
Mặt trời trong hoa tuyết
Lấp lánh giữa thinh không
Gió đồng thổi lạnh đồi thông
Giữa mênh mông lặng nắng trong lạ thường
TĐH
10:45 am, Lake of the Woods,
Mồng 4 Tết Canh Dần, Wed., Feb. 17, 2010

Mặt trời trong hoa tuyết
Lấp lánh giữa thinh không
Gió đồng thổi lạnh đồi thông
Giữa mênh mông lặng nắng trong lạ thường
TĐH
10:45 am, Lake of the Woods,
Mồng 4 Tết Canh Dần, Wed., Feb. 17, 2010
Maya Angelou có tên khai sinh Marguerite Ann Johnson, sinh ngày 4 / 4/ 1928. Bà được mệnh danh là Nữ Thi Hào Da Đen của nước Mỹ, và được học giả Joanne M. Braxton gọi là người phụ nữ da đen viết tự truyện xuất sắc nhất của nước Mỹ . Anggelou là một ngôi sao sáng đa tài. Bà là nhà thơ nữ, nhà văn, người viết tiểu sử, nhà sử học, giảng sư, nhà báo, nhà làm phim, ca sĩ, diễn viên, người kể chuyện, nhà hoạt động nhân quyền hăng say.

Bà có một tuổi thơ nghèo khổ và tủi nhục. Khi mới 16 tuổi, mang thai lần đầu, để kiếm sống trong cuộc đời bà, Angelou đã phải làm nhiều nghề khác nhau, kể cả làm vũ nữ, đánh máy thuê, thư ký, nhân viên bán vé rạp hát, đóng kịch, viết báo…
Bà nổi tiếng nhất với bộ tự truyện 6 cuốn, tập trung vào thời thơ ấu và những năm đầu tuổi trưởng thành của bà. Quyển thứ nhất nổi tiếng nhất trên thế giới viết về 17 năm đầu đời của bà, I Know Why the Caged Bird Sings (1969), “Tôi biết tại sao con chim trong lồng hót” gọi tắt là “Chim Hót trong Lồng” .
Chủ đề của tác phẩm này là một con người có thể sống còn trong một thế giới thù nghịch và vươn lên nhờ lòng can đảm và nhân cách. Tác giả Angelou đã giải thích về tư tưởng này như sau : “đầu tiên người đời phải học cách chăm sóc chính mình để rồi có thể chăm sóc người khác. Đó là lý do làm cho chim trong lồng hót”. Ngay sau khi xuất bản, cuốn truyện “Chim Hót Trong Lồng” đã trở thành sách bán chạy nhất, và nhà văn nữ 42 tuổi Maya Angelou được mời diễn thuyết tại nhiều trường Đại Học trong nước và được tặng học bổng của trường Đại Học Yale. Chim Hót Trong Lồng được đề cử Giải Thưởng Sách Quốc Gia. Với tự truyện này, Maya Angelou được xem là một trong những phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên dám đưa ra công luận
đời riêng của mình. Và bà trở thành người phát ngôn xuất sắc cho người da đen và giới phụ nữ.
Vốn là một người đa tài và nhiều năng lực, Maya Angelou đã vượt qua nhiều hàng rào ngôn ngữ, biết nói các tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Ả Rập, Serbo-Croatian, Fanti và đây là một thổ ngữ của xứ Ghana. Các tác phẩm của bà Maya Angelou thuộc loại bán chạy nhất. Tác phẩm thơ của Angelou, Just Give Me a Cool Drink of Water ‘Fore I Diiie (1971) đã được đề cử giải thưởng Pulitzer.

Bà là thành viên của Hội Nhà Văn Harlem vào cuối thập niên 1950, hoạt động tích cực hăng say cho Phong Trào Nhân Quyền, và là điều phối viên Miền Bắc của Martin Luther King. Tại lễ Tuyên Thệ Nhậm Chức của Tổng Thống Bill Clinton (1993), bà đã đọc bài thơ của bà, Trên Nhịp Đập Buổi Sáng (On the Pulse of Morning) với tư cách một nhà giáo dục, sử gia và tác gia.
Bài thơ ấy cổ vũ cho niềm hi vọng rằng con người sẽ vượt qua được mọi gian khổ và bất công, chiến thắng cái ác, nhìn ra Thế Giới với lòng tha thứ và tình yêu.
Maya Angelou đã nhận được nhiều văn bằng danh dự của các trường Đại Học Mỹ. Năm 1976, Maya Angelou được chọn làm “Người Phụ Nữ của Năm 76” (Woman of the Year) về Truyền Thông của tạp chí Ladies’ Home Journal. Maya Angelou nhận nhiều giải thưởng khác như Giải Thưởng Matrix của Hội Women in Communications, Inc., vào năm 1983, Giải Thưởng Văn Chương North Carolina vào năm 1987, Giải Thưởng Candace 1990 của Cơ Quan Liên Minh Quốc Gia Phụ Nữ Da Đen (The National Coalition of Black Women) vì các đức tính, phục vụ và thành quả đóng góp lớn lao cho cộng đồng và xã hội cũng như ảnh hưởng tích cực của bà về dân chủ, tiến bộ và nhân quyền. Các tác phẩm của bà với chủ đề về gia đình, sự thừa nhận bản sắc riêng của cá nhân, và tệ nạn phân biệt chủng tộc được dùng trong chương trình giảng dạy ở các trường trung học và đại học trên toàn thế giới.
Maya Angelou quả thực là người phụ nữ phi thường
***********************************************
.
Xin giới thiệu với các bạn một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Maya Angelou, Phenomenal Woman, qua ngòi bút dịch của nhà thơ Lê Vĩnh Tài
.

.
NGƯỜI PHỤ NỮ PHI THƯỜNG
Những người phụ nữ đẹp thường hay tự hỏi
đâu là bí mật của tôi
tôi không dễ thương hay có ba vòng đo của người mẫu
nên khi tôi bắt đầu nói với họ
họ cứ nghĩ rằng tôi nói dối
tôi nói
đó chỉ là những điều trong tầm tay của tôi
vòng hông của tôi, bước chân đong đưa của tôi
cái bĩu môi của tôi
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
tôi bước vào một căn phòng
tỉnh bơ như không
và đến gần một chàng
những anh chàng hoặc vẫn đứng
hoặc khụy
Rồi họ cứ vây quanh tôi
như đàn ong thấy mật
tôi nói
ánh mắt tôi nồng nàn như lửa
và hàm răng tôi cười như tỏa nắng
sự đong đưa của vòng eo
niềm vui trong mỗi bước chân tôi
làm họ nghiêng ngã
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi

những người đàn ông ấy đã tự hỏi mình
họ tìm thấy gì ở tôi.
họ cố gắng rất nhiều nhưng không sao biết được
những bí ẩn của tôi
dù tôi cũng cố gắng chỉ cho họ
họ vẫn không thể thấy
tôi nói
nó ở trong cái ưỡn lưng tinh nghịch của tôi
mặt trời trong nụ cười tôi
sự bềnh bồng của hai bầu ngực
vẻ dịu dàng trong phong thái
của tôi
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
bây giờ bạn hiểu
chỉ cần đầu của tôi tại sao không phải cúi
tôi không đong đưa hay nhún nhảy
hay cố nói thật lớn
khi bạn nhìn thấy tôi đi qua
nó làm bạn tự hào
tôi nói
mỗi một cái bén gót của tôi
hay lọn tóc loăn xoăn buông thả của tôi
lòng bàn tay ấm mồ hôi của tôi
nhu cầu tự chăm sóc của tôi
bởi vì tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
Lê Vĩnh Tài dịch
PHENOMENAL WOMAN
Pretty women wonder where my secret lies.
I’m not cute or built to suit a fashion model’s size
But when I start to tell them,
They think I’m telling lies.
I say,
It’s in the reach of my arms
The span of my hips,
The stride of my step,
The curl of my lips.
I’m a woman
Phenomenally.
Phenomenal woman,
That’s me.
I walk into a room
Just as cool as you please,
And to a man,
The fellows stand or
Fall down on their knees.
Then they swarm around me,
A hive of honey bees.
I say,
It’s the fire in my eyes,
And the flash of my teeth,
The swing in my waist,
And the joy in my feet.
I’m a woman
Phenomenally.
Phenomenal woman,
That’s me.
Men themselves have wondered
What they see in me.
They try so much
But they can’t touch
My inner mystery.
When I try to show them
They say they still can’t see.
I say,
It’s in the arch of my back,
The sun of my smile,
The ride of my breasts,
The grace of my style.
I’m a woman
Phenomenally.
Phenomenal woman,
That’s me.
Now you understand
Just why my head’s not bowed.
I don’t shout or jump about
Or have to talk real loud.
When you see me passing
It ought to make you proud.
I say,
It’s in the click of my heels,
The bend of my hair,
the palm of my hand,
The need of my care,
‘Cause I’m a woman
Phenomenally.
Phenomenal woman,
That’s me.
Maya Angelou

Có con đường đi hoài chẳng tới
Thuở thơ ngây căng mắt huyễn hoặc mình
Có ngã rẽ lỡ vượt qua, quên lối
Quay lại nhìn
Ngã bật máu
Lặng thinh !
Bao nhiêu tháng năm dài cách biệt
Lẻ loi em hương tóc cũng phai tàn
Chỉ thoáng gặp
Tim bỗng rung tha thiết
Vòng ôm choàng kín cả nhân gian
Mặc cao thấp
Mặc sang hèn sáng tối
Mặc cạn sâu nông nổi phận bèo
Đông khô héo chạm vào xuân tươi mới
Men thật nồng
Ta chếch choáng say theo …
Hoàng Thiên Nga

Một vùng hải giốc thiên nhai
Hạo nhiên sương gió hồn ai giữa đời
Trông lên hoa hiện bên trời
Mai vàng chín nụ sầu rơi dáng gầy
Từ em hài biếc chân mây
Lòng anh khói phủ thành xây bốn mùa
Đêm nào ánh nhạt sao tua
Hoàng lan trở giấc mộng vừa kiếp xưa
Cung đàn giọng hát buồn chưa
Ngàn năm tuế nguyệt đò đưa nhân tình
Em mang một mảnh hồn trinh
Cúc ơi quân tử ảo hình bến nao
Đường xưa mây trắng trời cao
Nẻo về của ý phương nào cõi uyên
Là em hoá hiện thiên duyên
Hay hồn trúc gọi đào nguyên tìm về
Vivian
Tháng Hai, 2010

Trang giấy phập phồng hồi hộp
Đợi dòng thơ xuân
Ngòi bút ngập ngừng phân vân
Xuân trong mắt em xanh lạ
Ngoài kia êm đềm lời gió
Thì thầm lời cỏ
Hạt mưa bừng cơn ngái ngủ
Bồi hồi cầm xuân trên tay
Vạt sương dăng nhẹ thơ ngây
Sao ta thấy mình rất lạ
Chẳng dám chạm vào mộng mơ
Xuân ấm trong từng ngõ nhỏ
Trần Vân Hạc
Hà Nội 15.2.2010
Trong một bức tranh ta tưởng tượng, có lẽ nên tưởng tượng là phấn tiên trên giấy nhung, cụ Tiên Điền vẽ cảnh cuối xuân bên Tàu:
Một bức tranh khác, ta tưởng tượng là tranh thủy mặc, bác Vũ Đình Liên vẽ cảnh đầu xuân ngoài Bắc:

Còn Phương Nam? Mùa xuân có hoa mai. Nhưng không phải riêng Phương Nam, trong văn học nghệ thuật Á Đông với bộ tứ bình “mai – lan – cúc – trúc”, hoa mai là tượng trưng mùa xuân.
Ngày xưa, không ai đem cây mai trồng trong chậu, như thế là giam hãm cái khí tiết thanh cao của mai. Cây mai là của trời đất, ủ sương, phơi nắng, dãi dầu cùng thảo mộc sơn khê. Chợt gặp người lính trạm bên đường, ta bẻ vội một cành mai, thay lá thư gởi thăm bạn cố tri. Hoa mai còn tượng trưng cho phái đẹp nên những bức tranh vẽ hoa mai bao giờ cũng có cành giao nhau thành chữ “nữ”.
Có những tác phẩm lấy hoa mai làm rường cột cho câu chuyện như Nhị độ mai, Mai đình mộng ký… Ngoài ra từ văn chương bác học của các đại danh đến văn chương bình dân, hoa mai được nhắc đến rất nhiều, trong nhiều sự hòa hợp, hơn hẳn các loài hoa khác.
Mai đi với trúc:
Mai đi với hạc:
– Hỡi người mình hạc xương mai
Ở miền thị tứ tìm ai chốn này?

Mai đi với tuyết:
Mai đi với liễu:
Mai đi với cúc:
Mai đi với điểu:
Vân vân… Còn nhiều nữa.
Đi tìm một nhành mai, ai đã võ vẽ đọc thơ đều cúi đầu khi gặp Mãn Giác thiền sư:
Ngải Tuấn Mỹ, đời nhà Thanh có câu đối tặng Phó sứ Việt Nam Nguyễn Tư Giản đã được truyền tụng rộng rãi:
Ca ngợi hoa mai, nhưng cái thần tình của câu đối nằm ở vế trên, chuyện thập tải luân giao. Ông Viên Linh đã dùng vế ấy ghi nơi hộp thư tạp chí Thời Tập xuất bản trước năm 1975 tại Sài Gòn. Hộp thư không chỉ ghi những bài đã nhận mà là nơi giao lưu giữa người chủ trương, tòa soạn với bạn viết, bạn đọc. Ông Viên Linh là người có tài làm hộp thư, nhiều câu trả lời dí dỏm, rất hay. Mở tờ Thời Tập tôi cũng như nhiều người trước hết đọc mục hộp thư.
Trong Vang bóng một thời, truyện viết về thú chơi thả thơ, ông Nguyễn Tuân dẫn câu:
Vẫn là mai đi với hạc. Vế dưới khiến ta nghĩ đến Hoàng Hạc lâu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. Vế trên cho ta hình dung ra cảnh không phải sầm uất cũng không phải hoang sơ, một cảnh xuân thật độc đáo. Hoa mai nở trên mộ, nét xuân càng già dặn.
Lúc nhỏ, mỗi khi trời tạnh mưa, nhìn dấu chân mèo chân gà đi trên sân ướt, cha tôi hay đọc câu đối, tôi không biết của người hay của ai:
Vế dưới bình thường: Đêm thanh, trên trời, những vì sao giống như viên đạn, mặt trăng giống như chiếc cung.
Vế trên thật hay: Sau cơn mưa, trước sân, dấu chân mèo in hình hoa mai, dấu chân gà in hình lá trúc.
Cái nhìn của tác giả thật sắc sảo, kết hợp giữa hình ảnh thực tế gần gũi ngay trước mắt là dấu chân mèo, dấu chân gà với ước lệ của thi và họa: hoa mai và lá trúc.
Tái bút: Ở trên tôi có nhận xét về câu đối này: “Vế dưới bình thường”. Nay thấy không phải là bình thường. Mờ sáng ngày 17-9-2009 (29 tháng 7 năm Kỷ Sửu âm lịch) tôi đi bộ dọc bờ sông Chùa (một phụ lưu của sông Đà Rằng trong phạm vi thành phố Tuy Hòa) chợt nhìn lên bầu trời, thấy còn vầng trăng mỏng, thật mỏng, chỉ là một đường cong, và chỉ duy nhất một ngôi sao cạnh đó, rõ ràng là tinh hình đạn tử nguyệt hình cung. Vế này tuy không xuất sắc như vế trên nêu lên hình ảnh dấu chân mèo và dấu chân gà, cũng chứng tỏ khả năng quan sát của tác giả thật độc đáo.
Trần Huiền Ân

.
Xuân về thỏa nỗi khát mong
Xuân xanh xuân chín xuân hồng xuân hoa
Niềm vui bỗng chợt vỡ òa
Mùa xuân nâng tiếng chim ca xuân lòng
Nỗi buồn gửi lại mùa đông
Trâu qua hổ đến nối vòng nhân gian
Mềm môi xuân chén đầy tràn
Trời xanh xanh đến muôn vàn xuân sau!
Trần Vân Hạc
Hà Nội 14.2.2010 (Mồng một Tết, Canh Dần)

Anh đi muôn dặm đường dài
Vào xuân mai hỏi còn hoài cố nhân
Mịt mờ sương khói phù vân
Ngàn hoa nở nụ tầm xuân nhớ chàng
Lan vàng một đóa em mang
Vòng luân lưu chuyển hồn sang bốn mùa
Bốn mùa chung chuyến đò đưa
Xuân là bến giữa giao thừa đợi anh
Lưng trời tơ biếc mong manh
Sắc nào hóa hiện màu xanh vĩnh hằng
Xuân nào ngợp ánh sao băng
Anh xuôi mái đẩy thuyền trăng tìm về
Khúc ca nguyên đán vọng hề
Nhất phương viễn mộng giòng mê luân hồi
Tỉnh ra hoa trắng bên đồi
Trông hoa nhớ mộng tan rồi xuân qua
Vivian
Tháng Hai, 2010
Ngày nhỏ mỗi lần giỗ tết
Chị em tôi thường theo mẹ về quê
Quần áo mới soạn từ hôm trước
Ướm vào thay ra mãi. Tận khuya

Quê ngoại ở làng trên cách con sông nhỏ
Đường quanh co hết xóm lại đồng
Em nhỏ mẹ bồng chị em chạy bộ
Thách ai đến trước thì ăn*
Hai bên đường hoa dại nở thật nhiều
Đoạn rực vàng đoạn thắm tươi ngũ sắc
Sau phút ngẩn ngơ chị em ùa đến ngắt
Gom cả tiếng cười trong vào bó hoa
Có khi mải mê tìm hái mâm xôi
Mẹ đi xa rồi thi nhau chạy tới
Có khi chờn vờn cùng đàn bướm trắng
Mẹ đứng chờ giọt nắng đọng đầy vai
Con đường dài theo nhịp bước rong chơi
Mỏi cả chân chị em phụng phịu
Mẹ dỗ dành chỉ còn quãng nữa
Ngoại đang chờ với bưởi mít thơm ngon
Năm rồi năm chị em lớn, lớn thêm
Theo mẹ về quê không còn chạy bộ
Thêm tuổi đời cánh cửa càng rộng mở
Cuốn chân đi muôn ngả với bao người

Giỗ tết giờ đây mẹ đi một mình
Lặng lẽ trên đường đổ dài bóng nắng
Đường chúng tôi thênh thang thơ mộng
Nhưng không như thưở với mẹ về làng
Uớc cứ ngày xưa
Cứ mãi thưở chin mười
• Ăn: thắng
Tôn Nữ Ngọc Hoa
Chào các bạn,
Hôm nay là Ngày Tình Yêu, đồng thời là mồng một Tết Nguyên Đán. Wow, đây là cơ hội rất hiếm trong đời!
Chúc các bạn một năm mới tràn đầy tình yêu nồng nàn, hoa hồng đỏ thắm, và kẹo so-cô-la dịu ngọt. 🙂
Và ít bị gai hồng đâm chảy máu. 🙂
Và nếu có bị gai đâm thì cũng thấy vui vẻ yêu đời 🙂 vì như thế còn vạn lần hơn là không có gai đâm 🙂
Ngày Valentine (Valentine’s Day, còn gọi là Saint Valentine’s Day, Ngày Lễ Tình Yêu hay Ngày Lễ Tình Nhân) là ngày dành cho tình yêu đôi lứa.
Ngày này nguyên thủy là Ngày Lễ Thánh Valentine, được Giáo Hoàng Gelasius I ấn định vào năm 496, là ngày 14 tháng 2 hàng năm. Có vài truyền thuyết khác nhau về Thánh Valentine:

* Valentine thành Rome là một linh mục ở Rome, tử vì đạo năm 269, và được chôn cất trên con lộ Via Flaminia (ở phía bắc Rome, nối liền Rome và Ariminum). Xương thánh của Valentine ngày nay ở Thánh đường Thánh Praxed ở Rome, và Thánh đường Carmelite trên đường Whitefriar Street ở Dublin, Ireland.
* Valentine thành Terni là giám mục của Interamna (Terni ngày nay), nhậm chức vào khoảng năm 197, và tử vì đạo trong thời giáo hội bị bách hại dưới tay Hoàng Đế Aurelian. Giám mục cũng được chôn trên con lộ Via Flaminia, nhưng tại một nơi khác nơi chôn cất Valentine thành Rome. Xương thánh của giám mục ngày nay ở Vương cung Thánh đường Thánh Valentine ở Terni (Basilica di San Valentino).
* Tự điển bách khoa công giáo còn nhắc đến một Valentine, tử vì đạo ở Phi Châu.

Trong các thay đổi về Lịch Các Ngày Lễ Các Thánh năm 1969, ngày lễ Thánh Valentine 14 tháng 2 được đưa ra khỏi lịch các ngày lễ chung của giáo hội, và chuyển vào mục các ngày lễ thánh địa phương, với lý do: “Dù ký ức về Thánh Valentine rất cổ, ngày lễ Thánh Valentine được chuyển vào lịch đặc biệt của địa phương vì chúng ta chẳng biết gì về Thánh Valentine, ngoại trừ việc ngài được chôn cất trên con lộ Via Flaminia ngày 14 tháng 2.”
Chẳng có một chi tiết lãng mạn yêu đương nào liên hệ đến 3 truyền thuyết tử vì đạo này cả.
Thời xưa, ở Rome có ngày lễ nữ thần Juno vào ngày 13-14 tháng 2. Juno là nữ thần bảo vệ tổ quốc của Rome. Juno là tên Hy Lạp, ở Rome Juno được gọi là Regina. Juno cùng chồng là Jupiter (thần cao nhất của các thần), và con là thần Minerva, bộ ba được tôn thờ ở Juno Capitolina ở Rome.
Rome còn có lễ Lupercania từ ngày 13 đến 15 tháng 2, ca ngợi sự sinh sản phong phú. Vào ngày này nam nữ tìm đến với nhau trong lễ hội qua tục bốc thăm.
Giáo Hoàng Gelasius I xóa bỏ Lupercalia, là lễ của ngoại đạo.
Một số người đặt giả thuyết là giáo hội thành lập ngày Valentine để thế vào ngày lễ Juno và Lupercalia của truyền thống ngoại đạo.
Truyền thống lãng mạn về ngày Thánh Valentine bắt đầu với bài thơ Parlement of Foules (1382) của thi sĩ Geoffrey Chaucer của Anh:

For this was on seynt Volantynys day
Whan euery bryd comyth there to chese his make.
[“For this was sent on Valentine’s Day, when every bird cometh there to choose his mate.”]
Vì đây đã được gửi ngày Valentine, khi mọi chim chóc đến đó tìm bạn tình.
Các độc giả của Chaucer nghĩ là Chaucer nói vể ngày Thánh Valentine 14 tháng 2. Nhưng đây là sự hiểu lầm lớn trong văn học. Bài thơ của Chaucer nói về hôn nhân giữa Vua Richard II của Anh quốc và Công Nương Anne của Bohemia. Hiệp ước giữa hai nước nói về hôn nhân này được ký vào ngày 2 tháng 5 năm 1381. (8 tháng sau đó họ làm đám cưới, lúc cả hai chỉ mới 15 tuổi).
Và trong lịch lễ thánh, ngày 2 tháng 5 là ngày lễ Thánh Valentine thành Genoa. Thánh này là giám mục của thành Genoa, chết vào khoảng năm 307, và chẳng liên hệ gì đến Thánh Valentine của ngày 14 tháng 2.
Tuy vậy, vì ảnh hưởng lớn của Geoffrey Chaucer trên văn học tiếng Anh, các văn thi sĩ khắp nơi sau đó bắt đầu ca tụng, một cách lầm lẫn, ngày Thánh Valentine 14 tháng 2 là ngày của tình yêu lãng mạn. Và đương nhiên chuyện đời là, khi mọi người đều làm điều gì thì điều đó được chấp nhận là đúng. 🙂

* Ngày nay, chẳng biết từ đâu đến, chúng ta lại có thêm một truyền thuyết mới về Thánh Valentine. Theo thuyết này, Valentine là một linh mục không vâng lệnh của Hoàng Đế Claudius II cấm thanh niên lấy vợ và cấm linh mục cử hành hôn lễ cho thanh niên, vì Hoàng Đế muốn nhiều thanh niên độc thân đi lính. Tuy vậy, linh mục Valentine chống lại lệnh Hoàng Đế và cứ tiếp tục cử hành hôn lễ lén lút cho các cặp tình nhân.
Hoàng Đế biết được và xử tử Valentine. Trước giờ hành quyết Valentine còn gửi được một tấm “thiệp Valentine” đầu tiên trong lịch sử đến–hoặc là người yêu của linh mục (thời đó linh mục có thể có vợ), hoặc là con gái của người quản ngục mà Valentine đã gặp và chữa bệnh–và ký tên “From your Valentine” (“Từ Valentine của em”).
Truyền thống “thiệp Valentine” bắt đầu từ đó.
Các công ty buôn bán ngày nay rất thích dùng truyền thuyết mới, có tính tiếp thị cao này.
Vào ngày Valentine, các đôi tình nhân tặng nhau thiệp Valentine với các lời lẽ dấu ái lãng mạn, tặng hoa hồng, kẹo Chocolate, mời nhau đi khiêu vũ, ăn tối dưới ánh đèn cầy, xem phim…


TĐH

Nắng
Hồng lên đôi má
Gió
Bồng tung mái tóc
Trong vắt
Bình minh
Hoa cỏ long lanh sương
Đồng nội nhẹ nhàng thơm
Đất trời ngời ngợi sáng
Đẹp lạ lùng
Quê hương !
Nhắm mắt
Nghe ngọt ngào tinh khiết
Tắm mát tim yêu
Tha thiết
Dang tay
Không gian rộng vô cùng
Tan hòa hơi thở
Tình người
Mênh mông
Hoàng Thiên Nga
Như cành mai vàng rã cánh giêng hai
Người lặng thầm tha hương cầu thực
Bỏ một miền quê rưng rức
Chỉ còn mênh mông đồng xanh.
Rồi cũng như mai tích giọt nhựa lành
Mùa chạp về nở bung năm cánh tết
Múc gàu nước giếng làng uống trôi bao nhọc mệt
Múc gàu nước giếng làng rửa mặt đợi xuân sang.
Ngày tết quê tôi cũng lộng lẫy cúc vàng
Cũng lịch sự hồng, cũng thanh xuân thược dược.
Môi thiếu nữ lại nồng, tình lại mềm như nước
Xuân mà, cứ mở lòng vui.
Mẹ già gội đầu bằng nước lá chanh
Vòng tay nào ôm con còn thơm mùi tết
Ba tiếp bạn bằng củ hành củ kiệu
Chén rượu năm nao chừ vọng lại tiếng cười.

Thôi một năm cùng nước mắt mồ hôi
Người quê chừ thả lòng xuân mới
Ta đi giữa quê lòng như có đợi
Có chờ ai về nhắc chuyện xuân xưa!
Cuối năm Kỷ Sửu
Nguyễn Tấn Ái

Tết trắng
Trời cuối năm tuyết đổ
Xóa trắng những đồi thông
Nơi này hoa không nở
Tết rồi em biết không?
TĐH
Virginia, Thứ năm, 11 tháng 2, 2010

Tết nguyên đán nơi trời xa lạc lõng
Bè bạn tha hương quây quần
Toàn người dưng bỗng thành gia đình
Nấu nồi bánh cho vơi nỗi nhớ
(Cũng có gạo nếp, hành, thịt, đỗ)
Chiếc bánh chưng nấu nồi áp xuất
Sao không mang hương vị tết ?
Thiếu mầu lá dong gói niềm thương nhớ
Thiếu ngọn lửa hồng mẹ nhóm ấp iu
Chờ bánh chín bà kể câu chuyện cổ
Chuyện kể rồi mãi không bao giờ cũ
Xuân xa quê
Không có mưa xuân
Nẩy lộc trên cây nêu đầu ngõ
Không nắng dịu dàng
Trên má hồng thiếu nữ
Không lửa nồng nàn
Trong mắt người thương
Ăn miếng bánh chưng
Mà lòng rưng rưng
Hồn quê day dứt trong máu thịt
Nâng ly rượu tây
Thêm cồn cào da diết
Nhớ góc vườn
Ấp ủ nhúm nhau
Trần Vân Hạc