All posts by qiaosuyuan

Đường thi

Văn học thời Đường được coi là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc. Đặc biệt thơ ca cổ điển trong giai đoạn này phát triển đến mức tột đỉnh, và được coi là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Trong lịch sử hơn 300 năm của nhà Đường, đã có hơn 48900 tác phẩm thơ ca được viết và lưu truyền đến tận ngày nay. Một lượng lớn các tác phẩm đó cũng đã làm hơn 2300 thi nhân được ghi danh trong sử sách. Ý tưởng được gửi gắm vào trong thơ của Đường thơ chủ yếu là kết hợp chủ nghĩa thực tiễn và chủ nghĩa lãng mạn, về hình thức có các dạng:

Thơ Lý Bạch trên quạt
Thơ Lý Bạch trên quạt

– Thất ngôn bát cú (tức bài thơ có tám câu, mỗi câu bảy chữ).

– Thất ngôn tứ tuyệt (tức bài thơ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ, thực chất là một bài “thất ngôn bát cú” đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối tạo thành),

– Ngũ ngôn tứ tuyệt (tức bài thơ có bốn câu, mỗi câu năm chữ, được biến thể từ bài thất ngôn tứ tuyệt: bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu),

– Ngũ ngôn bát cú (tức bài thơ có tám câu, mỗi câu năm chữ, được biến thể từ bài thất ngôn bát cú: bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành).

Trong đó thất ngôn bát cú được coi là dạng thơ chuẩn, và các dạng còn lại được coi là thơ biến thể.

Các thi nhân nổi tiếng vào thời Đường chủ yếu là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Lý Hạ, Đỗ Mục…. Do chịu ảnh hưởng của các luồng tư tưởng khác nhau (Nho giáo, Đạo giáo, hay Phật giáo), do đó phong cách Làm thơ của các nhà thơ đời Đường cũng rất khác nhau. Thơ của Lý Bạch thì mang phong cách phóng túng, còn Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị thì lại theo khuynh hướng hiện thực kết hợp với trữ tình nhiều hơn.

Thơ Đường súc tích, đa dạng, phong phú, không chỉ nói lên được tâm tình, khát vọng của bản thân mà còn vẽ lên được những thực hiện đời sống lúc bấy giờ.

Lý Bạch
Lý Bạch

Lý Bạch

Theo sử sách ghi lại thì Lý Bạch là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng (thời nhà Hán), sinh năm 701 tại Lũng Tây trong một gia đình khá giả, ngay từ nhỏ ông đã cùng cha của mình đi ngao du khắp nơi, được chứng kiến cuộc sống vất vả của người dân nghèo, vì thế trong ông hình thành tư tưởng không thích trốn quan trường và đến năm 16 tuổi ông đã chọn cuộc sống ẩn trên núi Đái Thiên.

Được 2 năm ông lại xuống núi và bắt đầu cuộc hành trình viễn du của mình dòng giã suốt 3 năm trời, khi đến Vân Mông ông đã cưới cháu gái của Hứa tướng, và cũng từ đó tiếng tăm thơ ca của ông đã vang rộng khắp nơi.

Đến năm 745 ông được người bạn thơ tiến cử vào cung để làm thơ hầu vua, nhưng được một thời gian do cách sống say xỉn, phóng túng ham chơi của mình ông đã bị mọi người trong triều ghét bỏ và thường nói xấu sau lưng, thấy vậy ông đã tự nguyện rời cung và tiếp tục cuộc sống ngao du đây đó khắp nơi.

Khoảng chừng 10 năm, sau đó ông lại về núi Lư ở ẩn. Được một thời gian ông lại về phủ của Vương Lân sống, do Vương Lân làm phản nên Lý Bạch cũng bị liên lụy và bị băt theo, ông đã bị đi đày khắp các vùng Động Đình, Tam Giác…sau đó được tha và đến năm 762 do tuổi già, sức yếu ông đã qua đời tại Đang Đồ.

Lý Bạch được người đời đặt danh là “诗仙” tức “Thi Tiên”. Ông là một người phóng khoáng, sôi nổi, nhiệt tình, tài hoa nhưng lại có phần gàn dở. Thơ ca của ông khí phách hào hùng nhưng lại rất phóng khoáng, ông thích dùng những từ ngữ sôi nổi để ca tụng phong cảnh núi non hùng vĩ của tổ quốc. Hiện các tác phẩm thơ ca của ông còn được lưu giữ khoảng hơn 990 bài, trong đó bài (Sắp mời rượu), (Hành lộ nan), (Tĩnh dạ tứ)…là những bài thơ tiêu biểu của ông và được mọi người truyền tụng.

Mời các bạn thưởng thức bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch:

    Tĩnh dạ tứ

    Đầu giường rọi ánh trăng soi,
    Làm ta cứ ngỡ như là màn sương.
    Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
    Cúi đầu sao nhớ quê hương ngàn trùng.
    .

      (Bản dịch của Nguyễn Dương)

Đỗ Phủ
Đỗ Phủ

Đỗ Phủ

Cùng với Lý Bạch và Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ cũng là một trong những nhà thơ vĩ đại của Trung Quốc vào thời Đường. Ông được người đời mệnh danh là “诗圣” tức “Thư thánh”. Ông sinh năm 712 mất năm 770, xuất thân trong một gia đình quý tộc nhưng đã sa sút. Là một người ham học, có trí làm quan nên ông đã nhiều lần tới kinh đô để dự thi, nhưng đều không đỗ. Đến năm 755 Loạn An Lộc Sơn xảy ra khiến cho cuộc sống của ông phiêu bạt khắp nơi.

Ông đã tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc, nạn đói và những ngược đãi bất công của xã hội, do đó trong thơ của ông luôn thể hiện những đồng cảm về cuộc sống thống khổ của người dân và phản ánh những hiên thực bất công của xã hội lúc bấy giờ. Thơ của ông vào thời đó không được đánh giá cao lắm nhưng đến thế kỷ thứ 9 thì thơ của ông dần dần được chú ý và đến thế kỷ thứ 11 thì lên tới mức cực điểm. Hiện các tác phẩm của ông còn được lưu giữ khoảng hơn 1400 bài, trong đó tiêu biểu là các bài (Binh xa hành), (Xuân vọng), (Tam biệt), (Tam lại)…

Mời các bạn thưởng thức bài Xuân vọng của Đỗ PHủ:

Đổ Phủ

    Xuân Vọng

    Nước tàn sông núi còn đây;
    Thanh xuân cây cỏ mọc đầy khắp nơi.
    Cảm thời hoa cũng lệ rơi;
    Chim kia cũng sợ hận người lìa tan.
    Lửa phong ba tháng lan tràn;
    Thư nhà đưa đến muôn vàng chắt chiu
    Xoa đầu tóc bạc ngắn nhiều,
    So le lởm chởm khó điều cài trâm.
    .

      (Bản dịch của Trần Trọng San)

Chúc các bạn một ngày mới vui vẻ nhé.

Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Sườn Xám và các trang phục truyền thống Trung Quốc

Sườn Xám ( hay còn gọi Xường Xám) là trang phục truyền thống của các thiếu nữ người Mãn (thời nhà Thanh), và cũng được coi là một trong những trang phục truyền thống điển hình của Trung Quốc. Sườn xám lúc đó là kiểu cổ cao tròn ôm sát, ống tay hẹp, bốn mặt vạt áo đều xẻ, có khuy nối các vạt lại với nhau, kèm theo thắt đai lưng, chất liệu vải thường là các loại da thuộc.

Sườn Xám (Xường Xám)
Sườn Xám (Xường Xám)

Từ những năm đầu thế kỉ hai mươi, Sườn Xám có sự thay đổi khá nhiều về mặt kết cấu,ví dụ như: cổ dựng, chỉ có hai bên vạt áo xẻ, ôm sát thân, tay áo có thể liền hoặc rời thân. Và bắt đầu từ những năm hai mươi, Sườn Xám xuất hiện dần dần trên đường phố Thượng Hải rồi lan sang Tô Châu, Hàng Châu, Dương Châu… Sau đó do ảnh hưởng của nền văn hóa phương tây Sườn Xám đã có một vài đổi mới so với thời Mãn Thanh: Cổ áo có thể cao hoặc thấp, ống tay lúc hẹp lúc loe, vạt áo dài ngắn tùy sở thích mỗi người.
Trường Bào và Mã Quái
Trường Bào và Mã Quái

Loại váy áo liền thân này làm tôn thêm dáng của người thiếu nữ, phần trên ôm sát thân, hàng cúc được thiết kế vắt chéo sang môt bên rồi chạy dọc một bên sườn, hai tà xẻ cao đến ngang đùi tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, mặt trước của Sườn Xám thường được thêu các họa tiết bằng chỉ ngũ sắc. Trên phương diện tạo mẫu hay trang trí thủ pháp đều thể hiện được những nét truyền thống văn hóa sâu đậm của Trung Quốc nói riêng và của các nước phương đông nói chung. Ngoài ra, loại váy áo này còn làm nổi bật đức tính đoan trang, trang nhã, kín đáo của người thiếu nữ.
Đường trang (trang phục đời Đường)
Đường trang (trang phục đời Đường)

Trang phục truyền thống tiêu biểu của giới nam gồm có: Trường Bào, Mã Quái (một dạng áo khoác bên ngoài), hai loại trang phục này đều là trang phục của dân tộc Mãn Thanh, áo cổ tròn, ống tay cửa hẹp, Mã Quái thường là xẻ giữa, cài nút thắt, ống tay áo hình chữ U, còn Trường Bào thường là xẻ bên.

Cũng có loại trang phục được kết hợp giữa Trường Bào và Mã Quái, loại trang phục này chỉ có vạt áo dưới của Trường Bào còn phần trên là Mã Quái, hai phần được nối với nhau bằng một dải cúc được đính ở mặt trong của Trường Bào, mặc hai loại trang phục này không chỉ thể hiện được sự long trọng mà còn đem lại cảm giác tự nhiên, thoải mái cho người mặc.

Yếm trẻ em, thêu ngũ tú
Yếm trẻ em, thêu ngũ tú

Hội nghị APEC năm 2001, các nguyên thủ quốc gia đều mặc trang phục đời Đường, vì người phương tây thường gọi nơi ở của người Hoa là “Đường nhân phố”, cho nên loại trang phục người Đường mặc tất nhiên được coi là trang phục truyền thống tiêu biểu của người Hoa rồi. Và cũng từ đấy đã dấy lên phong trào coi “Đường trang” làm một trong những trang phục mốt, thịnh hành được giới trẻ yêu thích. “Đường trang” hiện nay là do Mã Quái thời đại Thanh cải cách thành, kết cấu của loại trang phục này gồm có 4 đặc điểm lớn:

– Là loại cổ đứng, phần cổ giữa trước được may mở và kéo dài xuống một chút đối với nữ trang.
– Thân áo và tay áo liền với nhau, không có đường chỉ vê nối.
– Hai vạt áo xẻ giữa, cũng có thể xẻ bên.
– Cúc áo hình vuông.

Yếm người lớn
Yếm người lớn

Ngoài ra, trang phục của từng vùng, từng dân tộc cũng không giống nhau, đều mang những bản sắc riêng của mình. Ví dụ như, Yếm là loại trang phục truyền thống sát thân của trẻ con Trung Quốc tại Quan Trung và Thiểm Bắc, hai vạt của Yếm phía trên được buộc với nhau bởi hai dây vải vòng qua cổ, phía dưới cũng được nối với nhau bởi hai dây buộc vòng qua thắt lưng. Mặt trước của Yếm thường được dùng chỉ ngũ sắc để thêu các hình đầu hổ và ngũ tú, thông qua đó muốn gửi gắm hy vọng cầu mong cho con cái mình được manh khỏe…
Trang phục nữ Huệ An
Trang phục nữ Huệ An

Các trang phục truyền thống của những dân tộc thiểu số cũng rất đặc biệt, ví dụ như trang phục của Nữ Huệ An tại Phúc Kiến (các bạn có thể xem chi tiết hơn trong bài Con gái Huệ An), hay của các dân tộc thiểu số Di, Bạch, Cáp Nê, Miêu (H’Mông), mông cổ…..

Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Tên họ của người Trung Quốc

Phần lớn Họ của người Việt Nam gắn liền với các triều đại phong kiến ngày xưa, trong đó họ Nguyễn chiếm đa số (khoảng 38% dân số), còn Họ của người Trung Quốc thì sao? sau đây tôi sẽ giới thiệu với các bạn đôi chút về cách đặt tên họ của người Trung Quốc nhé:

họ Chu
họ Chu

Theo ghi chép lưu lại thì Họ của người Trung Quốc xuất hiện từ thời xã hội mẫu quyền, lúc đó con người đặt người đàn bà (người mẹ) thành trung tâm để hình thành lên các thị tộc, vì để dễ phân biệt lên mỗi thị tộc đã tự chon cho mình một họ để xưng hô. Nguồn gốc của Họ, bao gồm một vài loại sau đây:

1. Xã hội mẫu quyền, lấy tên của mẹ làm họ cho con.
2. Dựa vào thời đại viễn cổ con người sùng bái những loại động vật để đặt tên họ cho con cái, ví dụ như họ Mã, Ngưu, Dương, Long…
3. Dùng tên nước để làm họ, ví dụ như họ Triệu, Tống, Tần, Ngô…
4. Dùng chức tước của tổ tiên để làm họ, ví dụ như: Ti Mã, Ti Đồ…
5. Dựa vào tước vị, ích hiệu đặt làm họ.
6. Dùng tên quê hương hay một địa danh nào đó làm họ.
7. Dựa vào nghề nghiệp của gia đình để đặt họ, ví dụ gia đình có truyền thống làm gốm sứ lâu đời thường lấy tên họ là Đào.
8. Dùng danh hiệu của tổ tiên làm họ, ví dụ như tổ tiên của người Trung Quốc có Hoàng đế danh Hiên Viên, về sau Hiên Viên đã trở thành một dòng họ .

họ Trương
họ Trương

Họ của người Trung Quốc có thể chỉ là một từ, cũng có thể là hai hoặc ba từ trở lên. Cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa có một thống kê chuẩn xác về số Họ của mình. Người đương đại Trung Quốc hiện đang sử dụng số Họ lên đến khoảng 3500 Họ. Và trong 100 Họ hay gặp thì có ba Họ lớn nhất đó là Họ Lý, Vương, Trương.

Tên của người Trung Quốc cũng có những đặc điểm truyền thống riêng của mình. Họ tên của người Trung Quốc đều là Họ đặt phía trước, tên đặt phía sau. Tên thì do một từ tạo thành (chủ yếu), cũng có thể do hai từ tạo thành (chiếm số ít).

Người thuộc cùng một dòng họ, tên gọi phải dựa vào thế hệ (lứa) để xếp đặt, những người cùng lứa hay cùng một thế hệ nhất định phải có một từ giống nhau.

tên Viên
tên Viên

Tên họ của người Cổ Đại phức tạo hơn nhiều so với người Hiện Đại, người có văn hóa, có địa vị ngoài Tên, Họ ra còn có thêm Tự và Hiệu, ví dụ như: Văn học gia Tô Thức (đời Tống), họ Tô, tên Thức, tự là Tử Thiêm, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ. Nhà thơ Lý Bạch (đời Đường) thời thơ ấu sống tại thôn Thanh Liên của Tứ Xuyên, do đó ông đã tự đặt cho mình hiệu “Thanh Liên Cư Sĩ”.

Tên của người Trung Quốc thường mang một hàm nghĩa nhất định nào đó, biểu thị một vài nguyện vọng nào đó. Một vài tên gọi bao hàm địa điểm sinh, thời gian sinh hoặc hiện tượng tự nhiên nào đó, ví dụ như “Kinh”, “Thần”, “Đông”, “Tuyết”…Một vài tên gọi biểu thị hy vọng một vài đức tính tốt đẹp nào đó, ví dụ như “Trung”, “Nghĩa”, “Lễ”, “Tín”,…Cũng có một vài tên gọi biểu thị ý nghĩa hy vọng khỏe mạnh, trường thọ, hạnh phúc, ví dụ như “Kiện”, “Thọ”, “Tùng”, “Phúc”…

Tên Trung ngữ của Google
Tên Hoa ngữ của Google

Tên của người con trai và con gái cũng không giống nhau, tên của người con trai thường dùng những từ biểu thị vũ lực, quyền thế, ví dụ như: “Hổ”, “Long”, “Hùng”, “Vĩ”, “Cương”, “Cường”…Còn con gái thì thường dùng những từ đẹp và mềm mại, ví dụ như: “Phượng”, “Hoa”, “Ngọc”, “Thái”, “Quyên”, “Tịnh”…

Hiện nay, người Trung Quốc không còn quá coi trọng trong chuyện đặt tên nữa. Thông thường chỉ có tiểu danh, đại danh, và tên không nhất thiết phải dựa vào thế hệ để xếp đặt. Tất nhiên, chọn một cái tên hay cho con cháu của mình, vừa ý nghĩa lại không giống với người khác vẫn là niềm hy vọng của đại đa số người dân Trung Quốc.

Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Đồ sứ Trung quốc

Trong tiếng anh từ ”china” gồm có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là chỉ đất nước Trung Quốc, nghĩa thứ hai là chỉ Đồ Sứ. Bởi vậy người phương tây từ rất lâu đã gộp Trung Quốc và Đồ Sứ vào với nhau, đó là do kỹ thuật chế tạo sứ là do người Trung Quốc phát minh ra. Đồ Sứ là từ Đồ Gốm phát triển thành, nếu như tính từ đại Thương (đồ sứ bắt đầu được sản xuất), thì Đồ Sứ Trung Quốc có lịch sử khoảng hơn 3000 năm.

Thanh sứ
Thanh sứ

Kỹ thuật chế Sứ của Trung Quốc bắt đầu từ thời kỳ Đông Hán phát triển rất nhanh, mỗi một thời kỳ lịch sử đều xuất hiện những lò gốm nổi tiếng và những loại sản phẩm gốm sứ mới. Đời Đường lò gốm Việt tại Chiết Giang nổi tiếng với Thanh Sứ (trên Phôi, tức đồ sứ chưa được nung đem quét một lớp men màu xanh lên trên, rồi đem nung lên) hay Bạch Sứ (trên Phôi có hàm lượng Sắt thấp, đem quét lên một lớp men trong suốt rồi đem nung ở nhiệt độ cao) của lò gốm Hình tại Hà Bắc …đều là những lò gốm với những sản phẩm rất nổi tiếng. Và cho đến nay, thì Bạch Sứ của lò gốm Định hay Quân Sứ của lò gốm Quân tại Hà Bắc, hay Thanh Sứ của lò gốm Long Tuyền đều được cho là những Đồ Sứ quý hiếm vô giá.
Thanh sứ
Thanh sứ

Bắt đầu từ đời Tống, thì Thanh Sứ của Long Tuyền được tiêu thụ tại rất nhiều quốc gia trên thế giới. Và cho đến nay được lưu giữ tại bảo tàng Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng hơn 1000 bộ Thanh Sứ của lò gốm Long Tuyền của các thời đại Tống, Nguyên, Minh.

Sau Nguyên Đại, nghề chế Sứ phát triển rất nhanh tại huyện Cảnh Đức của Giang Tây, và Giang Tây lúc đó được coi là đô thị gốm sứ của Trung Quốc. Đồ Sứ của huyện Cảnh Đức được chế tạo rất tinh xảo và đẹp, trong đó Thanh Hoa Sứ (một loại Sứ nền trắng hoa màu xanh lam), Phấn Thái Sứ (trên Bạch Sứ vẽ các hình họa với nhiều màu sắc khác nhau rồi đem nung ở nhiệt độ cao tạo thành),

Thanh hoa sứ (Đại Minh)
Thanh hoa sứ (Đại Minh)
Thanh Hoa Sứ (đầu tiên khắc những lỗ to bằng hạt gạo tại một vài vị trí trên ruột của sứ, sau đó ở một vài vị trí khác vẽ lên các hình thù khác nhau, rồi đem quét lên một lớp men và cuối cùng là đem nung ở nhiệt độ cao), Bạc Thai Sứ (loại sứ này mỏng như vỏ trứng, và trên mặt mỏng trong suốt của Sứ vẽ nhiều đường nét hoa văn khác nhau)…được coi là những đồ vật quý hiếm hiện nay.

Thời nhà Minh được coi là giai đoạn đăng quan của đồ sứ Thanh Hoa, tại thời này người dân đã chế tạo ra loại men nhiều mầu (tam thái, ngũ thái) vì vậy mà các sản phẩm được chế tạo ra cũng phong phú hơn nhiều so với thời Tống-Nguyên, theo thống kê thì có khoảng 14 loại hình được sản xuất trong thời kỳ này. Đó là: âu, bát, bình, chậu, chén, choé, chum, đĩa, hộp, hũ, kendy, lọ, nậm, tượng.

Thanh hoa sứ (Đại Minh)
Thanh hoa sứ (Đại Minh)
Về hoa văn trang trí trên Sứ vào thời này cũng rất đa dạng, ví dụ như hoa văn về các loại thực vật, động vật, con người, hay hoa văn đường diềm… Đặc biệt thời Minh đã bắt đầu phổ biến trong việc dùng chữ để vẽ hoặc khắc chữ để thể hiện niên hiệu, minh văn, ví dụ như Đại Minh có Tuyên Đức niên tạo (宣德年造), Gia Tĩnh niên tạo (大明嘉靖年製), Vạn Lịch niên tạo (大明萬曆年製)…Và cũng bắt đầu từ thời Đại Minh Thanh Hoa Sứ được vận chuyển đến các nước Đông Nam Á, Châu Phi… bằng đường biển.
dosu5
Về sau Sứ Lễ Lăng của Hồ Nam, Đường Sơn của Hồ Bắc, Thạch Loan của Quảng Đông…với những bản sắc riêng của mình cũng đã danh tiếng trên toàn thế giới.

Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Tần Thủy Hoàng–Vị Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc

Trước Công Nguyên năm 770 Tần mới được phong làm một trong những Hầu Quốc phía Tây của Trung Quốc, lãnh thổ nhỏ, quốc lực không mạnh, luôn luôn bị Hầu Quốc Trung Nguyên khinh thường.

Tần Thủy Hoàng
Tần Thủy Hoàng
Nhưng từ khi Tần tiến hành biện pháp Thương ưởng biến thì quốc lực ngày càng mạnh lên và rất nhanh đã trở thành cường quốc mạnh nhất trong 7 nước chiến quốc, sau khi Tần Vương Doanh Chính lên ngôi, đã phát động chiến tranh với quy mô lớn. Bắt đầu từ trước Công Nguyên năm 230, trải qua 10 năm lần lượt tiêu diệt Hàn (là một nước nhà Chu), Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, đến trước Công Nguyên năm 221 đã thống nhất 6 nước.

Doanh Chính luôn mơ tưởng Tần sẽ vĩnh viễn là nước thống trị, bởi vậy ông đã tự coi mình là “始皇帝” tức vị Hoàng Đế đầu tiên, và con cháu của mình sẽ là thế hệ thứ 2, thứ 3…Do đó, trong lịch sử đã coi ông là vị Hoàng Đế đầu tiên (trước Công Nguyên 259- trước Công Nguyên năm 210).

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất 6 nước đã áp dụng một loạt các biện pháp để củng cố nước Tần. Ví dụ như trong bộ máy chính quyền ông thiết lập Thừa Tướng, đại phu Ngự Sử, Thái Úy…Thừa Tướng giúp Hoàng Đế xử lý các việc triều chính, đại phu Ngự Sử giúp vua giám sát các quan trong triều đình, Thái Úy quản lý quân binh, đều do Hoàng Đế miễn nhiệm.

Tượng binh tướng trong mộ Tần Thủy Hoàng
Tượng binh tướng trong mộ Tần Thụy Hoàng

Tại các địa phương , bãi bỏ các chế độ phong kiến còn lưu lại từ thời nhà Thương (vua Thang thay Hạ lên làm vua gọi là nhà Thương, cách nay chừng 3650 năm) và nhà Chu. Thi hành chế độ phân nước thành nhiều quận huyện khác nhau, toàn quốc phân thành 36 quận (về sau tăng lên thành 40 quận), dưới quận thiết lập huyện. Trưởng quan gọi là quận thủ và huyện lệnh, đều do Tần Thủy Hoàng trực tiếp bổ nhiệm, phụ trách quản lý nhân dân.

Như vậy Tần Thủy Hoàng có thể thống trị cả nước Tần to lớn và nắm giữ quyền lực trong bàn tay mình. Sau khi thống nhất ông đã lập tức dùng những pháp luật, pháp lệnh sẵn có của Tần quốc để áp dụng đến từng vùng trong toàn quốc, làm cho pháp chế trong toàn quốc được thống nhất vào pháp chế của Tần quốc .

Tượng binh tướng trong mộ Tần Thủy Hoàng
Tượng binh tướng trong mộ Tần Thủy Hoàng

Thời kì chiến quốc, các đơn vị đo của từng nước không giống nhau, Tần Thủy Hoàng đã quyết định thống nhất đơn vị đo chiều dài, dung lượng, trọng lượng… từ đó thúc đẩy mạnh sự phát triển về kinh tế. Triều Tần còn thống nhất tiền tệ. Chính phủ Tần quy định, dùng đồng xu của Tần quốc (hình tròn có lỗ ở giữa) làm tiền tệ lưu thông trong toàn quốc. Việc này đã thúc đẩy việc giao lưu kinh tế giữa các dân tộc các khu vực khác nhau, và càng ngày càng chiếm vai trò quan trọng. Về sau, các triều đại kế tiếp đều mô phỏng theo tiền đồng xu của Tần Quốc để sản xuất.

Không những thế Tần Thủy Hoàng còn cho ra lệnh thống nhất chữ viết, ông quyết định dùng chữ triện làm chữ chuẩn và sử dụng thông dụng trong toàn quốc. Về sau, lại xuất hiện loại chữ viết đơn giản hơn thể chữ triện là thể chữ lệ. Hiện tại, đang sử dụng thể chữ khải, là từ chữ lệ biến hóa thành. Chữ viết được thống nhất đã thúc đẩy giao lưu về văn hóa giữa các vùng.

Trước Công Nguyên năm 213, Thừa Tướng Lý Tư cho rằng, nếu mọi người biết đọc thơ, sách… các loại cổ thư, sẽ biết cách vận dụng những quan điểm để phê phán các chính sách cai quản của triều đình và như vậy sẽ rất bất lợi cho Tần Thủy Hoàng. tanthuyhoang-great_wallTheo ý kiến của ông thì ngoài những loại sách như sách y dược, trồng trọt và một vài sách nữa ra thì không nên lưu lại, đặc biệt là các sách lịch sử hay thư tịch của các nước đều cần phải đem đốt hết. Tần Thủy Hoàng đã nghe theo ý kiến của Lý Tư. Đến năm thứ 2, xuất hiện một vài phần tử trí thức dị nghị và bàn tán sau lưng Tần Thủy Hoàng là ngang ngược, ỷ quyền thế mà quyết đoán bừa bãi, lạm dụng hình phạt… Lời bàn tán đến tai Tần Thủy Hoàng, ông quyết định truy xét đến cùng, và cuối cùng đã chôn sống hơn 460 người, hai sự việc này được sử sách lưu lại với tên “Thiêu Thư Khang Nho”.

Tướng Mông Điềm đánh bại quân Hung Nô, Tần Thủy Hoàng vì đề phòng quân Hung Nô sẽ xâm chiếm lãnh thổ lần nữa nên đã ra lệnh xây sửa Vạn Lý Trường Thành. Tại phía Nam, lo qui phục Việt tộc, mở rộng sự giao lưu giữa các dân tộc.

Tần Thủy Hoàng đã hoàn thành thống nhất đại nghiệp, kết thúc trường kì chia cắt của các Hầu quốc, thiết lập một nhà nước nhiều dân tộc thống nhất đầu tiên của Trung Quốc (Lãnh thổ của triều Tần, đông đến giáp biển lớn, tây đến bờ tây, bắc đến dải trường thành, nam đến Nam hải, nhân khẩu khoảng 2000 vạn người).

Kiều Tố Uyên
DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

Truyền thống tư tưởng của Trung Quốc

Người Hoa thường coi trọng đến sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đến cách đối nhân xử thế của từng cá nhân và đặc biệt chú trọng đến ý thức tỉnh ngộ của từng con người, do đó trong truyền thống tư tưởng của người Hoa thì “无人合一” tức “Vô nhân hợp nhất” là chủ đề hay được bàn luận nhất.

Có thể nói , Trung Quốc có một hệ thống tư tưởng rất hoàn chỉnh đã được hình thành từ mấy nghìn năm nay và có ảnh hưởng sâu sắc đến người dân của họ, mà nòng cốt của hệ thống tư tưởng này phải kể đến: Khổng Tử, Mạnh Tử (đã sáng lập ra tư tưởng Nho giáo); Lão Tử, Trang Tử (đã sáng lập ra tư tưởng đạo giáo); và tư tưởng phật giáo. Trong đó, ảnh hưởng đến Trung Quốc nhiều nhất và sâu đậm nhất vẫn là tư tưởng Nho Giáo .

Khổng Tử
Khổng Tử

Khổng Tử :( Trước Công Nguyên 551- Trước Công Nguyên 479), họ Khâu, tên Trọng Ni, người Lỗ quốc. Là một trong những nhà tư tưởng, nhà giáo và là người sáng lập ra tư tưởng Nho giáo vĩ đại của Trung Quốc. Tổ tiên của Khổng Tử là dòng tộc cao quý thời Tống quốc, là hậu duệ của Ân Vương Thất. Cha Khổng Tử mất từ khi ông còn nhỏ, sau đó hoàn cảnh gia đình càng ngày càng sa sút. Mặc dù nghèo khổ nhưng ông lại rất quyết tâm học, ông đã từng nói: “三人行,必有我师焉” (Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư), tức “Trong 3 người bất kì cùng đi bộ với nhau, tôi nhất định sẽ tìm ra một điều gì đó của họ để học hỏi” .

Về sau, ông bắt đầu thu nhập học trò, tổng cộng khoảng hơn 3000 học trò, trong đó có không ít trẻ em thuộc gia đình nghèo khó, và chính ông đã làm thay đổi truyền thống chỉ có con em nhà quý tộc mới đủ tư cách đi học đã được lưu truyền trước đó. Về cuối đời ông có biên soạn cuốn Cổ Thư Tịch, trong đó có lưu giữ rất nhiều những dữ liệu thời cổ đại, và cho đến nay rất nhiều các tác phẩm mà chúng ta được đọc đều do thông qua ông biên soạn.

Rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử cho đến nay vẫn rất giá trị, ví dụ : Khổng Tử làm phong phú nội hàm của từ :”仁”tức “nhân”. Ông cho rằng, “nhân” có nghĩa là phải biết quan tâm đến người khác, nếu những việc gì mà bản thân không thích thì cũng không nên ép người khác làm. Ông còn cho rằng trong việc xử lý quan hệ giữa con người với con người cần phải công nhận sự khác biệt giữa người với người, không nên dùng một chuẩn mực nhất định để đánh giá đối phương, có vậy mới tồn tại một xã hội công bằng và ổn định.

Trong lĩnh vực giáo dục, ông dùng phương pháp khêu gợi để rèn luyện tính độc lập suy nghĩ của học trò, ngoài việc học những kiến thức trong sách vở ông còn khuyến khích học trò của mình phải có những quan điểm riêng …

Tư tưởng của ông đã được người sau ghi nhận và đến nay đã trở thành một trong những luồng tư tưởng chủ yếu của người dân Trung Quốc, đồng thời tư tưởng này càng ngày càng được truyền bá rộng rãi đến các nước xung quanh.
confucian
“Tứ Thư Ngũ Kinh” và Tư tưởng Nho Giáo

Tứ Thư: Thực ra “Tứ Thư” tồn tại từ thời đầu nhà Tần, nhưng lúc đó chỉ chưa tồn tại cách gọi “Tứ Thư” mà thôi. Tứ thư gồm 4 quyển sách: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, và Mạnh Tử.

Quyển Mạnh Tử là cuốn sách tóm tắt về Tư tưởng chính trị của Mạnh Kha. Còn Đại Học và Trung Dung là hai chương trong “Lễ Kí “, chủ yếu giảng về cách học hỏi và cách sửa chữa những khuyết điểm của bản thân . Đến thời Nam Tống, Chu Hi đem phân khai thành hai cuốn riêng biệt, đồng thời bổ sung chú giải thêm, và kết hợp với Luận Ngữ, hợp thành giáo trình sơ cấp cho những người học Nho Giáo, và lấy tên là “Tứ Thư”.

  • Đại Học vốn chỉ là một chương trong sách Lễ kí (Kinh Lễ sau này), được Tăng Sâm, học trò của Khổng Tử chế hóa thành. Tuy nhiên, nó chỉ thuộc bộ Tứ thư vào thời Tống, với sự xuất hiện cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hi. Sách Đại học gồm 2 phần: Phần đầu có một chương gọi là Kinh, chép lại các lời nói của Khổng Tử. Phần sau là giảng giải của Tăng Tử (Tăng Sâm), gọi là Truyện, gồm 9 chương.
  • Đại học đưa ra ba cương lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng), Tân dân (làm mới cho dân. Có khi viết là thân dân, nghĩa là gần gũi với dân), và Chỉ ư chí thiện (dừng ở nơi chí thiện).

    Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là bát điều mục), bao gồm:
    — Cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật)
    — Trí tri (đạt tri thức về sự vật)
    — Thành ý (làm cho ý của mình thành thực)
    — Chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính)
    — Tu thân (tu sửa thân mình)
    — Tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đình hài hòa)
    — Trị quốc (khiến cho nước được an trị)
    — Bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên bình).
    confucianbook

  • Trung Dung do cháu nội của Khổng Tử là Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử. Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử.
  • Sách Trung Dung chia làm hai phần:

    * Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời.

    * Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung..

  • Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Sách Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
  • Mạnh tử: Do học trò của Tử Tư (cháu nội Khổng Tử) là Mạnh Kha và các học trò của Mạnh Kha biên soạn. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
  • * Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa.

    * Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quí, quốc gia kế tiếp, vua là thấp nhất). Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành.

    confucius1
    “Ngũ Kinh” gồm Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư (“Thượng Thư”) , Kinh Lễ (“Lễ Kí”) và Kinh Xuân Thu, 5 bộ điển tịch.

    1. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,…

    2. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng.

    3. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.

    4. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự.

    5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.

    Thời kì Minh Thanh, mỗi lần thi cử đều dựa vào những câu văn trong “Tứ Thư Ngũ Kinh ” để ra đề, thí sinh bắt buộc phải dựa vào cuốn “Tứ Thư ” của Chu Hi để giải thích câu chữ trong bài. Và tất nhiên, “Tứ Thư Ngũ Kinh ” đã trở thành cuốn sách luyện thi quan trọng của các phần tử trí thức. Và cho đến nay, tư tưởng hàm ẩn trong “Tứ Thư Ngũ Kinh ” cũng vẫn còn ảnh hưởng đến con người thời nay .

    Lão Tử
    Lão Tử

    Lão Tử, Trang Tử và tư tưởng Đạo Giáo :

    Lão Tử là người đầu tiên sáng lập ra tư tưởng Đạo Giáo của Trung Quốc (vào giai đoạn cuối của thời kì Xuân Thu ). Lão Tử, họ Lý, tên Nhĩ, ông đã từng làm người coi quản thư sách trong triều đình.Tác phẩm của Lão Tử, Đạo Đức Kinh, mặc dù chỉ có hơn 5000 chữ, nhưng có ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sau.

    Lão Tử dùng “道” tức “đạo” để giải thích sự hình thành và diễn biến của vũ trụ, ông cho rằng tư tưởng và hành vi của con người cũng nên tuân theo đặc điểm và quy luật của chữ “đạo”, thuận theo tự nhiên, dùng nhu để trị cương, bởi vì những vật bề ngoài có vẻ yếu mềm nhưng bản chất lại thường rất cứng rắn.

    Về sau Trang Tử đã gánh vác và tiếp tục phát triển tư tưởng của Lão Tử. Trang Tử tên là Chu, ông đã từng làm một quan nhỏ trong Sơn Viên tại Mông Cổ của Tống quốc. Trong tác phẩm của mình ông đã kế tiếp và phát triển quan điểm “道法自然” tức “Đạo Pháp Tự Nhiên” của Lão Tử, chủ trương đem vạn vật bên ngoài và bản thân tương đồng với nhau, hay đem sự sống và cái chết tương đồng với nhau.

    Vì tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử có nhiều điểm rất giống nhau cho nên mọi người có thói quen gọi tên :Lão Trang .

    suzhou-buddha
    Tư tưởng Phật Giáo

    Ngay từ triều Hán, sau khi Phật Giáo được hình thành tại Ấn Độ đã được truyền bá vào Trung Quốc. Trong quá trình phát triển tại Trung Quốc Phật Giáo đã không ngừng được Trung Quốc hóa , và có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống tư tưởng Tôn Giáo của người Trung Quốc — Tư Tưởng Phật Giáo.

    Tùy – Đường là thời kỳ Phật Giáo được Trung Quốc hóa phát triển nhất. Cùng với sự thống nhất của quốc gia, sự phát triển vượt bậc về văn hóa và kinh tế của nước nhà, Phật Giáo đã đạt được mức phát triển chưa từng có từ xưa đến nay. Phật Giáo trong quá trình hòa nhập với nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc,đã kết nạp không ít tư tưởng Nho Giáo và Đạo Giáo, hình thành nên một vài Tôn phái Phật Giáo Trung Quốc hóa. Trong đó, Thiền Tông là phái mạnh nhất. Tư tưởng Phật Giáo đươc hình thành đã lấp kín những thiếu sót trong tư tưởng truyền thống và làm phong phú thêm nền văn hóa của Trung Quốc.

    Kiều Tố Uyên
    DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

    Cung điện và những con số

    Mỗi lần đi thăm các Cung Điện Hoàng Gia hay các Viên Lâm trên đất nước Trung Quốc, tôi thường được nghe những thông tin thú vị về mối liên quan giữa kiến trúc xây dựng của các Cung đình và các con số nơi đây (đặc biệt là số 9 ).

    Cố cung ở Bắc Kinh
    Cố cung ở Bắc Kinh

    Người xưa cho rằng số lẻ là dương, số chẵn là âm, mà “9” là số lẻ lớn nhất, tức coi “9” là số cực dương. Do đó, số 9 thường được dùng để trang trí trong các Cung Điện nhằm tôn vinh vị trí cao nhất của Hoàng Đế. Ví dụ như trên các cửa ra vào trong Cung Đình đều được đóng đinh theo chiều dọc và ngang, mỗi chiều 9 đinh, tổng cộng là 81 đinh. Ngay cả Thạch Môn (cửa được làm bằng đá đặc) của Đinh Lăng Địa Cung (tại Bắc Kinh) cũng được khắc 99 đinh, hay khi đến Lạc Dương thăm Miếu Quan Đế cũng thấy trên cánh cửa Miếu được khắc 99 đinh. Dù là Quan Vũ không phải là hoàng đế, ngưởi ta tôn kính ông như vua, sau khi ông mất người dân đã đóng 99 đinh lên cánh cửa Miếu để tỏ lòng tôn kính ông).

    Khi đến thăm các Hoàng Cung, nếu bạn chú ý một chút bạn sẽ phát hiện ra Hoàng Cung có kiến trúc 9 sân sướng, hay khi đến thăm Miếu Khúc Phụ Khổng (một trong những Miếu được xây dựng với quy mô lớn nhất tại Trung Quốc hiện nay) cũng có kiến trúc 9 sân sướng (thông qua đó có thể thấy Đế Vương rất coi trọng và ưu ái đại thánh Khổng Tử ).

    Thông qua thống kê , Cố Cung của Bắc Kinh xây dựng khoảng hơn 9900 gian phòng (cũng có người thích nói quá đi một chút rằng Cố Cung có khoảng 9999 gian phòng).

    Người Trung Quốc cho rằng hai số lẻ 9 và 5 khi kết hợp với nhau sẽ tượng trưng cho sự tôn nghiêm của Đế Vương . Do đó, Thành Lầu của Thiên An Môn được xây dựng rộng 9 gian và sâu 5 gian, hay cấu trúc xây dựng 9 dầm 18 trụ của Cố Cung Giác Lầu và kiến trúc 9 tường rồng của Cố Cung tại Đại Đồng và Bắc Hải …đều đại diện cho vận may và sự uy nghiêm của Hoàng Đế .

    Cầu đá  17 vòm của Di Hòa Viên
    Cầu đá 17 vòm của Di Hòa Viên

    Di Hòa Viên (một Viên Lâm Hoàng Gia nổi tiếng của Trung Quốc ): Trong Viên có một chiếc cầu đá 17 vòm, chiếc cầu đá này cũng kết duyên với số 9 đấy các bạn ạ. Không tin các bạn có thể kiểm tra điều tôi nói bằng cách đếm từ bất kì đầu cầu nào đến vòm chính giữa của cầu, thì thứ tự của vòm chính giữa cũng đều là số 9 đấy.

    Hoàn Khâu Đàn trong Thiên Đàn (là nơi ở của Hoàng Đế Tế Thiên , thời Minh Thanh) có thể coi là một tòa kiến trúc số 9 rất đặc biệt, Đàn được chia làm 3 phần: phần trên, phần giữa, phần dưới. Tầng trên do 9 tấm đá đồng tâm hợp thành, vòng tròn thứ nhất (tức vòng tròn trong cùng) do 9 miếng đá hình quạt tạo thành, vòng hai do 18 miếng đá (tức 9×2), vòng ba do 27 miếng đá (tức 9×3)… cho đến vòng thứ 9 do 81 miếng đá hợp thành (tức 9×9).

    Hoàn khâu đàn
    Hoàn khâu đàn

    Ngoài ra số 9 còn được dùng trong các buổi đại lễ hay các buổi yến tiệc của Cung Đình Đại Thanh, ví dụ số phẩm được chuẩn bị là 99 phẩm, hay sinh nhật của Đế Vương khi tổ chức các tiết mục giải trí đều phải đủ 81 tiết mục, nhằm ngụ ý chúc Đế Vương luôn gặp vận may và trường thọ .

    Giờ khi đi thăm các Cung Đình hay các Viên Lâm của Trung Quốc các bạn hãy thử chú ý đến sự tồn tại của các con số đi nhé, chúc các bạn một ngày vui vẻ.

    Kiều Tố Uyên

    Cổ Cầm

    cocam1
    Chào các bạn,

    Hôm nay Tố Uyên xin giới thiệu đến các bạn Cổ Cầm, một nhạc cụ rất cổ nhưng có âm hưởng rất phong phú và hai bản nhạc cổ cầm.

    Cổ Cầm (hay còn gọi đàn Cầm,đàn bảy dây) là một trong những loại đàn khảy cổ nhất của Trung Quốc hiện nay. Từ thời Khổng Tử đàn Cầm đã là một trong những loại nhạc cụ thông dụng và được nhiều người ưa thích, âm thanh của đàn thanh cao, âm vang nên người xưa thường thông qua tiếng đàn để gửi gắm tình cảm và những lý tưởng vào trong đó.

    Đến đời Đường, Cổ Cầm đã có pháp ký phổ chuyên riêng, trong pháp ký phổ có lưu lại vị trí của dây đàn, cách khảy đàn bằng tay trái tay phải …nhưng không trực tiếp ghi chép âm cao.

    Pháp ký phổ dùng bộ thủ của chữ Hán, các chữ số, chữ giảm thể hợp thành và được gọi là Giảm Tự Phổ. Cho đến nay Ngũ Tuyến Phổ (năm dòng kẻ, hiện đang sử dụng) vẫn không thể thay thế được cách ghi chép tỉ mỉ và tính khoa học của Giảm Tự Phổ. Theo thống kê thì dùng Giảm Tự Phổ để ghi chép và lưu truyền các tác phẩm của Cổ Cầm có khoảng hơn 150 loại và hiện được coi là kho âm nhạc quý hiếm cần được bảo tồn.

    Sau đây là một vài giới thiệu về cấu tạo của đàn Cổ Cầm:

    Cổ Cầm dài khoảng 120-125cm, rộng khoảng 20cm, dày khoảng 6cm. Hình dáng của đàn được mô phỏng theo hình dáng Phượng Hoàng, toàn thân đàn tương ứng với thân Phượng Hoàng ( cũng có thể nói tương ứng với thân người ) bao gồm: đầu đàn, cổ đàn, vai đàn, lưng đàn, đuôi đàn, chân đàn. Phần phía trên đầu đàn được gọi là phần trán , đoạn dưới phần trán có nạm gỗ cứng để buộc dây đàn, gọi là Nhạc Sơn (hay Lâm Nhạc ) là phần cao nhất của đàn. Phần đáy đàn có hai rãnh âm, nằm ở phần giữa đáy đàn kích thước lớn gọi là Rãnh Long, nằm ở phần đuôi của đáy đàn kích thước nhỏ hơn gọi là Rãnh Phượng, đây gọi là trên núi dưới biển vừa có Rồng lại vừa có Phượng , tượng trưng cho đất trời vạn vật .
    cocam
    Nhạc Sơn giáp với trán đàn có nạm một thanh gỗ cứng gọi là Thừa Lô , phía trên Thừa Lô có 7 mắt dây dùng để cột dây đàn, phía dưới Thừa Lô có 7 Chẩn Cẩm dùng để điều chỉnh dây đàn. Phía ngoài cùng của đầu đàn có mắt Phượng và phần bảo vệ Chẩn Cẩm.

    Phần đuôi đàn cũng được nạm bằng gỗ cứng , trên mặt gỗ được khắc những rãnh nông dùng để cột dây đàn ( được gọi là Long Lợi ) , hai bên Long Lợi là Quán Góc ( hay còn gọi Tiêu Vĩ ).

    7 dây của đàn được cột từ phần Thừa Lô, mắc qua phần Nhạc Sơn, Long Lợi, sau đó chuyển hướng xuống đôi Túc Nhạn nằm ở phần đáy đàn. Còn phần mặt của đàn có 13 Cầm Huy, tượng trưng cho một năm có 12 tháng và một tháng nhuận.

    Phần hộp đàn của Cổ Cầm là cả một khúc gỗ được khoét rỗng tạo thành , thành hộp khá dày và ghồ ghề , do đó âm thanh của đàn thanh cao , ý vị .

    Phần đầu của bụng đàn có 2 rãnh âm là Thiệt Huyệt và Thanh Trì , phần đuôi của bụng đàn có một rãnh âm được gọi là Ý Chiểu. Đối ứng với Long Trì và Phượng Chiểu đều có phần nạp âm riêng. Phần đầu của nạp âm Long Trì có Thiên Trụ, phần đuôi có Địa Trụ, làm cho khi khảy đàn âm phát ra bị giữ lại không thoát đi được.

    Vì đàn không có Phẩm (cột) nên khi khảy đàn sẽ linh động hơn, lại có những ưu điểm sau: dây đàn khá dài, độ rung của dây đàn lớn, dư âm dài … do đó Cổ Cầm mang những nét đặc sắc riêng của thủ âm.

    Sau đây mời các bạn thưởng thức 2 bản Cổ Cầm. Bản đầu có cổ cầm, sáo và giọng ca. Bản sau là Nước Chảy, do Qong Yi độc tấu cổ cẩm.

    Ca cùng với cổ cầm và sáo


    .

    Nước Chảy – Gong Yi – 2008

    Thị trấn cổ Trấn Viễn

    Tỉnh Quý Châu, Trung Quốc
    Tỉnh Quý Châu, Trung Quốc

    Đã rất lâu rồi trong một lần đọc sách tại thư viện trường 广西医科大学 tôi có tìm được một cuốn sách liên quan đến Quý Châu, liên quan đến thị trấn cổ Trấn Viễn. Trong cuốn sách đó có lưu một vài bức ảnh về phong cảnh nơi đây và tôi đã bắt đầu thích thú tìm hiểu về Trấn Viễn từ hồi đó. Nhưng lúc đó còn phải đi học, phải bận bịu với thi cử và cũng chưa thật sự quyết tâm lắm nên tôi cũng chỉ biết đến Trấn Viễn qua sách báo mà thôi .

    Thời gian gần đây vì tâm tư không được thoải mái tôi đã quyết định đi đâu đó để thay đổi không khí, không biết vì vô tình hay vì có duyên với Trấn Viễn mà tôi lại tìm được quyển sổ ghi chép về Trấn Viễn từ hồi còn học đại học. Tôi đã thuyết phục được một vài đồng nghiệp cùng mình đến đó trong mấy ngày cuối tuần vừa qua.

    Sắc tộc Miêu Sừng Dài ở Quý Châu
    Sắc tộc Miêu Sừng Dài ở Quý Châu

    Quý Châu là một tỉnh có nhiều núi và cao nguyên. Phía Bắc giáp Tứ Xuyên, Tây giáp Vân Nam, Nam giáp Quảng Tây và Đông giáp Hồ Nam. Quý Châu là một trong những tỉnh nghèo nhất Trung quốc và có nhiều dân tộc thiểu số nhất Trung quốc. Hơn 37% dân số Qúy Châu là các sắc tộc thiểu số, và 55% diện tích của tỉnh dành riêng cho các khu tự trị của các sắc dân thiểu số. Huyện Trấn Viễn nằm trong khu tự trị của dân tộc Miêu và dân tộc Đồng (Kiềm Đông Nam).

    Một chuyến đi thật vất vả, chúng tôi phải ngồi ô tô một tiếng đồng hồ đến ga Tương Đàm, rồi lại nằm trên tàu mất 8h đồng hồ mới đến nơi. Khi đặt chân đến nhà ga Trấn Viễn ấn tượng của tôi không được tốt cho lắm. Đó là một nhà ga chật hẹp và cũ kĩ, lại chen chúc không biết bao nhiêu là người. Tôi hết bị đẩy về phía trước rồi lại bị xô sang trái, sang phải và thật vất vả mới có thể thoát khỏi khu nhà ga đầy khách du lịch ấy. Tôi lấy quyển sổ ghi chép của mình ra và bắt đầu cuộc hành trình của mình .

    Nguời Đồng trong lễ phục.  Người dân tộc Đồng sống ở Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Tây (Trung quốc) và Bắc Việt Nam
    Nguời Đồng trong lễ phục. Người dân tộc Đồng sống ở Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Tây (Trung quốc) và Bắc Việt Nam

    Địa điểm đầu tiên mà chúng tôi đến là khu phố cổ Miêu Cương. Miêu Cương được chia làm 6 khu nằm dọc hai bên bờ sông Vũ Dương. Khu 1 là khu phố đi bộ và cũng được coi là khu phố phát triển nhất tại đây, đa phần tầng một là những gian bán hàng lưu niệm hay quà đặc sản cho khách du lịch. Những trái kiwuy được cắt thành khoanh tròn, hay những trái cà chua nhỏ bằng đầu ngón tay được tẩm một lớp mật ong bên ngoài và sấy khô… được đựng trong những hộp kính trông rất hấp dẫn, bên cạnh đó là một sạp gỗ được xếp rất nhiều những ống tre bên trong có đựng rượu, còn sạp đối diện thì đặt rất nhiều những hộp đậu phụ thối, măng chua…
    Toàn cảnh trị trấn Trấn Viễn bên dòng Vũ Dương
    Toàn cảnh trị trấn Trấn Viễn bên dòng Vũ Dương
    Đồ lưu niệm thì chủ yếu là những khung thêu phong cảnh Vũ Dương hay Động Thanh Long… và có một gian hàng mà tôi rất thích vì ở đó bán rất nhiều những đôi hài bằng lụa, bên trên được thêu bằng những sợi chỉ ngũ sắc trông rất lạ mắt .

    Khoảng 12h trưa chúng tôi rời khỏi khu 1 và sang khu 2. Đây là khu nhà trọ dành cho khách du lịch, sau khi kiếm được phòng nghỉ với giá vừa phải, chúng tôi đã vứt đồ ở đó rồi tiếp tục cuộc hành trình của mình đến khu 3. Khu này bán toàn đồ ăn uống, đồ ăn ở đây cay lắm lại nhiều dầu nữa, vì họ cho rằng nhiều dầu là thể hiện tấm lòng quý mến khách.

    Trước Động Thanh Long
    Trước Động Thanh Long

    Ăn xong, chúng tôi đi bộ lang thang đến khu 4 và lên thuyền chạy dọc trên sông Vũ Dương。 Sông Vũ Dương được phân thành 394 địa điểm du lịch như: Thành cổ Trấn Viễn, Suối Thiết, Thượng /Hạ Vũ Dương, núi Vân Đài…

    Thành cổ Trấn Viễn nằm ở đoạn cuối của sông Vũ Dương, đã có 2000 năm lịch sử và được liệt kê là một trong những thành cổ nổi tiếng của Trung Quốc. Trong thành có 5 cảnh quan nổi tiếng là: Động Thanh Long, Động Trung Nguyên, Động Ngô Vương, Thôn Hòa Bình, Điện Tứ Cung. Trong đó Động Thanh Long được cho là kiến trúc cổ có quy mô lớn nhất, kết cấu tinh xảo nhất và là đại diện cho quần trúc cổ của Qúy Châu .

    Nhà cổ ở thôn Hòa Bình
    Nhà cổ ở thôn Hòa Bình

    Động Thanh Long nằm trên vách núi cheo leo , trong động có sử dụng hạ điếu, nham thạch, trúc đài …các loại kiến trúc cổ, vì vậy Động Thanh Long luôn giữ được bản sắc “trong Động có Lầu” và “trong Lầu có Động”. Động Thanh Long bao gồm 6 cảnh quan chính là: Cầu Chúc Thánh, Thiền Viện Truy Nguyên, Cung Vạn Thọ, Nham Hương Lô… Đây cũng là nơi hội tụ của phật giáo kinh điện, đạo giáo miếu đường, viện nho giáo.
    Phố cổ Miêu Cương
    Phố cổ Miêu Cương

    Sau khi thăm hết Động Thanh Long chúng tôi đã vào một quán lẩu cá nằm ngay cạnh sông Vũ Dương , vừa giải quyết cái bụng đói meo vừa ngắm cảnh thành cổ vào buổi tối thật là sảng khoái. Ăn xong chúng tôi đi dọc phố và gặp rất nhiều những nhóm hát kinh kịch. Người già ở đây rất yêu thích môn nghệ thuật này vì vậy trên bất kì dãy phố nào bạn cũng có thể bắt gặp những nhóm như thế này. Lang thang về phía gần bến có rất nhiều sạp hàng bán đồ ăn đêm, chủ yếu bầy bán cá nướng, tôm nướng, đậu phụ thối rán… Người dân ở đây đàn ông thì thích ngồi quây quần thành từng bàn nhỏ để đánh cờ, phụ nữ thì tập chung thành một tốp để học nhảy…

    Một ngày mệt mỏi cần phải được nghỉ ngơi ,chúng tôi đã quyết định quay trở về khách sạn và chuẩn bị cho chuyến đi của ngày hôm sau .

    Suối Thiết
    Suối Thiết

    Buổi sáng của ngày thứ 2 chúng tôi đã quyết định đi Suối Thiết , mất hơn 1 tiếng đồng hồ ngồi xe đến đó , rồi lại phải đi bộ men theo sườn núi mất 1 tiếng rưỡi mới đến đích cuối cùng。 Tổng chiều dài của Suối Thiết là 21km, vì chảy qua nhiều đoạn đất khác nhau nên có nhiều tên gọi khác nhau , từ đầu nguồn đến đoạn thôn Mã Lộ Hà được gọi là Suối Cam , đoạn từ thôn Mã Lộ Hà chảy đến Long Trì được gọi là Suối Mã Lộ Hà , từ Long Trì chảy đến kênh Hắc Đường gọi là Suối Long Đường, từ kênh Hắc Đường đến Động Tân Kiều gọi là Suối Ông Tử, và từ Động Tân Kiều đến đầu Suối Thiết gọi là Suối Thiết Sơn.

    Vừa đi vừa tán chuyện nên chúng tôi đến đích rất nhanh ,đó là một hồ nước phẳng lặng như gương, người ta nói rằng hồ nước này sâu không xác định được đáy, bởi vậy mà nước hồ mang màu xanh ngọc trông rất đẹp. Chúng tôi dừng chân tại đây để chụp ảnh, nghịch suối, ăn uống, đánh bài, hát hò… và đến 3h chiều lại men theo con đường cũ quay trở lại bến xe và đi thẳng đến ga tàu để trở về Trường Sa.

    Kiều Tố Uyên
    Hồ Nam,Trung Quốc

    Câu chuyện giữa Núi và Suối

    BeaverCreekMountain
    Các bạn ạ, hôm nay mình mới đọc một câu chuyện về cuộc đối thoại giữa Núi và Suối. Từ cuộc đối thoại này mình có thể thấy được hai quan điểm hoàn toàn khác nhau, vậy đó là những quan điểm như thế nào? Mời các bạn cùng đọc và cùng mình suy nghĩ nhé:

    Chân dung của Núi là sừng sững nguy nga, dáng vẻ của núi là uy nghiêm. Núi thường dùng sự nguy nga và uy nghiêm của mình để thể hiện mình là người cao nhất và vĩnh hằng nhất. Còn hình ảnh của Suối là thích nhảy nhót, tính cách của Suối là thích cười đùa, ồn ào, náo nhiệt. Mỗi khi chảy vòng quanh chân núi, Suối thường cất vang giọng hát của mình, và điều đó làm cho Núi cảm thấy Suối đang bỡn cợt với đời.

    Núi nói: “Cháu không thể yên tĩnh một chút được sao?”

    Suối đáp: “Vậy thì cuộc sống của cháu coi như chấm dứt ông ạ”.

    Núi thấy vậy liền nói: “Chị của cháu cũng là nước, chị ý hiền từ mẫu mực giống như tiểu thư, còn cháu lúc nào cũng nhảy nhảy nhót nhót một cách điên loạn”.

    Suối đáp: “Chị ý bị ông nhốt trong lòng núi -giống như một dòng nước đẹp nhưng đã chết, cả đời không thoát khỏi sự kiểm soát của ông, cháu không thích giống chị của mình” .

    Smoky Mountain Creek
    Núi nói: “Cháu không thấy trong hồ có bao nhiêu là thuyền buồm và tàu du lịch đó sao?”

    Suối liền hỏi lại Núi: “Nhưng chị ý có vui không ? Tại sao cháu chẳng bao giờ nghe thấy tiếng hát của chị ấy”.

    Núi trả lời: “Cuộc sống của chị ý an nhàn hơn của cháu nhiều”. Núi dùng giọng nói vang vọng của mình để trả lời : “Đã có biết bao nhiêu là khách du lịch thích chụp ảnh cùng chi ý đấy”.

    Suối nghe xong liền cười khanh khách và nói: “Thế chị ý có tự do không? Chị ý có thể tung tẩy giống như cháu mà không bị ai hạn chế không? Chị ý có biết là bên ngoài những dãy núi này là cả một thế giới mới lạ và có biết bao nhiêu điều thú vị không. Chị ý có…”
    mountainlake
    Núi nghe vậy không hài lòng chút nào liền cắt ngang giọng nói của Suối: ” Vậy cháu muốn tự do như thế nào? Cháu muốn nhảy nhót một cách điên loạn đến đâu? Cháu được sinh ra tại chân núi, cháu mang gien di truyền của núi. Ta đã đứng bất động ở đây cùng bầu bạn với trăng, sao, mây gió đã mấy nghìn năm nay rồi. Cái mà ta nhìn thấy ở các thế hệ sau là an phận chấp hành, biết nhường nhịn lẫn nhau, biết giữ gìn nét văn minh lâu đời, biết chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ của núi rừng …”

    Suối liền cười và hỏi lại: “Đúng là ông cao thật, cao đến mức có thể sánh với bầu trời. Nhưng ông có nhìn thấy phi thuyền trên mặt trăng không?”

    Núi giả vờ như điếc không nghe thấy gì và cúi xuống hỏi Suối: “Cháu nói cái gì ,cháu nói cái gì? Trên mặt trăng chỉ có chị Hằng Nga và chú Thỏ của chí ý, làm gì có phi thuyền nào đáp trên đó cơ chứ? Đã mấy nghìn năm rồi, ngoài mặt trời, mặt trăng, sao và mây xuất hiện trên đầu ta ra thì làm gì có vật nào cao hơn ta cơ chứ?”

    Suối liền đáp: “Ông đúng là già quá rồi, ông chỉ biết đến những tinh hoa của trời đất, của trăng sao, mà không cần biết đến những điều bí ẩn trong vũ trụ. Cứ tiếp tục như này thì linh hồn của ông sẽ dần dần khô héo, và đến một lúc nào đó hồn phách của ông cũng không còn nữa.”
    Yosemite Mountain Creek
    Núi phẫn nộ, chỉ thẳng vào Suối và quát: “Đứng im! Ngươi đừng có nhảy nhót như vậy nữa.”

    Trước sự phẫn nộ bất ngờ của Núi, Suối sợ quá liền òa lên khóc, những giọt nước mắt của Suối kết lại tạo thành bọt nổi lên trên mặt nước. Đúng vậy Suối sinh ra và lớn lên tại đây, Suối biết mình được phun trào từ trong lòng núi, Núi là người nuôi dưỡng Suối, là người luôn truyền cho Suối dũng khí chảy về phía trước mỗi khi gặp những tảng đá cản đường. Nhưng, nếu cứ cứng nhắc giống như tổ tiên của mình( Núi ) chỉ đứng im một chỗ thì Suối cảm thấy thà mình chết đi còn hơn là sống.

    Do đó, Suối liền nói với Núi: “Không cháu không thích an phận giống chị gái của mình, cháu muốn tìm đến những dòng sông, đến những Hồ lớn bên ngoài những dãy núi này, cháu muốn sát nhập với họ, cháu muốn tự đốt nóng mình để tạo ra nhiệt, tạo ra điện, tạo ra ánh sáng.”

    Núi thấy vậy rất lo lắng và cảnh cáo Suối: “Cháu có biết không? điểm quy tụ cuối cùng của sông, của hồ là Biển và khi cháu đã ra đến nơi đó rồi cháu sẽ không bao giờ còn gặp lại đại gia đình của mình nữa, Núi không thể rời đi cùng cháu đó, là bản tính rồi.”

    Suối liền nghẹn ngào đáp: “Nhưng chỉ có không ngừng chuyển động cuộc sống mới có thể vĩnh hằng được ông ạ, cháu phải đi đây, tạm biệt ông – Tổ tiên của cháu.”

    Cuộc đối thoại kết thúc rồi đó các bạn ạ, thật ngắn ngủi nhưng thật ý nghĩa phải không ,và bây giờ các bạn hãy thử suy nghĩ xem Núi và Suối có những quan điểm như thế nào nhé?

    Kiều Tố Uyên
    DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

    Hàng Châu và Bài thơ tình của Tế Hanh

    Chiều trên Tây Hồ
    Chiều trên Tây Hồ

    Chào các bạn,

    Các bạn đã đến Hàng Châu bao giờ chưa? Hôm nay mình giới thiệu với các bạn một chút ít về phong cảnh nơi đây nhé.

    Hàng Châu nằm ở phía Đông Nam của Trung Quốc, là thủ phủ của tỉnh Chiết Giang. Mọi người biết đến Hàng Châu không chỉ vì đó là một trong những thành phố thịnh vượng bậc nhất của Trung Quốc, mà do đây còn là một trong những địa điểm du lịch rất nổi tiếng, mỗi năm thu hút khoảng 20 triệu khách du lịch. Vì thế người Trung Quốc thường có câu cửa miệng là “Trên có Thiên Đường, dưới có Tô Châu, Hàng Châu” đấy các bạn ạ.

    Tỉnh Chiết Giang
    Tỉnh Chiết Giang

    Sau đây là một vài địa điểm du lịch chính tại Hàng Châu:

    1) Tây Hồ(西湖): Tên gọi cũ là Vũ Lâm Thủy, Hồ Tiền Đường, Hồ Tây Tử và đến đời Tống mới bắt đầu đổi tên thành Tây Hồ. Nằm ở trung tâm thành phố Hàng Châu, Nam Bắc dài 3.3km, Đông Tây rộng 2.8km, diện tích mặt hồ là 5.66km²., chiều sâu trung bình của nước hồ 2.27m.

     Bình hồ thu nguyệt ở Tây Hồ
    Bình Hồ Thu Nguyệt ở Tây Hồ

    Thưởng trăng tại Bình hồ thu nguyệt
    Thưởng trăng tại Bình Hồ Thu Nguyệt

    Tô đê và Bạch đê phân hồ thành 5 phần là: Ngoại Tây Hồ, Lí Tây Hồ, Lí Hồ, Nhạc Hồ,Tiểu Nam Hồ. Tây Hồ thông với sông Tiền Đường (tên cổ là sông Chiết Giang, Khúc Giang, Chi Giang, là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, chảy ra vịnh Hàng Châu ), lượng nước đổ vào sông Tiền Đường mỗi ngày khoảng 30 vạn m3.

    Trên đất nước Trung Quốc có khoảng 36 hồ được mang danh Tây Hồ, nhưng Tây Hồ của Hàng Châu là đẹp nhất,được Tô Đông Pha ( một nhà thơ ,thứ sử đời Tống) có viết rằng:”Thiên Hạ 36 Tây Hồ , Tây Hồ đẹp nhất vẫn là Hàng Châu.”

    Tế Hanh cũng mở đầu “Bài thơ tình từ Hàng Châu”:

    Tây Hồ, Hàng Châu
    Tây Hồ, Hàng Châu

    Anh xa nước nên yêu thêm nước
    Anh xa em càng nhớ thêm em
    Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
    Trời Hàng Châu bốn bề êm ái

    và kết bằng

    Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
    Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
    Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây
    Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.

    Mình có nguyên văn “Bài thơ tình ở Hàng Châu” ở cuối bài này. Mời các bạn thưởng thức.

    Du học sinh VN bên Tây Hồ
    Du học sinh VN bên Tây Hồ

    Phong cảnh chủ yếu của Tây Hồ bao gồm : nhất Hồ, nhị Phong, tam Tuyền, tứ Tự, ngũ Sơn, lục Viên, thất Động, bát Mộ, cửu Khê, thập Cảnh (bao gồm: Tô Đê Xuân Hiểu, Liễu Lãng Văn Oanh, Hoa Cảng Quan Ngư, Khúc Viện Phong Hà, Nam Bình Văn Chung, Bình Hồ Thu Nguyệt , Lôi Phong Tịch Chiếu ,Tam Đàm Ấn Nguyệt, Đoạn Kiều Tàn Tuyết, Song Phong Pháp Vân).

    Thập cảnh mới của Tây Hồ bao gồm: Linh Ẩn Thiền Tông(灵隐禅宗), Lục Hòa Thính Đào(六和听涛), Nhạc Mộ Thê Hà(岳墓栖霞), Tiền Từ Biểu Trung(钱祠表忠), Vạn Tùng Thư Duyên(万松书缘), Dương Đê Cảnh Hành(杨堤景行), Tam Đài Vân Thủy (三台云水), Mai Ổ Xuân Tảo (梅坞春早), Bắc Nhai mộng Tầm(北街梦寻).

    Hổ Bào Mộng Tuyền (suối Hổ bào)
    Hổ Bào Mộng Tuyền (suối Hổ bào)

    2. Hổ Bào Mộng Tuyền (虎跑梦泉) : Nằm ở phía Nam của Tây Hồ, trên núi Đại Từ Sơn. Dân gian lưu truyền lại rằng đại sư Tính Không (性空大师) trong một lần đi khảo sát trên núi Đại Từ Sơn phát hiện ra phong cảnh nơi đây rất đẹp nhưng nhược điểm là không có nguồn nước nên quyết định đi nơi khác, bỗng dưng có thần nhân nói với đại sư rằng : sẽ có hai con hổ chạy đến đây để đào suối, và đến sáng hôm sau quả thật có 2 con hổ chạy đến núi Đại Từ Sơn để đào suối . Vì thế suối ở đây được mang danh Suối Hổ Bào.

    Du khách đến Đại Từ Sơn chủ yếu là để ngắm suối, lắng nghe tiếng suối chảy, bình phẩm về suối , uống nước suối, nghe câu chuyện truyền kì về pháp sư Tính Không ,Tế Công , Hoằng Nhất… Nước suối nơi đây ngọt, trong, thuần, đậm đà, thanh khiết vô trùng. Do đó chè Long Tỉnh và nước suối Hổ Bào được coi là song sắc của Tây Hồ.

    Hiện nay Suối Hổ Bào đã được cải tạo lại toàn bộ, khôi phục lại Tế Công Tháp Viện(济公塔院), La Hán Đường(罗汉堂)…

    3) Nhạc Miếu (岳庙): Nằm ở phía Tây Bắc của Tây Hồ trên bờ Nhạc Hồ, được khởi công xây dựng vào công nguyên năm 1221, nhằm kỉ niệm người anh hùng dân tộc Nhạc Phi (岳飞) thời Nam Tống. Bên trong có miếu Trung Liệt, Khải Trung Từ và mộ Nhạc Phi. Trong miếu Trung Liệt có tượng đúc của Nhạc Phi, bên trên có dòng chữ “还我河山” tức ” Hãy trả lại sơn hà cho ta “, để tưởng nhớ đến công lao của ông .

    4) Cô Sơn (孤山) : Nằm ở phía Tây Bắc của Tây Hồ, bốn mặt bị vây quanh bởi nước. Cô Sơn mặc dù không cao nhưng đứng trên Cô Sơn để ngắm nhìn phong cảnh Tây Hồ lại được cho là vị trí lý tưởng nhất. Phía nam chân núi có Lầu Văn Lan (文澜阁), bảo tàng Chiết Giang, nơi ngắm cảnh Tây Hồ, công viên Trung Sơn. Phía tây đỉnh núi có : Tòa Tây Linh Ẩn, phía tây chân núi có mộ của Thu Cẩn, phía đông bắc có Đình Phóng Hạc(放鹤亭)…. Đình Phóng Hạc được xây dựng để tưởng nhớ đến nhà thơ đời Tống, Lâm Hòa Tịnh (林和靖). Chung quanh Đình được trồng rất nhiều hoa Mai , và đây là một trong những địa điểm để du khách ngắm hoa mai trong dịp Xuân.

    5) Linh Ẩn( 灵隐)- Phi Lai Phong (飞来峰): Linh Ẩn nằm ở phía Tây của Tây Hồ cạnh Phi Lai Phong. Truyền kỳ có lưu lại rằng cách đây 1600 năm đường tăng Huệ Lý (僧人慧理) khi đến Hàng Châu thấy cảnh núi non kì diệu nơi đây, đã nghĩ rằng đây là nơi trú ẩn của tiên nữ nên cho người dựng chùa tại đây và lấy tên là chùa Linh Ẩn.

    Tại đây ngoài điện Thiên Vương còn có đình Lãnh Tuyền. Nghe nói khi Tô Đông Pha đến Hàng Châu làm thứ sử đã thường xuyên ngồi một mình trong đình Lãnh Tuyền để làm thơ.

    Tây Hồ và Lục Hòa Tháp
    Tây Hồ và Lục Hòa Tháp

    Lục Hòa Tháp
    Lục Hòa Tháp

    6) Lục Hòa Tháp (六和塔): Nằm cạnh sông Tiền Đường trên núi hình nguyệt, được xây dựng vào thời Bắc Tống do chính Ngô Việt Vương chỉ đạo. Tháp gồm 7 mặt 8 tầng, cao 59.89m, trông rất hùng vĩ tráng lệ. Trèo lên tháp có thể thấy bao quát được toàn cảnh sông Tiền Đường. Hiện nay cạnh tháp Lục Hòa đã xây dựng thêm một tháp kiểu cổ mang tên Tháp Uyển (塔苑), vào bên trong Tháp Uyển có thể tham quan hơn 100 tháp cổ của các thời đại và các khu vực khác nhau. Phía bắc của Tháp Hòa Lục còn có Tháp Ứng Huyện Mộc (tháp được xây dựng theo mô hình tháp cổ của Đài Loan).

    7) Thiên Đảo Hồ (千岛湖): Các khu thăm quan trên đảo bao gồm: Thiên Đảo Cảnh Tú, Bích Ba Vạn Khuynh, Quần Sơn Điệp Tú, Hiệp Ốc U Thâm, Động Thạch Kỳ Dị … Mấy năm gần đây Thiên Đảo Hồ đã được xây dựng và cải tạo lại nhiều, hiện trên Thiên Đảo Hồ còn có thêm 6 địa điểm du lịch khác là:Tiễn Sơn, Bình Phong, Mai Phong, Long Sơn, Thạch Lâm, vườn động vật.

    Hoa đài tại Tam Đàm Bán Nguyệt (Tiểu Doanh Châu)
    Hoa đào tại Tam Đàm Ấn Nguyệt (Tiểu Doanh Châu)

    8)Tam Đàm Ấn Nguyệt (三潭印月): Hay còn gọi Tiểu Doanh Châu, là một trong 3 đảo có diện tích lớn nhất của Tây Hồ, cảnh quan phong phú nhất và được mệnh danh là danh cảnh số 1 của Tây Hồ. Đặc sắc của đảo là “湖中有岛、岛中有湖” tức “Trong Hồ có Đảo, trong Đảo có Hồ”. Tiểu Doanh Châu có dạng hình chữ Điền “田”, vòng ngoài và chữ thập bên trong được nối với nhau bởi cầu trong đảo. Cầu chia đảo thành 4 hồ riêng biệt, trung tâm của ốc đảo có dựng bức tường được khắc họa kín bởi thơ chữ tình. Phía Nam của Đảo là Tam Đàm Ấn Nguyệt, du khách đến đây chủ yếu là để thả đèn Hoa Đăng và ngắm nhìn ánh trăng phản chiếu trên mặt hồ vào ban đêm .

    Đoạn Kiều tàn tuyết
    Đoạn Kiều Tàn Tuyết

    9) Đoạn Kiều Tàn Tuyết (断桥残雪) : Truyền thuyết lưu lại rằng nơi hẹn hò của Bạch Nương Tử và Hứa Tiên nằm trên đoạn đầu của Bạch Đê. Được mang tên Đoạn Kiều bắt đầu từ đời Đường, vì thời xưa trên cầu có cửa, trên cửa có thiềm che, khi tuyết rơi xuống đoạn giữa của cầu đều đọng phía trên thiềm và đoạn giữa cầu thường không có tuyết phủ lên, còn hai đầu cầu lại phủ đặc tuyết. Và khi đứng nhìn cầu từ xa sẽ có cảm giác như cầu bị đứt ở giữa do đó cầu được mang tên Đoạn Kiều.

    10) Tô Đê Xuân Hiểu (苏堤春晓): Tô Đê trước đây còn được gọi là Tô Công Đê (苏公堤) , nằm ở phía tây nam của Tây Hồ, đầu Nam xuất phát từ Hoa Cảng Quan Ngư (花港观鱼), đầu Bắc tiếp Khúc viện Phong Hà (曲院风荷). Thời Tống, Tô Đông Pha khi đến Hàng Châu làm thứ sử đã ra lệnh nạo vét hồ và dùng bùn đắp thành đê bắc ngang qua hồ, với tổng chiều dài là 2.8km. Trên đê có 6 cầu là: Ánh Pha, Tỏa Lan, Vọng Sơn, Áp Đê, Đông Phố, Khoa Hồng. Và để tưởng nhớ đến công lao của ông con đê này đã được mang tên là Đê Tô.

    Và sau đây là “Bài thơ tình ở Hàng Châu” của Tế Hanh. Mời các bạn thưởng thức.

    Tây Hồ, Hàng Châu
    Tây Hồ, Hàng Châu

    Hồ Tây, Hà Nội
    Hồ Tây, Hà Nội

    Bài thơ tình ở Hàng Châu

    Anh xa nước nên yêu thêm nước
    Anh xa em càng nhớ thêm em
    Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
    Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
    Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
    Một ít vàng trong nắng trong cây
    Một ít buồn trong gió trong mây
    Một ít vui trên môi người thiếu nữ…
    Anh đã đến những nơi lịch sử
    Đường Tô Đông Pha làm phú
    Đường Bạch Cư Dị đề thơ
    Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
    Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
    Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
    Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
    Có hai ta cùng tựa bên cầu
    Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa
    Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
    Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
    Làn nước qua ánh mắt ai đưa
    Cơn gió đến bàn tay em vẫy
    Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
    Có núi sông và có trăng sao
    Có giận hờn và có chiêm bao
    Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
    Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm…
    Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
    Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi
    Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
    Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ

    Hồ Tây, Hà Nội
    Hồ Tây, Hà Nội

    Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
    Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
    Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
    Hai bóng người đi một hàng tùng bách
    Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh ?
    Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
    Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
    Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
    Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây
    Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.

    Tế Hanh –1956

    Chúc các bạn cuối tuần vui vẻ.

    Kiều Tố Uyên
    Hồ Nam, Trung Quốc

    Con gái Huệ An

    HueAnWoman

    Phúc Kiến
    Phúc Kiến

    HueAnwomen

    HueAnWomen

    HueAngirl

    hueanwomen

    hueanwoman1

    Tại bán đảo Huệ Đông thuộc huyện Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc có một quần tộc rất đặc biệt sinh sống, quần tộc đó mang tên Huệ An. Vì trang phục đặc biệt cộng thêm những tục hôn lễ rất kỳ lạ nơi đây nên danh tiếng của Huệ An đã trở nên nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Có người nói họ là dân tộc thiểu số, có người lại cho rằng họ là người dân tộc Hán. Họ sinh sống ven biển và chia thành 7 làng, với tổng nhân khẩu là gần 1 triệu người .

    Vẻ đẹp của con gái Huệ An được miêu tả bởi 3 chữ ” Thật, Thiện, Mỹ “. Từ thời cổ xưa con gái nơi đây đã nổi tiếng với đức tính cần cù , tiết kiệm , chịu thương, chịu khó. Vì con trai Huệ An thường ra khơi đánh bắt cá dài ngày, trong nhà chỉ có người già, trẻ em và phụ nữ, vì thế họ phải dùng chân để dạp đất, dùng đầu để đội trời, dùng bờ vai mềm yếu của mình để gánh vác những công việc nặng nhọc trong cuộc sống như quán xuyến việc nhà, làm ruộng, đẽo đá, cưa gỗ, đan lưới, may vá, buôn bán… Còn con gái thời nay lại tỏ ra rất hoạt bát, sôi nổi trong mọi nghành nghề. Họ dùng trí thông minh, sự kiên cường, sức dẻo dai, tính chịu thương chịu khó để theo đuổi cuộc sống hạnh phúc và để thể hiện tính đa phong cách của mình .

    Tục hôn lễ của người dân Huệ An phải nói là rất lạ lùng, nó khiến cho nhiều người không thể hiểu và tiếp nhận được. Sau đây tôi sẽ giới thiệu để các bạn cùng biết thêm nhé: Trong ngày cưới Tân Nương khoác trên mình một bộ đồ màu đen ( Người trong làng gọi là Áo Phượng Hoàng đen), tay cầm ô màu đen. Trước khi xuất gia Tân Nương phải bước qua bếp lò đã được đốt chuẩn bị sẵn. Đó là một trong những tập tục truyền thống của người dân Huệ An, vì họ cho rằng màu đỏ của ngọn lửa sẽ điềm báo trước về một cuộc sống thịnh vượng của hai vợ chồng.

    Sau đó Tân Nương sẽ được bạn bè và gia đình nhà gái đưa đến nhà trai chứ bên nhà trai không cho bất kì ai đến đón. Trong đêm tân hôn thì Tân Nương không được phép lên giường ngủ mà phải đứng ở cuối mép giường suốt đêm. Sau khi cưới 3 ngày thì Tân Lang sẽ đưa Tân Nương về bên nhà ngoại định cư trong một thời gian dài. Sau một năm thì hai vợ chồng về bên nhà nội ngủ ở đó một đêm, và sáng hôm sau lại quay về nhà ngoại.

    Chỉ có những ngày lễ tết truyền thống như Tết Nguyên Đán, tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ …hoặc khi nhà nội công việc đồng áng quá vất vả và bận rộn thì người chồng lại đón vợ về khoảng 1 đến 2 ngày. Vì Vậy thời gian định cư bên nhà ngoại ít nhất là 2 đến 3 năm, và số lần về bên nhà nội hàng năm không đến 10 lần, mỗi lần về không được ở quá 3 ngày. Trên đường về phải dùng khăn đội đầu che kín mặt, chỉ đến tối trước khi đi ngủ mới được tháo ra. Cứ lặp đi lặp lại như vậy cho đến khi người vợ sinh con (không được phép sinh bên nhà ngoại mà phải về bên nhà nội), lúc đó mới danh chính ngôn thuận được cùng chồng về bên nhà nội chung sống .

    hueanwoman2

    Thực ra tập tục sống định cư lâu dài bên nhà ngoại của con gái Huệ An đã mang lại không ít những mâu thuẫn và bất hạnh cho họ nhưng do con trai Huệ An thường ra khơi đánh bắt cá trong thời gian dài nên tập tục này vẫn được duy trì rất phổ biến nơi đây .

    Trong ngày cưới cách trải tóc của Tân Nương rất cầu kỳ và cũng chỉ trong ngày hôn lễ của mình con gái Huệ An mới được phép cuốn kiểu tóc đặc biệt này. Kiểu tóc này cần đến 5, 6 người cùng lúc làm và phải mất đến 4 tiếng mới hoàn thành. Và nếu như Tân Nương không cẩn thận làm rối tóc thì rất khó chỉnh sửa lại như cũ.

    hueanwomen2

    Nhưng tại sao lại cần nhiều người giúp Tân Nương cuốn kiểu tóc cầu kỳ đến vậy , có phải chỉ vì ý nghĩa là làm đẹp thôi không? Thực ra kiểu tóc này mang một hàm ý rất sâu sắc là để giám sát Tân Nương trong 3 ngày cưới đầu . Nghe nói, Tân Nương sau 3 ngày cưới về bên nhà ngoại, nếu phát hiện tóc bị rối sẽ bị người già trách cứ, chị em cùng lứa tuổi chê cười, trẻ con bêu riếu. Do đó để giữ cho tóc không bị rối, thông thường Tân Nương trong 3 ngày cưới đầu không được phép nằm ngủ mà phải ngồi ở dưới đất hoặc đứng ở mép giường thông đêm.

    Những tập tục trong hôn lễ của người dân Huệ An hiện nay đã có nhiều cải tiến, nhưng vẫn giữ được những nét độc đáo riêng của mình .

    Chúc các bạn một ngày vui.

    Kiều Tố Uyên
    DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

    Chào mừng Tết Đoan Ngọ

    Doanngoduathuyen
    Hôm nay, lễ tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch), hay còn gọi tết Đoan Dương , tết Ngũ nguyệt …mặc dù tên gọi khác nhau nhưng tập tục trong ngày này của các vùng lại đều giống nhau.

    Tết Đoan Ngọ đã có lịch sử hơn 2000 năm, là lễ tết truyền thống dân gian lớn nhất vào mùa hè của người dân Trung Quốc. Trong ngày này mọi gia đình thường treo bức họa Chung Quỳ , treo lá Ngải Cứu, lá hoa Iris, treo gói Bội Hương, treo túi dệt ngũ sắc trong nhà, gói bánh trưng, uống rượu Hùng Hoàng, tổ chức đua thuyền rồng …

    Khuất Nguyên
    Khuất Nguyên

    Tại sao tết Đoan Ngọ lại gọi là “Đoan Ngọ”? Thì ra “Đoan” có nghĩa “Mồng”. “Mồng 5” tức là “Đoan Ngọ”. Theo lịch TQ, tháng 5 là tháng “Ngọ”, vì vậy, mồng 5 tháng 5 tức là “Đoan Ngọ”.

    Ở Việt Nam ta còn gọi tết Đoan Ngọ là tết Trừ sâu bọ, có lẽ vì tháng năm vừa nóng vừa đầu mùa mưa cho nên muỗi mòng phát triển mạnh, cộng với trời mưa, thường làm người ta hay bị bệnh.

    Ý nghĩa của ngày tết Đoan Ngọ:

    Tưởng nhớ đến Khuất Nguyên, thi nhân của Trung quốc. Nhà thơ khuất Nguyên sinh sống ở nước Sở trong thế kỷ 3, trước công nguyên, sau khi đất nước ông bị giặc xâm chiếm, ông hết sức căm phẫn nhẩy xuống sông tự vẫn, hôm đó đúng vào ngày mồng 5 tháng 5. Về sau, cứ đến ngày mồng 5 tháng 5, để kỷ niệm phẩm chất cao cả của nhà thơ Khuất Nguyên, ai nấy đều lấy bỏ gạo vào ống tre rồi thả xuống sông để tế ông. Về sau, ống tre đựng gạo lại được đổi thành bánh trưng.

    Ngũ Tử Tư
    Ngũ Tử Tư

    Tưởng nhớ đến ngày giỗ của Ngũ Tử Tư. Vì báo thù cho Bố và anh trai (đều bị Sở Vương giết chết ) Ngũ Tử Tư đã chạy sang nước Ngô cùng cấu kết với Ngô Vương ( Hạp Lô ) lật đổ Sở Quốc. ,Sau khi chiếm được Sở Vương Thành và giết chết Sở Bình Dương trả thù cho Bố và anh trai mình, Ngũ Tử Tư đã trở thành đại thần được Ngô Vương Hạp Lô rất trọng vọng. Ngô Vương Hạp Lô chết, con trai (Phu Sai Hứa) lên kế vị. Lúc đó sĩ khí quân Ngô đang vang dậy khắp nơi, ở thế bách chiến bách thắng.

    Việt Quốc sau khi gây chiến với nhà Ngô đã đại bại, Việt Vương liền lập mưu giảng hòa với Phu Sai Hứa, Ngũ Tử Tư khuyên Phu Sai Hứa nên diệt tận gốc Việt Quốc nhưng ông không nghe thậm chí còn trúng kế của Việt Vương nhận hối lộ và hãm hại Ngũ Tử Tư. Sau khi nhận bảo kiếm của Phu Sai Hứa ban cho để tự xử Ngũ Tử Tư vì quá uất ức nên trước khi chết đã nói rằng : “Sau khi ta chết, hãy moi mắt ta ra và treo ở Đông Môn của Ngô Thành, để ta có thể tận mắt nhìn thấy cảnh quân Việt tiến quân tiêu diệt Ngô Quốc”. Tin được lan truyền khắp nơi và đến tai Phu Sai Hứa, Phu Sai Hứa đã rất phẫn nộ, liền cho quân nhét xác của Ngũ Tử Tư vào trong bọc da và vứt xuống sông vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch.

    Tào Nga
    Đền thờ Tào Nga

    Tưởng nhớ đến lòng hiếu thuận của người con gái Tào Nga. Tào Nga là người Đông Hán, sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Bố của Tào Nga vì kiếm sống nuôi gia đình nên trong một lần mò cua bắt ốc đã bị chết chìm mấy ngày không thấy xác. Lúc đó Tào Nga mới có 14 tuổi, vì thương cha nên ngày đêm than khóc tìm cha ven sông. 17 ngày trôi qua kể từ khi cha của Tào Nga chết, vào mùng 5 tháng 5 âm lịch Tào Nga cũng nhảy sông tự vẫn. Sau 5 ngày thì người dân thấy xác của Tào Nga đang ôm chặt xác cha mình trong vòng tay nổi lên trên mặt sông.

    Chuyện được lan truyền khắp nơi. Để tưởng nhớ đến tấm lòng hiếu thuận của Tào Nga người dân đã lập miếu thờ Tào Nga ven sông Triết Giang, và làng mà Tào Nga sinh ra lớn lên được đổi thành Làng Tào Nga, đoạn sông mà người dân phát hiện xác hai cha con được định danh là Đoạn sông Tào Nga.
    doanngoduathuyenrong

    Các phong tục tập quán Trung Quốc trong ngày tết Đoan Ngọ :

    Đua thuyền rồng. Là tập tục chủ yếu trong ngày tết Đoan Ngọ. Tập tục này có nguồn gốc từ thời Sở Quốc. Do người dân không đành lòng trước cái chết của hiền thần Khuất Nguyên (và cũng là một thi nhân vĩ đại thời Sở Quốc), nên đã dùng thuyền bè để tìm kiếm xác ông trên Hồ Động Đình (vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch), dùng cán thuyền khuấy động dòng nước để cá không rỉa xác ông nhưng vẫn không tìm thấy. Từ đó cứ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm người dân lại tổ chức lễ hội đua thuyền rồng để tưởng nhớ đến Khuất Nguyên.

    Bánh trưng (TQ)
    Bánh trưng (TQ)

    Gói bánh trưng và uống rượu Hùng Hoàng. Trong những ngày này người dân Trung Quốc thường tấp nập chuẩn bị ngâm gạo nếp, rửa lá rong để gói bánh trưng. Bánh trưng mỗi vùng lại có nguyên liệu và mùi vị khác nhau. Ví dụ người phía Nam thường chuẩn bị đỗ xanh, gạo nếp, thịt lợn, lạp xưởng, lòng trứng gà … còn người phía Bắc lại gói bánh nhân táo tàu và các nguyên liệu thuốc Bắc … Uống rượu Hùng Hoàng, tập tục này rất thịnh hành tại khu vực ven sông Trường Giang (Dương Tử).
    doanngoboctheu

    Treo gói Bội Hương trong nhà (Có tác dụng tránh tà đuổi ma ). Trong gói có Chu Sa , Hùng Hoàng, Hương Dược… thường đựng trong các túi nhỏ được thêu dệt cẩn thận và dùng chỉ ngũ sắc cột lại thành nhiểu hình thù khác nhau .
    doanngoLaIrisVaNgaicuu

    Treo lá Ngải Cứu và lá hoa Iris. Lá hoa Iris tượng trưng cho thanh kiếm, được người dân treo trước cửa nhà hoặc đầu giường cùng lá Ngải Cứu nhằm xua đuổi ma quỷ . Dùng lá Ngải Cứu để trừ tà, đuổi chướng khí. Một số nơi dùng lá Iris, lá Ngải Cứu, hoa lựu, củ tỏi, hoa Ĩxora kết thành vòng hoa, hình người, hình con hổ …

    doanngochungquy

    doanngovonghoa

    Bánh ú tro
    Bánh ú tro
    Cơm rượu
    Cơm rượu

    Treo bức họa Chung Quỳ. Chung Quỳ là một nho sĩ đời Đường, nhưng vì dung mạo quá xấu nên bị nhà vua gạch tên.vvBất bình với lệnh của Vua Chung Quỳ đã nhảy lầu tự tử. Sau khi chết ông được giữ chức Quỷ Vương chuyên môn cai quản ma quỷ dưới âm phủ. Vì tháng 5 là khoảng thời gian thường hay xuất hiện dịch bệnh và nhiều người dân chết không rõ lí do nên từ đó cứ đến mùng 5 tháng 5 âm lịch nhà nhà lại treo bức họa Chung Quỳ, một phần vì tưởng nhớ đến ông, một phần vì ngụ ý tránh tà đuổi ma.

    Dùng chỉ ngũ sắc cột vào cổ tay, cổ chân trẻ em. Trong lúc buộc phải dặn trẻ em không được hỏi han hay nói một câu gì, không được tự ý làm đứt chỉ hoặc tự tháo bỏ chỉ ra khỏi tay chân, chỉ đến tối khi đi tắm mới được phép tháo sợi chỉ đó ra và đem vứt xuống sông. Vì người xưa cho rằng trẻ em đeo sợi chỉ ngũ sắc trong ngày tết Đoan Ngọ sẽ tránh được nọc độc của rắn rết, vứt chỉ ngũ sắc xuống lòng sông nhằm ngụ ý nhờ dòng nước cuốn trôi đi hết dịch bệnh.

    Việt Nam với bánh ú tro và cơm rượu. Hai món này không thể thiếu trong ngày Tết Đoan Ngọ.

    Bánh ú tro. Theo truyền thuyết, đây cũng là tập tục từ Trung Quốc mang sang, để cúng Khuất Nguyên. Bánh ú có 4 cạnh nên khi thả xuống sông để cúng, cá không ăn được. Bánh ú tro đã trở thành tập tục khá quen thuộc ở miền nam, và rất mạnh ở Hội An. Muốn ngon phải gói bằng lá kè tại vùng núi ở tận xứ Huế. Nếp phải lựa kỹ không cho lộn gạo tẻ, đãi sạch ngâm với nước tro mè (cây mè đốt lấy tro, hoà với nước, lọc qua hồ cát) để qua đêm. Nước tro pha một ít phèn sa để bánh không bị bở. Nhờ nước tro mè mà hạt nếp nhuyễn thành bột. Để bánh không bị sống còn có một kinh nghiệm là khi bỏ bánh vào nồi chờ nước sôi thì thắp một nén nhang, đến khi hương vừa tàn thì cũng là bánh vừa chín tới.

    Cơm rượu. Ăn cơm rượu sáng Đoan Ngọ để diệt trừ “sâu bọ” trong cơ thể có thể làm chúng ta bị bệnh. Đây cũng là một hình thức gần như uống rượu Hùng Hoàng. Các chất rượu làm nóng người, máu huyết lưu thông mạnh hơn, làm con người khỏe hơn. Có lẽ đây là lý do chính tại sao tết Đoan Ngọ lại gọi là tết Trừ sâu bọ ở nước ta.

    Kiều Tố Uyên.
    DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

    Quản lý thời gian

    timemanagement

    Mỗi tuần bạn có tổng cộng 168 tiếng, trong đó 56 tiếng dành để ngủ, 21 tiếng dành để ăn uống và nghỉ ngơi, còn lại 91 tiếng sẽ do bạn quyết định sử dụng như thế nào. Vậy bạn đã thật sự tận dụng hết thời gian đó chưa? Nếu biết sử dụng nó một cách hợp lý bạn có thể tạo thành công cho mình.

    Con người có hai tài sản quý báu là thời gian và tư duy trí óc. Bất kể bạn làm một công việc gì, mặc dù không cần đến tư duy cũng đều tốn thời gian phải không? Do đó, quản lý thời gian của mình tốt hay không sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp và cuộc sống của bạn đấy.

    Tại sao bạn lại bị lãng phí thời gian?

    Nguyên nhân rất nhiều, bao gồm các yếu tố chủ quan lẫn khách quan :

    – Làm việc không có mục đích rõ ràng .
    -Tác phong lề mề.
    -Làm việc không có trật tự, không biết nắm bắt trọng tâm.
    -Quá coi trọng những chi tiết nhỏ.
    -Làm việc không có nguyên tắc, không ngắn gọn, hay phức tạp hóa mọi vấn đề.
    -Làm việc có đầu mà không có đuôi .
    -Việc gì cũng tự mình làm, không hiểu được quyền hạn của mình.
    -Suy nghĩ tiêu cực.
    -Không biết cách từ chối sự nhờ vả của người khác .

    timemanagement2
    10 trọng điểm trong quản lý thời gian:

    1. Thiết lập mục tiêu rõ ràng: Thành công tương đương với mục tiêu. Quản lý thời gian theo mục đích sẽ giúp bạn trong thời gian ngắn nhất có thể thực hiện được những mục tiêu mà bạn đã định sẵn. Bạn nên viết từ 4 đến 10 mục tiêu định làm trong năm nay ra. Sau đó tìm trong đó 1 mục tiêu quan trọng nhất, đồng thời xếp thứ tự độ quan trọng của chúng. Dựa vào mục tiêu đã định hãy vạch ra một kế hoạch cụ thể để thực hiện mục tiêu đó, và điều quan trọng là phải thực hiện một cách nghiêm túc kế hoạch mà bạn đã định .

    2. Lập bảng tóm tắt các dự định sẽ làm trong năm nay, đồng thời tiến hành phân nhỏ các mục tiêu: a) Mục tiêu của năm phân thành mục tiêu theo mùa; mỗi mùa sẽ làm những công việc gì. b) Mục tiêu theo mùa phân thành mục tiêu theo tháng; mỗi đầu tháng lại liệt kê lại một lần, nếu gặp sự cố bất ngờ thì điều chỉnh lại mục tiêu của mình. c) Các ngày chủ nhật của tuần nên liệt kê những việc cần phải hoàn thành trong tuần sau. d ) Mỗi tối nên liệt kê những việc cần phải hoàn thành trong ngày mai .

    timemanagement4
    3. Định luật 20:80: Bạn nên dùng 80% thời gian của mình để làm 20% công việc quan trọng. Do đó, bạn nhất định phải biết đối với bạn việc gì là quan trọng, việc gì tạo năng xuất cao.

    Trong quản lý thời gian bạn thường gặp các việc gọi là gấp, là quan trọng. Tất nhiên việc cần giải quyết đầu tiên sẽ là việc vừa gấp lại vừa quan trọng. Thường các việc này đều bất ngờ và khó, không thể đợi giải quyết được,thậm chí đợi có thể là một tai họa lớn. Nếu bạn ngày nào cũng phải giải quyết các tình huống như này điều đó chứng tỏ bạn vẫn chưa quản lý tốt thời gian của mình.

    Người thành công thường dành nhiều thời gian nhất để giải quyết các việc quan trọng nhưng không gấp, không bất ngờ và thường tạo năng xuất cao. Còn đa số mọi người đều làm các việc gấp mà không quan trọng. Do đó bạn nên học cách biến công việc của mình thành công việc quan trọng nhưng không gấp, lúc đó bạn lập tức bắt đầu làm việc có năng xuất cao rồi .

    4. Mỗi một ngày nên có ít nhất khoảng 30 phút đến 1 tiếng thời gian không bị làm phiền để suy nghĩ và giải quyết việc quan trọng nhất trong ngày của bạn . Đôi khi 1 tiếng này có thể tạo hiệu xuất bằng cả thời gian làm việc 1 ngày, thậm chí bằng cả 3 ngày gộp lại đấy .

    5. Quản lý thời gian và cách nhìn nhận của bạn phải ăn khớp với nhau chứ không nên mâu thuẫn. Cần phải học cách nhìn nhận vấn đề một cách rõ ràng, nếu không bạn sẽ khó biết đâu là việc quan trọng nhất đối với mình, và không biết cách chi phối thời gian một cách lợp lý và hiệu quả.

    Trọng điểm của quản lý thời gian không phải ở cách quản lý thời gian mà ở cách chi phối thời gian đó như thế nào. Vì bạn vĩnh viễn không có đủ thời gian để làm mọi công việc nhưng bạn luôn có đủ thời gian để xử lý các việc quan trọng nhất đối với mình .

    timemanagement3
    6. Mỗi phút, mỗi giây làm việc với hiệu quả cao nhất: Hãy suy nghĩ và liệt kê xem trong một công việc yếu tố nào mang tính quyết định và tạo hiệu quả cao cho công việc, sau đó tập chung nhiều thời gian hơn để giải quyết nó.

    7. Tận dụng tối đa quyền ủy quyền của mình: Liệt kê xem trong cuộc sống của mình những việc gì có thể ủy quyền, tìm người có khả năng và thích hợp để đảm nhận việc mà mình giao cho. Như vậy bạn sẽ có nhiều thời gian để giải quyết các việc quan trọng khác.

    8. Những việc cùng một loại nên hoàn thành cùng một lúc: Ví dụ mỗi ngày dành một khoảng thời gian để giải quyết các cuộc điện thoại cần gọi. Hay đang suy nghĩ vấn đề gì đó cũng nên dành một khoảng thời gian chỉ để suy nghĩ .

    9. Xem xét tỉ mỉ cách dùng thời gian trong ngày: Hãy ghi chép tỉ mỉ mọi công việc trong ngày, ngay từ lúc bạn bắt đầu đánh răng, rửa mặt, tắm, mặc quần áo, ăn sáng, bắt xe đến cơ quan, thăm hỏi bệnh nhân… mỗi việc đó tốn hết bao nhiêu thời gian. Bạn sẽ phát hiện ra là mình đã lãng phí quá nhiều thời gian vào công việc không cần thiết nào, và khi đã tìm thấy mấu chốt ở đâu bạn hãy tìm cách thay đổi nó.

    10. Nên tiếp xúc, học hỏi những người có nhiều kinh nghiệm, vì như vậy bạn sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Ví dụ để trở thành người thành công không ít người phải mất đến khoảng thời gian là 40 năm. Trong khi đó nếu bạn tiếp xúc, học hỏi với 10 người như vậy thì bạn vẫn có thể là người thành đạt mà không cần đến khoảng thời gian lâu đến vậy.

    Các Bạn thấy thế nào? Hãy bắt đầu học cách quản lý thời gian của mình đi nhé, chúc các bạn thành công .

    Dịch bài: Kiều Tố Uyên
    DHS, Hồ Nam, Trung Quốc

    Tự Tin là gì và rèn luyện như thế nào ?

    confidence1

    Một người thầy đã từng nói với chúng tôi câu này: Một người làm chủ và một người không làm chủ thường khác nhau ở chỗ họ có hay không có ý chí và lòng tự tin. Chỉ cần có ý chí và lòng tự tin thì ngoài những việc vi phạm pháp luật ra, trên thế giới này sẽ chẳng có việc gì là khó khăn đối với bạn cả.

    Đối diện thử thách khó khăn nào đó, tại sao bạn có cảm giác sợ hãi? Điều gì làm cho bạn sợ? Có phải bạn lo lắng học về thất bại nào đó có thể xảy đến trong tương lai?… Tôi nghĩ tất cả những tâm lý đó đều do sự thiếu tự tin trong bạn tạo ra mà thôi. Người thiếu tự tin thường rất hay căng thẳng, làm việc gì cũng phải ngó trước ngó sau, lo nghĩ nhiều, do dự lâu, thậm chí hay thay đổi. Vì vậy, bạn nên khắc phục những tâm lý sợ hãi của mình bằng cách tăng cường sự tự tin cho bản thân.

    Tại sao tự tin lại quan trọng đến vậy? Tôi sẽ thông qua câu chuyện sau để giải thích cho các bạn nghe nhé :

    Có một lần khi đi tập thể dục trong sân vận động của trường tôi đã được chứng kiến một sự việc như sau : Có một em bé da đen sống cùng khu với nơi tôi ở cứ đứng núp sau những thanh sắt để ngó nhìn các bạn Trung Quốc đang đùa nghịch nhau với ánh mắt rất ngưỡng mộ và muốn được chơi cùng. Nhưng đứng đó một lúc lâu tôi vẫn thấy cậu bé chỉ ôm các thanh sắt, và thỉnh thoảng liếc nhìn các bạn mà không chạy đến làm quen.

    Đúng lúc đó có một tốp các bạn học sinh và thầy cô đem rất nhiều các dụng cụ khác nhau ra sân bóng rổ để chuẩn bị cho trận đấu chiều hôm đó, trong đó có rất nhiều bóng bay với nhiều màu sắc khác nhau. Lũ trẻ thấy vậy liền thi nhau chạy đến để xin bóng, nhưng cậu bé hàng xóm của tôi thì vẫn đứng im tại chỗ, chỉ khác ở chỗ khuôn mặt có vẻ sốt sắng hơn trước.
    confidence
    Vài phút sau, khi mấy đứa trẻ kia đã chạy ra xa để đùa bóng thì tôi bỗng thấy cậu bé đi một cách rón rén đến chỗ bóng bay và nói một câu tiếng trung “你可以给我一个气球吗?” (Ông có thể cho em một quả bóng không ?). Tất cả mọi người ai cũng nhìn em một cách ngỡ ngàng nhưng liền sau đó có một thầy giáo đi đến chỗ cậu bé và nói “当然,你要一个什么颜色的” (Tất nhiên rồi. Em muốn lấy bóng màu gì?). Cậu bé đã thật dũng cảm và nói “我要一个黑色的” (Em muốn một quả bóng màu đen ). Mọi người lúc đó lại càng ngạc nhiên hơn vì thấy cậu chọn bóng màu đen. Nhưng thầy giáo đã hiểu được tâm trạng của cậu bé và đưa ngay cho cậu bé quả bóng màu đen.

    Tay cầm quả bóng cậu bé từ từ mở những ngón tay bé nhỏ của mình ra để cho bóng bay lên trời và đứng đó ngước nhìn bóng đang bay một hồi lâu với vẻ mặt thích thú. Bỗng dưng tôi thấy bàn tay của thầy xoa nhẹ lên đầu cậu bé và nói :”记住,气球能不能升起来,不是因为颜色、形状,而是气球内充满了氢气。一个人的成败不是因为种族和出身,关键是你内心有没有自信” (Hãy nhớ, bóng bay được hay không, không phải do màu sắc, hình dạng mà do trong bóng được bơm đầy hiđrô. Cũng giống như con người thành công hay không, không phụ thuộc vào việc người đó xuất thân như nào mà quan trọng ở chỗ người đó có tự tin hay không ). Tôi có cảm giác cậu bé hàng xóm của mình không hiểu được những điều thầy nói, nhưng cậu bé đã rất lễ phép cảm ơn thầy và đi bộ về phía các bậc cầu thang.

    Được nhìn và lắng nghe câu chuyện cảm động này tôi hiểu được rằng thầy không chỉ nói với mình cậu bé đó mà cũng muốn nói với chúng tôi rằng tự tin là một yếu tố rất quan trọng. Lòng tự tin và ý chí của con người giống như đôi cánh của một con chim, hay hai cái bánh của một chiếc xe đạp. Chỉ nhờ không ngừng tăng cường rèn luyện hai yếu tố đó bạn mới có thể bay thạt cao và đạp thật nhanh .

    Tự tin là hoàn toàn tin tưởng vào bản thân, là nhận thức và nắm rõ được bản thân mình, chứ không có nghĩa là tin tưởng bản thân một cách mù quáng. Muốn rèn luyện sự tự tin, trước tiên bạn phải tin vào bản thân mình (vì nếu ngay cả bạn cũng không tin vào chính mình thì làm sao người khác có thể giúp được bạn ), không ngừng động viên bản thân : “Tôi làm được. Tôi nhất định làm được. Tôi sẽ thành công. Tôi sẽ làm việc đó tốt hơn người khác”. Có vậy tinh thấn bạn mới phấn chấn và bình tĩnh đối phó với những tình huống khó khăn.

    Và điều quan trọng là bạn phải rèn cho mình có được thói quen luôn khẳng định bản thân mình trước người khác. Bất kể khi làm một công việc nào đó, hoặc nói một câu gì đó, bạn nên tạo cho người khác có ấn tượng là “Công việc này tôi sẽ làm thật tốt” hoặc “Tôi sẽ trình bày vấn đề một cách vừa vặn”.. Cứ duy trì thói quen này đến một ngày nào đó bạn sẽ phát hiện ra mình đã có đủ tự tin đối mặt với cuộc sống rồi.
    confidence2
    Làm thế nào để tăng cường sự tự tin cho mình ? Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và đưa ra để các bạn cùng tìm hiểu nhé:

    1) Phát hiện ra những ưu điểm của bản thân: Bạn hãy bỏ ra khoảng 1 tiếng đồng hồ để ngẫm nghĩ xem mình có những ưu điểm nào. Dùng bút ghi lại và phân loại những ưu điểm đó ra. Ví dụ, sở trường của bạn là gì? Bạn đã làm những việc gì có ích cho xã hội? Trước đây mọi người đã từng biểu dương, ca ngợi bạn về điều gì? Bạn đã được giáo dục như thế nào có điểm gì đáng nổi bật không ?…

    2) Tìm cho mình một thần tượng: Trong những người bạn đã quen biết hoặc những người mà bạn chỉ được biết trên sách báo, hãy tìm cho mình một người mà bạn thấy hâm mộ, kính phục, hy vọng mình cũng được giống người ấy,coi người ấy là hình mẫu để mình học tập.

    3) Khẳng định năng lực của bản thân: Mỗi một ngày tìm ra 3 việc mà bạn cảm thấy thành công. Không nên coi thành công là phải làm một việc gì đó thật trọng đại. Thành công có thể chỉ là: Hôm nay bạn đã thuận lợi trong việc hẹn gặp Bác Sĩ riêng của mình, hay bạn không bị kẹt xe trên đường đến cơ quan, hay xử lý một văn bản nào đó mà không mắc lỗi… Biết mình sẽ làm việc đó thât tốt đồng nghĩa với việc bạn đã tự khẳng định năng lực của bản thân, và khi đó bạn sẽ cảm thấy tinh thần phấn chấn .

    4) Tính xem mình đã làm được những việc gì : Hãy nghĩ xem hôm nay mình đã làm được gì chứ đừng dò xét bản thân là còn bao nhiêu việc vẫn chưa làm được, vì những việc mà bạn chưa làm được vĩnh viễn lớn hơn những việc đã làm được. Và cứ nghĩ mình chưa làm được cái này, chưa làm được cái kia bạn sẽ tự cảm thấy thất vọng về bản thân và tự cho rằng mình là người không có năng lực. Nhưng ngược lại, nếu bạn liệt kê những việc mình đã làm được ,bạn sẽ thấy hài lòng về bản thân và thấy tự tin hơn.

    5) Rèn luyện một vài sở thích : Tìm xem trong những ưu điểm, sở thích của mình một lĩnh vực nào đó để rèn luyện phát triển và biến điều đó thành sở trường riêng của mình. Bạn không cần phải rèn để thành một chuyên gia nhưng trong 1 nhóm người, khi nhắc đến lĩnh vực này thì mọi người đều phải công nhận rằng đó là sở trường riêng của bạn. Ví dụ: đánh đàn ghita, chơi piano, làm bánh gato, cắt tóc, bơi lội, hay đơn giản chỉ là nhớ tên một bộ phim nào đó …đều được.

    6) Làm đẹp cho bản thân: Hãy tạo ấn tượng cho người khác bằng cách ăn mặc sạch sẽ, sáng sủa, vừa mắt, tự nhiên, thoải mái, mang tính quần chúng … Và đặc biệt khi tâm trạng không được tốt lắm bạn nên trang điểm cho mình một cách nhẹ nhàng và chọn những bộ đồ sáng sủa, tươi tắn một chút, nét mặt thì sinh động và hoạt bát … có như vậy bạn mới phân tán được sự chú ý của người khác vào mình .

    Để trở thành người Tự Tin cũng không phải là điều quá khó phải không các bạn, chúc các bạn thành công nhé.

    Kiều Tố Uyên dịch.