được tha và đến năm 762 do tuổi già, sức yếu ông đã qua đời tại Đang Đồ.
Lý Bạch được người đời đặt danh là “诗仙” tức “Thi Tiên”. Ông là một người phóng khoáng, sôi nổi, nhiệt tình, tài hoa nhưng lại có phần gàn dở. Thơ ca của ông khí phách hào hùng nhưng lại rất phóng khoáng, ông thích dùng những từ ngữ sôi nổi để ca tụng phong cảnh núi non hùng vĩ của tổ quốc. Hiện các tác phẩm thơ ca của ông còn được lưu giữ khoảng hơn 990 bài, trong đó bài (Sắp mời rượu), (Hành lộ nan), (Tĩnh dạ tứ)…là những bài thơ tiêu biểu của ông và được mọi người truyền tụng.
Mời các bạn thưởng thức bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch:
Tĩnh dạ tứ
Đầu giường rọi ánh trăng soi,
Làm ta cứ ngỡ như là màn sương.
Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
Cúi đầu sao nhớ quê hương ngàn trùng.
.
(Bản dịch của Nguyễn Dương)
Đỗ Phủ
Đỗ Phủ
Cùng với Lý Bạch và Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ cũng là một trong những nhà thơ vĩ đại của Trung Quốc vào thời Đường. Ông được người đời mệnh danh là “诗圣” tức “Thư thánh”. Ông sinh năm 712 mất năm 770, xuất thân trong một gia đình quý tộc nhưng đã sa sút. Là một người ham học, có trí làm quan nên ông đã nhiều lần tới kinh đô để dự thi, nhưng đều không đỗ. Đến năm 755 Loạn An Lộc Sơn xảy ra khiến cho cuộc sống của ông phiêu bạt khắp nơi.
Ông đã tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc, nạn đói và những ngược đãi bất công của xã hội, do đó trong thơ của ông luôn thể hiện những đồng cảm về cuộc sống thống khổ của người dân và phản ánh những hiên thực bất công của xã hội lúc bấy giờ. Thơ của ông vào thời đó không được đánh giá cao lắm nhưng đến thế kỷ thứ 9 thì thơ của ông dần dần được chú ý và đến thế kỷ thứ 11 thì lên tới mức cực điểm. Hiện các tác phẩm của ông còn được lưu giữ khoảng hơn 1400 bài, trong đó tiêu biểu là các bài (Binh xa hành), (Xuân vọng), (Tam biệt), (Tam lại)…
Mời các bạn thưởng thức bài Xuân vọng của Đỗ PHủ:
Đổ Phủ
Xuân Vọng
Nước tàn sông núi còn đây;
Thanh xuân cây cỏ mọc đầy khắp nơi.
Cảm thời hoa cũng lệ rơi;
Chim kia cũng sợ hận người lìa tan.
Lửa phong ba tháng lan tràn;
Thư nhà đưa đến muôn vàng chắt chiu
Xoa đầu tóc bạc ngắn nhiều,
So le lởm chởm khó điều cài trâm.
.
1. Em như nốt nhạc rời thả rớt giữa đời tôi
Nên có những đêm khuya chợt giật mình thảng thốt
Ôm riêng giấc mơ hoa mà nghe hồn xa xót
Bản tình ca không tên âm ỉ, u hoài.
2 Em mang linh hồn hoang dại
Tình yêu cấu thành từ gai gốc rừng sâu
Ta bươn bả một đời nay nhìn lại
Nhận biết tim mình chằng chịt những đường khâu.
3 Là thượng đế, là thánh thần, là tạo hóa
Anh có một Chúa và có nhiều tên gọi khác nhau
Anh có niềm đau
Em! Một tên gọi, thế thôi, và chỉ thế!
4 Đừng cường điệu tình yêu
Đừng gọi em là thiên thần, là đức mẹ
Với anh em hoài hoài là đứa trẻ
Lầm lạc hoài đến chẳng hiểu lòng anh!
5 Tất cả chân thành anh gửi về em
Nên với mọi cuộc tình anh là thằng lừa dối
Ngày phán xét anh hoàn toàn vô tội
Chúa biết con tim chỉ thật có một lần!
Nguyễn Tấn Ái
Bài thơ Dạ Khúc của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đẹp và lãng mạn. Mình đã dịch ra tiếng Anh vài năm về trước. Hôm nay post ở đây để chia sẻ với các bạn. Và trong khi đọc, mời các bạn nghe Andre Rieu trình tấu violin với piano phụ họa, bản Dạ Khúc của Erico Tocelli (mà chị Loan Subaru đã giới thiệu trước đây).
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành.
.
Serenade
Was there an evening like that evening
On hot sands I dragged back
Long way, thirsty lips blistered
You came gently as the rain
Was there an evening like that evening
Love filled the heart
You came bringing your whole Spring
As bright and warm as flowering
Was there an evening you stopped playing
And gave me the burning kiss
The pain started since
As sweet as fresh grapes
Was there a dream-besieged evening
Your brows curved pouting
On the pillow you loosed sadness
Tangled like blue silk strands
Was there an evening now still living
The moon shone eternity
You vowed an offering
Of your whole life to me
Is there an evening like this evening
My room drowned in darkness
Silent am I a shadow
The flower withers, and you don’t know.
Translated by TDH
.
.
Dạ khúc
Có buổi chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thăm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
Cho tôi chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọt ngào như trái nho tươi
Có buổi chiều nao mộng mị vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi
Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời ngựời
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối giăng đầy
Anh lặng thầm như là cái bóng
Hoa tàn một mình em không hay
Hoàng Phủ Ngọc Tường
100 Bài Thơ Tình Chọn Lọc, tr. 175
Nhà XBGD, Hà Nội, 1994
Chú bé thì thầm “Chúa, nói với con”
Và chú chiền chiện đồng đã hát.
Chú bé đã không nghe thấy.
Rồi chú bé hét “Chúa, nói với con!”
Và ngọn sấm lăn dọc tầng trời
Nhưng chú bé không lắng nghe
Chú bé nhìn quanh và nói,
“Chúa, cho con thấy ngài” và một ngôi sao lóe sáng
Nhưng chú bé đã không để ý.
Và chú bé la lớn,
”Chúa, cho con thấy một phép la!”
Và một sinh linh mới ra đời, nhưng chú bé không biết.
Vậy chú bé khóc lớn trong tuyệt vọng,
“Sờ vào con, Chúa ơi, và cho con biết Chúa ở đây!”
Lúc đó, Chúa với xuống
Và chạm vào chú bé.
Nhưng chú bé đuổi con bướm bay đi
Và bước đi mà chẳng biết gì.
(Nguyễn Minh Hiển dịch)
.
And A Meadow Lark Sang
The child whispered, ‘God, speak to me’
And a meadow lark sang.
The child did not hear.
So the child yelled, ‘God, speak to me!’
And the thunder rolled across the sky
But the child did not listen.
The child looked around and said,
‘God let me see you’ and a star shone brightly
But the child did not notice.
And the child shouted,
‘God show me a miracle!’
And a life was born but the child did not know.
So the child cried out in despair,
‘Touch me God, and let me know you are here!’
Whereupon God reached down
And touched the child.
But the child brushed the butterfly away
And walked away unknowingly.
(Ravindra Kumar Karnani
This poem was originally written in the Hindi language.)