
Trước 1975 ban hợp ca nổi tiếng nhất và có dấu ấn sâu đậm nhất trong văn hóa miền Nam là Ban Hợp Ca Thăng Long. Ban này thành lập năm 1949 ở Hà Nội, gồm Hoài Bắc, Hòai Trung, Thái Hằng, Khánh Ngọc và Thái Thanh. Năm 1951 di cư vào Nam và trình diễn tại Sài Gòn đến 1975, ban hợp ca Thăng Long được xem là ban hợp ca nổi tiếng nhất tại Sài Gòn trước năm 1975, gắn liền với phòng trà Đêm Màu Hồng, trình bày những nhạc phẩm bất hủ của các nhạc sĩ đã nổi danh từ thời tiền chiến, nổi bật là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và Phạm Duy.
Bố của Phạm Đình Chương là Phạm Đình Phụng có 2 đời vợ. Đời vợ trước có hai người trai con là Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm.
Phạm Đình Sỹ lấy kịch sĩ Kiều Hạnh, có con gái là ca sĩ Mai Hương.
Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của Ban Hợp Ca Thăng Long.
Đời vợ sau của ông Phụng sinh ra ba người con:
Phạm Thị Quang Thái, trưởng nữ, là ca sĩ Thái Hằng trong Ban Hợp Ca Thăng Long, vợ Phạm Duy, mẹ của ca sĩ Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo.
Phạm Đình Chương là nhạc sĩ, với tên ca sĩ là Hoài Bắc, của Ban Hợp Ca Thăng Long, chồng của ca sĩ Khánh Ngọc cũng trong ban Thăng Long.
Phạm Thị Băng Thanh, con gái út, là ca sĩ Thái Thanh của ban Thăng Long, mẹ của ca sĩ Ý Lan.
Ban Thăng Long gồm 5 người:
* Hoài Trung – Phạm Đình Viêm.
* Thái Hằng – Phạm Thị Quang Thái.
* Hoài Bắc – Phạm Đình Chương.
* Khánh Ngọc
* Thái Thanh – Phạm Thị Băng Thanh
Hoài niệm một thời nghệ thuật trong chiến tranh và chia cắt.
Mời các bạn nghe hai video của ban Thăng Long gồm các bản nhạc trình diến rất cũ, của các thập niên 5x, 6x, và 7x.
Sau các video là câu chuyện về sự đổ vỡ của vợ chồng Khánh Ngọc-Phạm Đình Chương, và sự ra đời của bản Nửa Hồn Thương Đau.
Ban Hợp Ca Thăng Long – An Homage
CD Ban Hợp Ca Thăng Long
Ca khúc “Nửa hồn thương đau” và bi kịch của một gia đình
Wednesday, 20th January 2010

(Ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Khánh Ngọc)
Ca sĩ Khánh ngọc, với thân hình bốc lửa, kiều diễm đã được nhiều người biết đến với biệt danh “ngọn núi lửa”, cô đã từng làm chao đảo, đắm say nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng và khán giả nam rất ái mộ. Khánh Ngọc thành danh trong làng nhạc từ những năm giữa thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960. Cô còn là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng trước cả Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Trang Thiên Kim, Kiều Chinh…và là một trong những ngôi sao thuộc thế hệ đầu tiên sáng chói trong làng điện ảnh Sài Gòn. Khánh Ngọc thường đóng cặp với nam tài tử Lê Quỳnh trong các bộ phim do người Mỹ thực hiện trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam.
Năm 1961, Khánh Ngọc sang Hoa Kỳ để học thêm về ngành điện ảnh và gặp một du học sinh Việt Nam, hai người đã kết hôn và có được ba người con. Hiện Khánh Ngọc sống với gia đình ở Los Angeles.
Nhờ khả năng diễn xuất của mình, Khánh Ngọc trình bày những bản nhạc rất hấp dẫn. Khi hát bản “Cerisier Roses et Pommiers Blances” lời Việt, vào câu đầu : “Vườn xuân ong bướm, ngất ngây ngất ngây lòng ta…” Khánh Ngọc lim dim mắt, thở dài, tay đè lên quả tim. Cô mở mắt liếc khán giả, nở một nụ cười vừa lẳng lơ vừa khả ái làm khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt…
Đớn đau thay cho Phạm Đình Chương , người “si tình” và cũng “thành công” nhất trong việc chinh phục người đẹp chính là nhạc sĩ Phạm Duy.

(Nhạc sĩ Phạm Duy)
Trời đất như sụp đổ dưới chân người nhạc sĩ tài hoa, anh gần như đứng không vững, bạn bè dìu quay trở lại nhà, nơi đứa con thơ dại đang ở nhà một mình ngóng chờ ba, mẹ về …
Ngay lập tức, sáng hôm sau, một loạt bài phóng sự đều tra nóng bỏng của các báo được phát hành và “cháy số”, đắt đỏ nhất là tờ “Nhật báo Sài Gòn mới” của bà Bút Trà. Vụ “ăn chè Nhà Bè” được tung ra với những hình ảnh rất “thời sự” của các thành viên trong gia đình Phạm Đình Chương.
Cả Sài Gòn gần như biết hết !
Cho dù Phạm Duy cầu cứu đến Bộ Thông Tin xin các báo cho ngưng các bài điều tra, phóng sự nhưng “hoạ vô đơn chí”, trong cuộc đời này, cái gì càng dấu diếm bao nhiêu, càng được “bùng nổ” và thêu dệt lên bấy nhiêu. Tan nát ! Không còn cách nào khác, Phạm Đình Chương gạt nước mắt đau thương, nộp đơn ly dị lên toà án. Vụ việc kết thúc và Phạm Đình Chương được quyền nuôi đứa con trai lúc bấy giờ khoảng 4-5 tuổi.
Trong đau khổ tột cùng, không còn tâm trí nào để đi biểu diễn với các nghệ sĩ trong Ban hợp ca Thăng Long, Phạm Đình Chương quay về sống đơn độc và ít giao thiệp với bên ngoài. Kể từ đó, những bản tình ca bất hủ ra đời trong nước mắt, trong thương đau vô bờ bến và những hoài niệm xót xa: “Đêm cuối cùng”, “Người đi qua đời tôi”, “Khi cuộc tình đã chết”, “Thuở ban đầu”, “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”…
Một đêm mưa tầm tả ở Sài Gòn, ông tình cờ gặp lại Khánh Ngọc trên một sân khấu Đại Nhạc Hội, ông có nhã ý muốn đưa cô vợ đã li dị về nhà nhưng khốn thay, ông bị từ chối. Trong mưa rơi, ông lặng lẽ trở về căn nhà kỷ niệm một thời sống cùng Khánh Ngọc, nhìn qua màn mưa trắng xoá, nhớ về những ngày hạnh phúc giờ đang trôi theo dòng nước…. , Phạm Đình Chương quyết định quyên sinh và giã từ cõi đời này, nơi đã đem đến cho ông quá nhiều nỗi bất hạnh.
May thay, tiếng khóc như xé lòng của đứa con trai đưa ông về hiện tại. Từ đáy tâm thức, một lời nhắn nhủ khuyên ông hãy cố gắng sống tiếp quãng đời còn lại để nuôi đứa con thơ dại. Ông bừng tỉnh và từ bỏ ý định tự tử. Ngay đêm đó, “Nửa hồn thương đau” được khai sinh ở ranh giới giữa sự sống và cái chết của người nhạc sĩ. Trong nước mắt thương đau, sự rã rời, tan nát của tâm can, ngồi nhìn vầng trán thơ ngây của đứa con trai, Phạm Đình Chương đã viết hết nốt nhạc cuối cùng của ca khúc bất hủ này.
Nếu đã một lần nghe bài hát này, chúng ta sẽ hiểu được tâm hồn của con người chỉ có thể chịu đựng đến một giới hạn nhất định. Khi nhắc tới Phạm Đình Chương, người ta lại nghĩ ngay đến “Nửa hồn thương đau” bởi trong ca khúc này là sự chung thủy tuyệt vời của một người đàn ông.
Gần 50 năm trôi qua, trong góc khuất nào đó của cuộc đời, nghe người em gái của ông, ca sĩ Thái Thanh, hát ca khúc này, chúng ta mới thấy được nỗi đớn đau tột cùng của người nhạc sĩ tài hoa, bất hạnh và đầy nhân cách này.
Nửa hồn thương đau
(Thơ Thanh Tâm Tuyền)
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa.
Cho tôi về đường cũ nên thơ.
Cho tôi gặp người xưa ước mơ.
Hay chỉ là giấc mơ thôi.
Nghe tình đang chết trong tôi.
Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau.
Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau.
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào.
Em ở đâu?
Anh ở đâu?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt.
Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất.
Và tiếng hát và nước mắt.
Đôi khi anh muốn tin.
Đôi khi anh muốn tin.
Ôi những người ôi những người.
Khóc lẻ loi một mình…
Nu Danh Ca Thai Thanh la nghe sy the hien thanh cong nhat bai hat nay cua:
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=eVmCVc8NeQ
Ah, chu Hoanh ah, khi nao chu lam mot bai viet rieng ve Thai Thanh di 🙂 Thai Thanh la mot trong nhung ten tuoi lung lay nhat o Sai Gon truoc nam 1975, duoc nha van Mai Thao vi la “tieng hat vuot thoi gian”.
LikeLike
Cám ơn anh Thảo đã thích cái cách viết tự sự, lãng đãng và ngẫu hứng của em, chẳng ra văn xuôi, cũng chẳng thành được thơ con cóc !!!
Hình như truy tìm nguyên nhân là cách em lẩn tránh đối diện với nỗi đau…
LikeLike
Tôi không biết nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác “KẺ THÙ TA” trước hay sau sự cố nầy.
Nếu sau thì có lý hơn. Vì lúc ấy Phạm Duy đã biết:
“Kẻ thù ta đâu có phải là người”. Và
“Kẻ thù ta đâu có phải người ngoài.
Nó nằm đây, nằm ngay ở mỗi ai”.
Đúng là “Kẻ thù lớn nhất là chính mình”…
Và đúng “Đời là bể khổ”. Nhưng:
“Bể đời khổ sao bể đời vẫn chật,
Nào mấy người vào bể Như Lai” (NNB)
LikeLike
Tác giả “khóc lẻ loi một mình…”, và bao nhiêu năm sau, người đọc biết chuyện cũng như muốn khóc theo cho nỗi đau của một con người, mà cũng là của bao người trong cõi đời nầy…
Tôi muốn ghi lại mấy dòng phản hồi của QL, bởi nó rất (là) thơ, rất đời, rất người, và rất thánh…
LikeLike
Con người nhiều lầm lỗi. Còn làm người còn lầm lỗi.
Đáng tiếc mà có lẽ cũng chẳng nên tiếc.
Cố gắng người hơn có lẽ cũng là cố gắng để ít lầm lỗi hơn.
Cố gắng,
bền bỉ
cho đến ngày … không còn lầm lỗi .
LikeLike