Trung Quốc hăng hái cải tổ lực lượng vũ trang

Quân lực Trung Quốc qua góc nhìn của Mỹ

Tác giả: Báo cáo của bộ Quốc phòng Mỹ

Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ, Trung Quốc đang chủ động nghiên cứu và phát triển hàng không mẫu hạm. Nước này đặt mục tiêu chế tạo hàng không mẫu hạm đa năng có tàu hộ tống trong thập kỷ tới.


LTS: Giữa tháng 8/2010, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố bản báo cáo về quân sự Trung Quốc theo đó, Trung Quốc đang âm thầm xây dựng lực lượng quân sự để vươn tầm ảnh hưởng.

Ngay lập tức, Bắc Kinh chỉ trích báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ về khả năng quân sự Trung Quốc là “hành động tấn công phiến diện, bất chấp thực tế khách quan” và có thể làm tổn hại đến quan hệ quân sự Trung – Mỹ vốn đang căng thẳng. Trung Quốc cho rằng, bản thân bản báo cáo là một sự cường điệu thái quá.

Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin lược đăng bản báo cáo này.

Quy mô, vị trí và tiềm năng

Kể từ khi ông Mã Anh Cửu lên nắm quyền tại Đài Loan tháng 3/2008, Trung Quốc đại lục đã đẩy mạnh các cam kết hai bờ eo biển. Cả Bắc Kinh và Đài Bắc đều nhấn mạnh các cuộc tiếp xúc từ cấp bán chính thức, đến trao đổi nhân dân và gặp gỡ giữa hai đảng, đồng thời mở rộng các quan hệ kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, Đại lục không có hành động nào đáng kể nhằm giảm sự hiện diện quân sự chống lại hòn đảo này.

Nhằm mục tiêu ngắn hạn là chuẩn bị cho những diễn biến bất thường tại eo biển Đài Loan, Trung Quốc tiếp tục huy động phần lớn các hệ thống tối tân của mình tới các khu vực quân sự đối diện với Đài Loan.

Tên lửa đạn đạo và hành trình: Trung Quốc có chương trình tên lửa đạn đạo và hành trình phóng từ mặt đất năng động nhất thế giới. Họ đang chế tạo và thử nghiệm một số lớp mới và các dạng tên lửa tấn công mới, thành lập các đơn vị tên lửa mới, nâng cấp chất lượng của một số hệ thống tên lửa và phát triển phương pháp đánh chặn tên lửa đạn đạo.

Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đang sở hữu một lượng lớn tên lửa hành trình có độ chính xác cao, như tên lửa phóng từ mặt đất DH-10 (LACM) do nước này tự chế tạo; tên lửa hành trình chống tàu YJ-62 phóng từ mặt đất và tàu ngầm, cũng tự chế tạo và phù hợp với tàu khu trục (DDG) lớp LUYANG-II của họ; hệ thống tên lửa siêu thanh của Nga SS-N-22/SUNBURN, phù hợp với các DDG lớp SOVREMENNYY cũng mua của Nga; và hệ thống tên lửa ASCM của Nga phù hợp với tàu ngầm chạy bằng động cơ điện diesel lớp KILO do Nga chế tạo.

Đến tháng 9/2009, PLA đã đưa khoảng 1.050 – 1.150 tên lửa đạn đạo tầm ngắn (SRBM) loại CSS-6 và CSS-7 đến các doanh trại quân đội đối diện với Đài Loan. Họ đang nâng cấp khả năng hỏa tiễu của lực lượng này với các loại tên lửa có tầm bắn xa hơn, chính xác hơn và có độ công phá mạnh hơn.

Trung Quốc đang phát triển tên lửa đạn đạo chống hạm (ASBM) từ một biến thể của tên lửa đạn đạo tầm trung (MRBM) CSS-5. Loại tên lửa này có tầm bắn 1.500km, được trang bị đầu đạn có thể điều khiển từ xa nhờ gắn với các hệ thống kiểm soát và điều khiển thích hợp. Kế hoạch này nhằm tạo cho PLA khả năng tấn công các loại tàu, kể cả hàng không mẫu hạm, tại Tây Thái Bình Dương.

Trung Quốc cũng đang hiện đại hóa các sức mạnh hạt nhân của mình. Những năm gần đây, các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) loại DF-31 và DR-31A đã sẵn sàng được sử dụng. Loại DF-31A với tầm bắn tối đa 11.200km, có thể nhắm tới những mục tiêu nằm sâu trong nước Mỹ. Trung Quốc cũng có thể đang phát triển các loại ICBM mới được trang bị phương tiện phân phối mục tiêu độc lập (MIRV).

Hải quân: PLA có lực lượng hải quân lớn nhất châu Á với hơn 60 tàu ngầm, 55 thủy phi cơ cỡ vừa và lớn, cùng khoảng 85 tuần dương hạm được trang bị tên lửa.

Quá trình xây dựng một căn cứ hải quân mới ở đảo Hải Nam đã cơ bản hoàn thành. Căn cứ này đủ lớn để tiến hành một cuộc tấn công hỗn hợp và chứa các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo và các tàu nổi tân tiến. Với các cơ sở ngầm dưới đất, căn cứ này giúp Hải quân của PLA tiếp cận trực tiếp với các tuyến đường biển quốc tế quan trọng và mở ra khả năng huy động bí mật tàu ngầm tới biển Đông.

Trung Quốc đang chủ động nghiên cứu và phát triển hàng không mẫu hạm. Nước này đặt mục tiêu chế tạo hàng không mẫu hạm đa năng có tàu hộ tống trong thập kỷ tới. Ngành công nghiệp đóng tàu của họ sẽ bắt đầu xây dựng một nền tảng nội địa từ cuối năm nay.

Hải quân Trung Quốc đã quyết định khởi xướng một chương trình huấn luyện 50 phi công vận hành máy bay cánh cứng từ hàng không mẫu hạm. Sau đó 4 năm, dự kiến sẽ là chương trình huấn luyện trên boong, với sự hỗ trợ của hàng không mẫu hạm lớp Kuznetsov của Liên Xô cũ mang tên ex-VARYAG, mà Trung Quốc đã mua của Ukraine năm 1998 và cải tiến tại xưởng đóng tàu ở thành phố Đại Liên.

Hải quân Trung Quốc cũng đang nâng cấp radar tầm xa ngoại biên (OTH) sao cho có thể sử dụng kết hợp với các vệ tinh hình ảnh giúp định vị mục tiêu ở khoảng cách lớn từ bờ biển Trung Quốc để hỗ trợ cho các cuộc tấn công chính xác tầm xa, bao gồm cả các tên lửa đạn đạo chống hạm.

Trung Quốc tiếp tục sản xuất các tàu ngầm có trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân (SSBN) lớp JIN mới nhất (Type 094). Nước này có thể chế tạo tới năm chiếc SSBN mới. Một SSBN lớp JIN đã được đưa vào sử dụng cùng với hai tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) lớp SHANG (Type 093), bốn SSN khác lớp HAN, và chiếc SSBN lớp XIA duy nhất của họ. Trung Quốc đang mở rộng sức mạnh hiện nay của các SSN và có thể tăng thêm năm SSN Type 095 trong những năm tới.

Trung Quốc hiện có 13 tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ điện – diesel (SS) lớp SONG (Type 039). Các SS lớp SONG của họ được thiết kế để mang tên lửa ASCM YJ-82. Kế cận của lớp SONG là các SS lớp YUAN. Hiện nước này có bốn tàu SS lớp YUAN đang được sử dụng và có thể lên kế hoạch sản xuất thêm 15 tàu nữa. Các SS lớp YUAN được trang bị vũ khí giống như lớp SONG, ngoài ra còn có một hệ thống đẩy khí độc lập. Các tàu SS lớp SONG, lớp YUAN và các tàu SSN lớp SHANG sẽ có thể được trang bị tên lửa ASCM CH-SS-NX-13 mới ngay khi loại này được chế tạo xong và thử nghiệm thành công.

Hải quân PLA tiếp tục trang bị các tàu chiến nội địa, trong đó có hai DDG lớp LUYANG II (Type 052C) phù hợp với tên lửa đất đối không tầm xa HHQ-9 do nước này tự chế tạo; hai DDG lớp LUZHOU (Type 051C) được trang bị tên lửa SAM tầm xa SA-N-20 của Nga; bốn (và sắp tới là sáu) tàu khu trục nhỏ có trang bị tên lửa dẫn đường (FFG) lớp JIANGKAI II (Type 054A) phù hợp với tên lửa hải quân tầm trung SAM phóng thẳng đứng HHQ-16 hiện đang chế tạo. Các tàu này cho thấy ưu tiên của giới lãnh đạo Trung Quốc là Hải quân có khả năng phòng không tối tân, vốn trước nay là điểm yếu của lực lượng này.

Trung Quốc đã huy động khoảng 60 tàu cao tốc tấn công lớp HOUBEI (Type 022). Mỗi tàu loại này có thể mang theo 8 tên lửa ASCM YJ-83.

Phòng không và Không quân: Trung Quốc hiện có 490 máy bay chiến đấu có thể hoạt động trong chiến dịch tới Đài Loan mà không cần tiếp nhiên liệu, cùng hàng trăm sân bay. Rất nhiều trong số máy bay này đã được nâng cấp.

Không quân PLA (PLAAF) vừa kỷ niệm 60 năm ngày thành lập hôm 11/10/2009. Trong lễ mừng sinh nhật này, Phó Tổng phụ trách Quân ủy trung ương Guo Boxiong đã kêu gọi PLAAF đẩy nhanh sự phát triển các hệ thống vũ khí mới, cải thiện hệ thống hậu cần và công tác huấn luyện chiến đấu chung. Trong khi đó, Tổng tư lệnh PLAAF Xu Qiliang cho biết xu hướng cạnh tranh quân sự trên không gian là “không tránh khỏi”, đồng thời nhấn mạnh đến sự biến đổi PLAAF từ nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc tới nhiệm vụ “kết hợp vùng trời với không gian ngoài Trái đất”, đòi hỏi cả khả năng “tự vệ và tấn công”.

Trung Quốc đang nâng cấp máy bay ném bom B-6 (vốn xuất phát từ Tu-16 của Nga) thành một dạng được trang bị một tên lửa hành trình tầm xa mới khi tham gia chiến đấu. PLAAF đã tiếp tục mở rộng số lượng các hệ thống SAM tầm xa tân tiến và hiện đang sở hữu một trong những hệ thống SAM lớn nhất trên thế giới. Trong 5 năm qua, Trung Quốc đã tăng cường mua một số tiểu đoàn SA-20 PMU2, hệ thống SAM tối tân nhất hiện nay, do Nga chào hàng; đồng thời đưa vào sử dụng các tên lửa HQ-9 do Trung Quốc tự sản xuất.

Ngành công nghiệp hàng không Trung Quốc đang tập trung chế tạo một số dạng hệ thống máy bay tuần tra và cảnh báo sớm trên không (AEW&C). Trong số này có hệ thống KJ-200, và KJ-2000.

Lục quân: PLA có khoảng 1,25 triệu bộ binh, trong đó khoảng 400.000 lính đóng tại ba khu vực quân sự đối diện với Đài Loan. Trung Quốc đang nâng cấp lực lượng lục quân của mình với các xe tăng hiện đại, xe tải bọc thép và pháo binh. Trong số các khí tài quân sự mới mua hoặc đang chế tạo, lục quân của PLA có các xe tăng chiến đấu thế hệ ba Type 99, một loại xe tăng lội nước tân tiến, cùng các hệ thống phóng đa tên lửa 200-mm, 300-mm và 400-mm.

Năm 2009, PLA tập trung huấn luyện và thực tập điều khiển và kiểm tra, hợp tác lục – không quân, chiến tranh thông tin và các chiến dịch tấn công.

Bên cạnh lực lượng lục quân năng động, Trung Quốc còn có một lực lượng dự bị khoảng 500.000 người (tính đến năm 2008) và một lực lượng dân quân tự vệ đông đảo có thể được huy động tham gia chiến đấu bất cứ lúc nào tại địa phương.

Dù Bắc Kinh dự định giảm quy mô của lực lượng dân phòng từ 10 triệu xuống còn 8 triệu người vào năm 2010 – khi kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ 11, nhưng tất cả nam thanh niên từ 18-35 tuổi nếu không đang đi nghĩa vụ quân sự cũng đều tham gia về mặt kỹ thuật trong hệ thống dân phòng.

Học thuyết quân sự của PLA

Năm 2009, PLA tiếp tục tăng cường huấn luyện chiến tranh trong điều kiện phi thực thế và công nghệ cao. Nỗ lực này của PLA đã được nhấn mạnh trong Sách trắng Quốc phòng 2008 của Trung Quốc và là sự tiếp nối các nỗ lực thực hiện Đề cương huấn luyện và đánh giá quân sự (OMTE) sửa đổi, được công bố giữa năm 2008 và trở thành tiêu chuẩn cho toàn PLA từ ngày 1/1/2009.

OMTE mới nhấn mạnh các điều kiện huấn luyện phi thực tế, huấn luyện trong điều kiện môi trường điện từ phức tạp và kết hợp các công nghệ cao mới vào cấu trúc quân sự.

Các lực lượng của PLA đa dạng hóa công tác huấn luyện để bao gồm cả các hoạt động quân sự ngoài chiến đấu, như chống khủng bố, đối phó trong tình trạng khẩn cấp, hỗ trợ phòng chống thiên tai và các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế.

PLA tiếp tục tăng cường các chiến dịch chung như thành lập Tổ chức tổng điều khiển chiến trường Jinan, kết hợp mọi cơ quan, trong đó có lực lượng điều khiển tên lửa chiến lược (SAC) cũng như giới lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo các tổ chức khác.

Các nỗ lực chế tạo, mua mới hoặc tiếp cận với các công nghệ tân tiến nhằm nâng cao các khả năng quân sự

Trung Quốc vừa dựa trên công nghệ nước ngoài, mua các thành phần quan trọng có thể sử dụng hai mục đích, đồng thời tập trung tự nghiên cứu và chế tạo để hiện đại hóa quân đội. Nước này tận dụng một mạng lưới lớn và có tổ chức tốt, gồm các doanh nghiệp, xưởng sản xuất vũ khí và các viện nghiên cứu, cùng các chiến dịch mạng máy vi tính để đơn giản hóa việc thu thập thông tin nhạy cảm và công nghệ kiểm soát xuất khẩu. Rất nhiều trong số này tạo thành các khu phức hợp công nghiệp quân sự, trong đó nghiên cứu nhằm mục đích dân sự và quân sự, đồng thời chế tạo vũ khí. Mạng lưới các công ty thương mại có liên hệ với chính phủ và các viện nghiên cứu này thường giúp PLA tiếp cận với các công nghệ hai mục đích và nhạy cảm, hoặc với các chuyên gia đầu ngành dưới dạng các nghiên cứu và phát triển vì mục đích dân sự. Các doanh nghiệp và viện nghiên cứu thực hiện việc này thông qua các cuộc hội thảo và hội nghị chuyên đề về công nghệ; các hợp đồng hợp pháp; các công ty liên doanh thương mại; đối tác với các công ty nước ngoài; và cùng phát triển các công nghệ đặc biệt.

Khả năng chiến tranh không gian và chiến tranh mạng

Trung Quốc đang mở rộng hệ thống vệ tinh thông tin, tình báo, do thám, dẫn đường của mình trong không gian. Đồng thời, nước này đang phát triển một chương trình đa chiều nhằm cải thiện khả năng của các vệ tinh này trong việc ngăn chặn hoặc hạn chế mọi đối thủ tiềm tàng sử dụng các loại máy móc trong không gian nếu xảy ra khủng hoảng hoặc xung đột. Chương trình thương mại trong không gian của Trung Quốc rất có lợi cho nghiên cứu phi quân sự, song cũng chứng tỏ khả năng phóng vệ tinh và kiểm soát không gian nhằm mục đích quân sự của nước này.

Bắc Kinh đã phóng một vệ tinh dẫn đường hôm 15/4/2009, và dự kiến vào năm 2015 – 2020 sẽ hình thành một mạng lưới đầy đủ nhằm cung cấp định vị toàn cầu cho người sử dụng là dân sự hay quân sự.

Trung Quốc đã phóng vệ tinh Giao Cảm-6 hôm 22/2/2009, seri thứ sáu trong các vệ tinh do thám trên quỹ đạo từ năm 2006.

Nga đã phóng một vệ tinh viễn thông thương mại (COMSAT) mang tên Asiasat-5 cho Trung Quốc vào ngày 11/9/2009. Bắc Kinh cũng phóng một COMSAT thương mại mang tên Palapa-D cho Indonesia vào ngày 31/8/2009.

Trung Quốc tiếp tục chế tạo và thử nghiệm tên lửa Trường Chinh V. Dự định mang lượng lớn đầu đạn vào không gian, dự kiến hơn gấp đôi số đầu đạn mà nước này đã mang vào không gian. Để hỗ trợ cho các tên lửa mới này, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng một cơ sở phóng vệ tinh gần Wenchang trên đảo Hải Nam từ năm 2008.

Năm 2009, nhiều hệ thống vi tính trên toàn thế giới, trong đó có của Chính phủ Mỹ, tiếp tục bị xâm nhập. Các vụ xâm nhập này dường như có nguồn gốc từ Trung Quốc, tập trung đánh cắp thông tin, trong đó có những thông tin phục vụ mục đích chiến lược hoặc quân sự. Cách tiếp cận cũng như các kỹ xảo để thực hiện các vụ xâm nhập này tương tự như các kỹ thuật cần thiết để tiến hành các vụ tấn công mạng vi tính. Hiện vẫn chưa rõ liệu các vụ xâm nhập này có phải do PLA hay các cơ quan nào khác của Chính phủ Trung Quốc tiến hành hay không. Tuy nhiên, các khả năng chiến tranh mạng ngày càng phát triển nói trên rất phù hợp với những văn bản quân sự chính thức của PLA.

Tháng 3/2009, các chuyên gia nghiên cứu Canada đã phát hiện một mạng tình báo điện tử, nhiều khả năng đặt căn cứ chính tại Trung Quốc, đã xâm nhập các cơ quan chính phủ của Ấn Độ và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Hơn 1.300 máy vi tính tại 103 quốc gia đã được nhận dạng.

Cam kết quân sự tại nước ngoài

Cam kết quân sự của Trung Quốc với các nước khác nhằm nâng cao sức mạnh quốc gia của Trung Quốc bằng việc cải thiện quan hệ đối ngoại, làm đẹp hình ảnh quốc tế của mình và giảm bớt lo ngại của các nước khác về sự nổi lên của Trung Quốc. Các hoạt động của PLA cũng được hỗ trợ quá trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc thông qua việc mua các hệ thống vũ khí tối tân, nâng cao kinh nghiệm chiến đấu cả trong và ngoài châu Á, và tiếp cận với thực tế điều hành quân sự nước ngoài, học thuyết chiến tranh, cũng như các phương pháp huấn luyện.

Trung Quốc tiếp tục tham gia chống hải tặc ở vịnh Aden, từ tháng 12/2008. Hải quân nước này vào tháng 12/2009 đã huy động lực lượng bốn lần, gồm ba tàu khu trục nhỏ và một tàu tiếp tế. Bên cạnh các chuyến thăm trong những dịp đặc biệt, đây là loạt huy động lực lượng chiến đấu đầu tiên của Hải quân Trung Quốc bên ngoài khu vực Tây Thái Bình Dương.

Bộ Quốc phòng hồi tháng 8/2009 đã khai trương một website chính thức bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh để nâng cao hình ảnh tích cực của quân đội Trung Quốc với thế giới. Trước đó hồi tháng 7, Bộ này thông báo rằng Trung Quốc sẽ mở rộng toàn diện các quan hệ quân sự với nước ngoài thông qua các sáng kiến như: duy trì cơ quan đại diện quân sự tại 109 quốc gia; cử phái đoàn quân sự thường niên gồm hơn 100 người ra nước ngoài và tiếp đón hơn 200 phái đoàn quân sự đến thăm; tiến hành các cuộc tham vấn chiến lược cấp cao và các trao đổi chuyên môn cũng như kỹ thuật quân sự; và tổ chức trao đổi nghiên cứu với nước ngoài ở cấp sĩ quan bậc trung.

Các cuộc diễn tập phối hợp

Sự tham gia của PLA trong các cuộc tập trận song phương và đa phương đang ngày càng gia tăng. PLA được hưởng lợi về chính trị thông qua việc tăng cường ảnh hưởng và nâng cấp quan hệ với các quốc gia và các tổ chức đối tác. Các cuộc tập trận như vậy cũng góp phần hiện đại hóa PLA bằng cách tạo nhiều cơ hội để nâng cao khả năng trong những lĩnh vực như chống khủng bố, các chiến dịch di động và hậu cần. PLA cũng tăng cường hiểu biết chiến đấu khi quan sát các chiến thuật, cách ra quyết định quân sự và các trang thiết bị được sử dụng trong các lực lượng vũ trang tân tiến hơn.

Hải quân PLA hồi tháng Ba đã tham gia các chiến dịch tìm kiếm và cứu hộ trong cuộc tập trận hải quân đa phương mang tên “AMAN 2009” do Pakistan đăng cai. Trung Quốc và Gabon cũng đã tiến hành cuộc tập trận y tế quân sự tại Gabon mang tên “Thiên thần Hòa bình 2009”. Đây là cuộc diễn tập đầu tiên kiểu này mà Trung Quốc tham gia.

Bên cạnh đó, Trung Quốc và Singapore cùng tiến hành tập trận “Hợp tác 2009” hồi tháng Sáu, giả định đáp trả một âm mưu tấn công khủng bố bằng vũ khí hạt nhân. Cuối tháng Bảy đầu tháng Tám, Trung Quốc và Mông Cổ đã tập trận huấn luyện chung mang tên “Nhiệm vụ gìn giữ hòa bình 2009”. Ngoài ra, cuộc tập trận chống khủng bố “Sứ mệnh hòa bình 2009” giữa Trung Quốc và Nga đã diễn ra tháng Bảy với sự tham gia của khoảng 1.300 binh lính PLA. Cuộc tập trận này nhằm vào một cuộc tấn công trên không giả định và các chiến dịch đặc biệt.

Từ năm 2002, Trung Quốc đóng góp ngày càng nhiều cho các hoạt động gìn giữ hòa bình do Liên hợp quốc tài trợ. Hiện, hơn 2.100 binh lính Trung Quốc đang phục vụ trong các phái bộ của LHQ, trong khi tổng số hơn 12.000 binh lính nước này đã được huy động tham gia 22 phái bộ của các tổ chức khác trên thế giới. Hiện Trung Quốc đang dẫn đầu trong năm thành viên thường trực HĐBA LHQ về số binh lính gìn giữ hòa bình. Sự đóng góp của Trung Quốc bao gồm các kỹ sư, hậu cần, quân y, cảnh sát và quan sát viên.

Tháng 3/2009, lực lượng gìn giữ hòa bình của Trung Quốc với các robot thăm dò và các công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được huy động tới biên giới Nam Lebanon để dò mìn. Giới lãnh đạo quân sự và dân sự của Trung Quốc xác định nhiệm vụ hỗ trợ nhân đạo và cứu hộ thiên tai (HA/DR) là lĩnh vực mà Trung Quốc sẽ hợp tác với các đối tác trong khu vực và trên thế giới.

Tháng 5/2009, HĐBA đã công bố sách trắng mang tên “Các hành động của Trung Quốc nhằm phòng tránh và giảm thiểu thiên tai”, trong đó kêu gọi tăng cường khả năng cứu hộ và cứu trợ khẩn cấp trong nước và ở nước ngoài, đồng thời thiết lập một hệ thống điều phối hiệu quả chống thảm họa. Cũng trong tháng này, tàu y tế lớp ANWEI nặng 10.000 tấn của Trung Quốc mang tên “Tàu Hòa bình”, đã thực hiện cuộc tập huấn đầu tiên. Đây cũng là lần đầu tiên con tàu chào đón các lực lượng hải quân nước ngoài.

  • Quốc Thái (lược dịch từ Báo cáo của Lầu Năm Góc về quân lực Trung Quốc)

Trung Quốc hăng hái cải tổ lực lượng vũ trang

Tác giả: Báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ

Tuần Việt Nam

>> Kỳ 1

Sự minh bạch trong các vấn đề an ninh và quân sự của Trung Quốc đã được cải thiện trong những năm gần đây, bao gồm việc công bố Sách Trắng Quốc phòng hai năm một lần và lập website chính thức của Bộ Quốc phòng hồi năm 2009.

Gần đây nhất, Sách trắng Quốc phòng năm 2008 đã tổng kết chính sách quốc phòng Trung Quốc là nâng cao sự thống nhất và an ninh quốc gia, đảm bảo các lợi ích phát triển đất nước; hoàn thành mục tiêu phát triển bền vững và hài hòa về mọi mặt của các lực lượng vũ trang và quốc phòng; nâng cao thành quả của các lực lượng vũ trang trong quá trình tin học hóa; thực thi chiến lược quân sự của nền quốc phòng tích cực; theo đuổi chiến lược tự vệ hạt nhân; và cổ vũ cho một môi trường an ninh hòa bình vì sự phát triển hòa bình của Trung Quốc.

Tuy nhiên, tài liệu này cần nói nhiều hơn về các đầu tư quân sự, chiến lược và các ý định dẫn tới các khoản đầu tư đó, cũng như các khả năng quân sự đang được phát triển.

Việc nghiên cứu các quan điểm của PLA về chiến lược vẫn là một ngành khoa học thiếu chính xác, song có thể đưa ra những nhận xét tổng quát về chiến lược Trung Quốc dựa trên truyền thống, mô hình lịch sử, các tuyên bố và văn bản chính thức, và dựa vào một số thực lực quân sự cũng như các sáng kiến ngoại giao của nước này.

Các ưu tiên chiến lược

Giới lãnh đạo Trung Quốc dường như đưa ra quyết định quốc gia dựa trên một loạt các ưu tiên chiến lược, bao gồm các quy định bất di bất dịch của Đảng Cộng sản (CCP), duy trì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, duy trì sự ổn định chính trị trong nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ, và đảm bảo quy chế một quốc gia của mình.

Chiến lược của Trung Quốc là chiến lược duy trì cân bằng các ưu tiên. Giới lãnh đạo nước này mô tả các thập kỷ đầu của thế kỷ 21 là “chiến lược cửa sổ cơ hội”, hàm ý rằng các điều kiện khu vực và quốc tế nhìn chung sẽ có lợi cho sự nổi lên của Trung Quốc để chế ngự khu vực và gây ảnh hưởng ra toàn cầu. Và họ  tìm cách kéo dài thời kỳ “cửa sổ cơ hội này” càng lâu càng tốt.

Giới chức nước này đã tái khẳng định và tiếp tục ủng hộ “cải cách và mở cửa”, chính sách được bắt đầu từ năm 1978 như nền tảng cơ bản cho chiến lược và chính sách tổng thể của Trung Quốc.

Tuy nhiên, có hai điểm chính dường như đang xuất hiện ngày càng rõ nét trong các tuyên bố và bình luận của giới lãnh đạo cấp cao nước này, cho thấy sự nhận thức ngày càng rõ rằng quá trình “cải cách và mở cửa” đang gây ra một số mâu thuẫn và thách thức:

Đầu tiên, cải cách đã đem đến cho Trung Quốc kinh nghiệm tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, lớn mạnh về chính trị và quân sự, song cũng đặt Bắc Kinh trước những thách thức mới đối với sự ổn định trong nước.

Thứ hai, các cuộc cải cách ngày càng đẩy Trung Quốc đến một môi trường an ninh toàn cầu, trong đó tình hình trong nước có thể sẽ không được “miễn dịch” khỏi các tác động của các sự kiện ở bên ngoài và ngược lại.

Sự nhận thức kép trên đã khiến giới lãnh đạo Trung Quốc đi đến kết luận rằng, đến năm 2020, họ sẽ tập trung quản lý hoặc tận dụng các căng thẳng bên ngoài, đặc biệt với các cường quốc, để duy trì một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Trung Quốc.

Tầm vóc kinh tế ngày càng lớn của Bắc Kinh có được một phần là nhờ một hình ảnh tích cực hơn với bên ngoài, trong đó họ đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các tranh chấp và thúc đẩy hợp tác khu vực.

Sách Trắng Quốc phòng 2008 của Trung Quốc viết: Trung Quốc đã trở thành một thành viên quan trọng trong hệ thống quốc tế, và tương lai cũng như vận mệnh của Trung Quốc ngày càng gắn liền với cộng đồng quốc tế. Trung Quốc không thể phát triển trong sự tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới, cũng như thế giới không thể tận hưởng thịnh vượng và ổn định nếu thiếu Trung Quốc. Nhưng lại có các lực lượng khác sẽ nhắm vào một mục tiêu tương đối hướng nội, hoặc sẽ chuyển hướng Trung Quốc khỏi con đường hòa bình. Đó là:

Chủ nghĩa dân tộc: Lãnh đạo CCP tiếp tục dựa trên chủ nghĩa dân tộc, các thành quả kinh tế và vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc trên trường quốc tế, để nâng cao uy tín, chuyển hướng dư luận. Song, cách tiếp cận như vậy hàm chứa nhiều nguy cơ. Các lực lượng này, một khi không được kiểm soát, sẽ dễ dàng quay lại chống nhà nước.

Kinh tế: Sự phát triển liên tục về kinh tế giúp duy trì nền tảng uy tín của Đảng và đảm bảo cho sức mạnh quân sự của Đảng. Nhưng sự gia tăng khôn lường của lượng cầu về tài nguyên, sự can kiệt tài nguyên toàn cầu hoặc giá leo thang, hay khó tiếp cận tới các nguồn tài nguyên… có thể ảnh hưởng tới quan điểm và hành động chiến lược của Trung Quốc, buộc lãnh đạo nước này xem xét lại các ưu tiên về tài nguyên cũng như ưu tiên quân sự.

Sức ép chính trị trong nước: Sự sống còn của chế độ và sự duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng quyết định quan điểm chiến lược của giới lãnh đạo Trung Quốc và định hướng các lực chọn của họ.

Sức ép dân số: Các vấn đề dân số sẽ gia tăng trong tương lai, gây ra những biến đổi về cấu trúc, làm ảnh hưởng tới khả năng duy trì mức tăng trưởng cao của Trung Quốc.

Môi trường: Sự phát triển kinh tế Trung Quốc đã đạt tới cái giá lớn về môi trường và giới lãnh đạo nước này lo ngại rằng các vấn đề này có thể hủy hoại uy tín của chế độ khi nó đe dọa sự phát triển kinh tế, sức khỏe cộng đồng, ổn định xã hội và hình ảnh quốc tế của Trung Quốc.

Sự năng động hai bờ eo biển Đài Loan: Dù căng thẳng đã giảm sau khi ông Mã Anh Cửu đắc cử vị trí đứng đầu chính quyền Đài Loan hồi tháng 3/2008, nhưng sự can thiệp quân sự của Mỹ và nguy cơ xảy ra một cuộc xung đột quân sự với Đài Loan vẫn là mối quan tâm quân sự dài hạn lớn nhất của PLA. Một cuộc xung đột tiềm ẩn giữa hai bờ eo biển này sẽ buộc Trung Quốc tiến hành hiện đại hóa quân sự cho tới khi nào Bắc Kinh còn nghĩ rằng mất Đài Loan vĩnh viễn có thể hủy hoại nghiêm trọng uy tín chính trị của chế độ.

Các mối quan ngại trong khu vực: Với việc Trung Quốc can dự vào nhiều “điểm nóng” thế giới (như Triều Tiên, quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa), quần đảo Senkaku, Afghanistan và Pakistan), lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tránh để sự bất ổn trong khu vực vượt qua biên giới của Trung Quốc và ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế hoặc ổn định trong nước của mình. Nhưng những thay đổi trong các động lực an ninh khu vực – như các mối đe dọa có thể nhận thấy về khả năng Trung Quốc tiếp cận và khai thác các nguồn tài nguyên nước ngoài, hoặc tình trạng xâu xé bán đảo Triều Tiên – có thể dẫn tới những thay đổi trong phát triển quân sự và mô hình quân đội Trung Quốc, không tránh khỏi các hậu quả dây chuyền với các nước láng giềng.

Chiến lược tương lai

Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc hồi tháng 7/2009 đã xác định “các lợi ích sống còn” của nước này là đảm bảo hệ thống cơ sở và an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, phát triển kinh tế – xã hội bền vững và ổn định. Chiến lược hiện nay của Trung Quốc vẫn là nhằm quản lý môi trường bên ngoài để đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế bên trong.

Tuy nhiên, đã xuất hiện nhiều bất đồng về quan điểm ngay trong nội bộ giới hàn lâm về việc làm thế nào Trung Quốc có thể hoàn thành các mục tiêu trên và làm tốt nhất trong khi không để xảy ra xung đột với các nước láng giềng hay với Mỹ.

Một số người ủng hộ cách quản lý truyền thống của cựu lãnh đạo có uy tín  của Trung Quốc hồi đầu những năm 1990 Đặng Tiểu Bình: “Bình tĩnh quan sát, giữ vững lập trường, bình tĩnh đối phó, che giấu khả năng và chờ cơ hội tốt; khiêm nhường và không bao giờ đòi xưng bá”.

Lời dạy này cho thấy quan điểm của ông Đặng là chính sách đối ngoại và chiến lược an ninh của Trung Quốc phải củng cố các lợi ích quốc gia cốt yếu là thúc đẩy phát triển trong nước bằng việc từ chối các tham vọng và tránh mọi ý định bá quyền, đồng thời bỏ ngoài tai những lời khuyến khích Trung Quốc đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, một số người khác cho rằng cách tiếp cận hạn chế này không còn giá trị khi quyền lực của Trung Quốc lớn mạnh. Họ cho rằng Trung Quốc nên hợp tác tích cực với các tác nhân trong khu vực và với Mỹ để gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc và đảm bảo với các nước láng giềng cũng như các nước lớn ở xa hơn rằng sự nổi lên của Trung Quốc không gây ra mối đe dọa bất ổn cho an ninh của họ.

Những người khác nữa lại cho rằng Trung Quốc cần quyết đoán và cứng rắn hơn nhằm bảo vệ các lợi ích của mình bằng việc chống lại các âm mưu cản đường của Mỹ hoặc tầm ảnh hưởng của Washington trong quan hệ với các tác nhân như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Qốc và các nước khác ở Đông Nam Á.

Một cuộc tranh cãi khác giữa các nhà lý luận quân sự và dân sự ở Trung Quốc là liệu PLA nên phát triển các khả năng mới nào để bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc, ngoài những cách truyền thống để bảo vệ Trung Quốc khỏi các cuộc tấn công hay các sức ép, để ngăn cản Đài Loan độc lập, cũng như bảo vệ những đòi hỏi của Trung Quốc đối với chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và nhiều nơi khác.

Chiến lược quân sự

Các nhà lý luận của PLA đã phát triển một nền tảng cải cách học thuyết với mục tiêu dài hạn là xây dựng một lực lượng có khả năng đấu tranh và chiến thắng “các cuộc chiến tranh cục bộ trong các điều kiện tin học hóa”. Dựa trên các kinh nghiệm quân sự của nước ngoài, như của Mỹ, Liên Xô và Nga, Trung Quốc đang thay đổi toàn bộ lực lượng vũ trang của mình.

Mức độ và quy mô của các cuộc cải cách này rất lớn và rộng. Tuy nhiên, PLA vẫn chưa thử nghiệm một cuộc tấn công hiện đại. Sự thiếu kinh nghiệm này khiến bên ngoài khó đánh giá đúng được quá trình biến đổi quân sự của Trung Quốc.

Chiến tranh trên biển: Sách trắng Quốc phòng năm 2008 mô tả Hải quân của PLA là một công cụ chiến lược, phát triển khả năng hoạt động tại “các vùng biển xa”. Hải quân PLA có ba nhiệm vụ chính: chống lại các cuộc tấn công trên biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia, và đảm bảo các quyền liên quan đến biển.

Học thuyết của Hải quân PLA về các chiến dịch trên biển tập trung vào sáu chiến dịch tấn công và phòng vệ: bao vây, các đường viễn thông ngoài khơi, tấn công biển – đất liền, chống tàu, bảo vệ giao thông biển và bảo vệ căn cứ hải quân.

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào gọi Trung Quốc là một “cường quốc biển” và chủ trương một “lực lượng hải quân nhân dân hùng mạnh” để “bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển” của Trung Quốc. Các lãnh đạo dân sự khác và các quan chức hải quân, cũng như các tài liệu của chính phủ và tập san của PLA đều cho rằng sức mạnh chính trị và kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc vào khả năng tiếp cận và sử dụng biển, và một lực lượng hải quân hùng mạnh cần phải bảo vệ khả năng này.

Dù ngày càng quan tâm hơn tới các nhiệm vụ biển xa, nhưng Hải quân Trung Quốc vẫn ưu tiên chuẩn bị cho các chiến dịch trong “chuỗi đảo đầu tiên và thứ hai” với trọng tâm là một cuộc xung đột tiềm ẩn với các lực lượng của Mỹ liên quan đến Đài Loan. Điều này sẽ vẫn còn đúng cho tới khi đạt được một nghị quyết về vấn đề Đài Loan mà Bắc Kinh chấp nhận được.

Chiến tranh trên mặt đất: Với chủ trương “quốc phòng năng động”, các lực lượng bộ binh được giao nhiệm vụ bảo vệ biên giới của Trung Quốc, đảm bảo sự ổn định trong nước và sự mở rộng quyền lực ra toàn khu vực. Lục quân của PLA đang chuyển đổi từ một lực lượng bảo vệ tĩnh trên 7 vùng quân sự nội địa, thành một lực lượng mang tính tấn công hơn, được tổ chức và trang bị cho các chiến dịch ở ngoại biên Trung Quốc.

Sách trắng Quốc phòng 2008 nói rằng các cuộc cải cách lục quân của Trung Quốc chủ yếu nhằm tạo ra các đơn vị “nhỏ và đa năng”, đồng thời tăng các khả năng tiến hành các “chiến dịch đất – không phối hợp, điều khiển từ xa, tấn công nhanh lẹ và các chiến dịch đặc biệt”. Các cuộc cải cách này dựa trên học thuyết của Nga và các chiến thuật quân sự của Mỹ. Từ tháng 8 – 9/2009, hơn 50.000 binh sĩ từ bốn khu vực quân sự riêng rẽ trên lãnh thổ Trung Quốc đã tham gia cuộc tập trận toàn quốc quy mô lớn đất tiên mang tên “Sải bước 2009”.

Chiến tranh trên không: Không quân Trung Quốc (PLAAF) đang chuyển đổi từ một lực lượng bảo vệ lãnh thổ giới hạn sang một lực lượng nhanh nhẹn và năng động hơn, có khả năng hoạt động ở vùng biển xa cả trong vai trò tấn công và phòng thủ, theo mô hình của các lực lượng không quân của Mỹ và Nga. Các khu vực tập trung bao gồm: đánh tấn công, bảo vệ vùng trời và tên lửa, cảnh báo sớm và do thám, chuyển động chiến lược.

PLAAF cũng có vai trò dẫn đầu trong chiến dịch “Chống không kích chung”. chiến dịch này mang bản chất phòng thủ chiến lược, nhưng lại ở cấp độ chiến thuật và chiến dịch, giới đến các cuộc tấn công vào các căn cứ và lực lượng hải quân của kẻ thù. Đây là bằng chứng cho thấy tính mập mờ giữa phòng thủ và tấn công trong học thuyết của PLA.

Chiến tranh trong không gian: Các chiến lược gia của PLA xem không gian là trung tâm để thực hiện cuộc chiến tranh tin học hóa hiện đại.

Tạp chí “Khoa học quân sự Trung Quốc” nói rằng chính trong không gian là nơi cuộc chiến tranh thời tin học sẽ đạt đến điểm cao nhất. Đặc biệt, các hệ thống thông tin, tình báo và định vị dẫn đường dựa vào không gian rất quan trọng để thiết lập và phối hợp các chiến dịch chung và chiến thắng cuộc chiến tranh hiện đại. Vì vậy, PLA đang xúc tiến mua công nghệ để cải thiện các khả năng trong không gian của mình.

Cùng lúc đó, Trung Quốc phát triển khả năng tấn công vào các tài sản (công cụ, máy móc hiện đại) của đối thủ trong không gian, thúc đẩy quân sự hóa không gian. Các tài liệu của PLA nhấn mạnh sự cần thiết của việc “phá hủy, làm hư hỏng và làm nhiễu các máy móc do thám của kẻ thù… và các vệ tinh thông tin”, hàm ý rằng các hệ thống kể trên, cũng như các vệ tinh dẫn đường và cảnh báo sớm, đều có thể trở thành mục tiêu tấn công để “chọc mù và đánh điếc kẻ thù”.

Chiến tranh điện tử mạng tích hợp: Các tài liệu của quân đội Trung Quốc nhấn mạnh việc nắm giữ ưu thế vượt trội về điện từ trong những pha đầu của một chiến dịch là nhiệm vụ đầu tiên cần làm để đảm bảo chiến thắng. Các nhà lý luận của PLA dùng cụm từ “chiến tranh điện tử mạng tích hợp” để chỉ việc sử dụng chiến tranh điện tử, các chiến dịch mạng máy vi tính và các cuộc tấn công động lực học nhằm phá hủy hệ thống thông tin chiến trường đang hỗ trợ cho các khả năng tấn công và chiến đấu của kẻ thù.

(Còn tiếp)

  • Quốc Thái dịch

Leave a comment