Con đường luyện tâm và dụng tâm – 10 bức tranh trâu

Chào các bạn,

Có lẽ các bạn đã từng nghe nói đến mười bức tranh Thập Mục Ngưu Đồ diễn bày tiến trình luyện tâm thế nào. Chúng ta có bài viết Thập Mục Ngưu Đồ từ wikipida dưới đây.

Mười bức tranh này là tinh hoa của Thiền tông, nói về luyện tâm và dụng tâm. Và trong tiến trình tu luyện tư duy tích cực, chúng ta cũng theo một nguyên tắc căn bản.

Tựu trung là luyện tâm có 2 thời kỳ chính:

1. Tìm thanh lặng để luyện tập tâm cho tĩnh lặng

Tiến trình này đòi hỏi ta phải có tĩnh lặng bên ngoài để tu tập tĩnh lặng bên trong, như người mang trâu lên núi tìm nơi vắng vẻ dạy trâu. Tức là ta cần nhiều thời gian tu tập thanh vắng một mình—đọc sách, đọc kinh, thiền, nghe nhạc nhẹ, cầu nguyện…

Tránh đám đông và các chuyện rộn ràng. Tức là đừng chạy theo thị hiếu đám đông. Cũng đừng nhúng vào các chuyện rộn ràng, ồn ào, phức tạp. Tránh các vấn đề nhiều mâu thuẫn, bực dọc, cãi cọ. Khi công lực ta còn yếu, đám đông và các vấn đề phức tạp thường làm tâm ta chao đảo và dễ sinh ra sân hận, hiềm khích, đố kỵ, hận thù, kiêu căng… Nói chung là tiêu cực. Chỉ nên nhúng tay vào các chuyện nhiều hòa ái, dịu dàng.

Đây là thời gian giống như “tu chùa.” Ta cần vắng vẻ, tĩnh lặng, suy niệm để tập tâm cho thuần.

Tâm ta sẽ thuần từ từ: Đến lúc ta có thể điều khiển và an lòng về tâm ta, như là trâu đã được huấn luyện thuần thục. Thuần thục từ mức ta có thể để trâu tự do một mình, hay cưỡi trâu mà đi, cho đến lúc tâm ta (trâu) và ta trở thành một, chẳng còn riêng rẽ, chẳng còn gì để kiểm soát và điều khiển. Đó là mức rất thuần thục.

2. Trở về với chợ búa

Lúc ta đã có sức mạnh nội tâm vững mạnh, thuần thục, đó là lúc ta có thể sống chung, sống mạnh, với cuộc đời chung quanh, với chợ búa xô bồ ồn ào, mà tâm vẫn tĩnh lặng.

Lúc đó là lúc ta thực sự “sống vào đời”. Sống gần phường trộm cắp mà tâm vẫn tĩnh lặng. Sống với những vấn đề khổ đau bức xức của xã hội mà tâm vẫn không bị đảo chao.

Lúc đó là lúc ta có thể cảm hóa người trộm cắp vô minh, và nhúng tay vào các bất công tha hóa của xã hội quanh ta, để giúp người nghèo khổ, cô thế, lạc loài, chống bất công, xây dựng tình yêu và công lý.

Những vấn đề xã hội lớn quanh ta, như là những đống rác khổng lồ. Nếu ta lao vào khi tâm ta chưa đủ nội lực, ta thường trở thành phẫn nộ điên khùng như đám đông, và thường là chính ta đi lạc đường trong tiến trình “giải quyết” các đống rác đó.

Nhưng khi tâm ta đã đủ nội lực, ta có nhiệm vụ đối diện những đống rác tiêu cực quanh ta và tìm cách giải quyết, vì tư duy tích cực có nghĩa là giảm bớt và xóa bỏ tiêu cực. Và ta sẽ có đủ tĩnh lặng và thông thái, để điềm tĩnh nhìn đống rác, phân tích vấn đề, tìm ra giải pháp, xắn tay áo vào việc, và kêu gọi chỉ bảo mọi người khác vào cùng.

Thiền sư khi chưa đủ nội lực thường vào chùa tránh đời để tu tập. Khi đã đủ nội lực lại lang thang đường phố để mang lại ánh sáng cho đời. Đó cũng chính là kiểu mẫu cho con đường tư duy tích cực của mỗi chúng ta.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành


Thập Mục Ngưu Đồ

Các bức tranh chăn trâu được sáng tạo trong thời nhà Tống (9601279) và ngay từ đầu đã được xem như những bức hoạ tiêu biểu, trình bày tinh hoa, cốt tuỷ của Thiền Trung Quốc. Có nhiều bộ tranh – có thuyết nói là bốn, thuyết khác nói là 5, 6 chăn trâu khác nhau – nhưng có lẽ nổi danh nhất và cũng bao hàm ý nghĩa nhiều nhất là bộ với mười bức tranh của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn (zh. kuòān shīyuǎn 廓庵師遠, ja. kakuan shion, ~1150), được lưu lại trong bản sao của hoạ sĩ người Nhật tên Châu Văn (周文, ja. shūbun, ?-1460).

Một bộ khác với sáu bức tranh cũng thường được nhắc đến. Ban đầu, Thiền sư Thanh Cư (zh. qīngjū 清居, ja. seikyo) chỉ vẽ có năm bức nhưng sau, Thiền sư Tự Đắc (zh. zìdé 自得, ja. jitoku, tk. 12) vẽ thêm bức tranh thứ sáu. Trong bộ này, con trâu dần dần trắng ra và cuối cùng thì trắng hoàn toàn, một biểu tượng cho chân tâm thanh tịnh, vô cấu.

Mười bức tranh sau được xem là của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn. Những bức tranh này cũng được chú thích rất rõ, rất hay trong Thiền luận của Daisetz Teitaro Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên và Thích Tuệ Sỹ. Bài tụng của Thiền sư Khuếch Am được Thích Thanh Từ dịch.

Thập mục ngưu đồ

[ 1 ] Tìm trâu

尋牛

① 尋牛
茫茫撥草去追尋。
水闊山遙路更深。
力盡神疲無處覓。
但聞風樹晩蟬吟。
Tầm ngưu
Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thuỷ khoát sơn dao lộ cánh thâm
Lực tận thần bì vô xứ mịch
Đãn văn phong thụ vãn thiền ngâm
Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu
Núi thẳm đường xa nước lại sâu
Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy
Chỉ nghe réo rắt giọng ve sầu.

[ 2 ] Thấy dấu

見跡

② 見跡
水邊林下跡偏多。
芳草離披見也麼。
縱是深山更深處。
遼天鼻孔怎藏他。
Kiến tích
Thuỷ biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dã ma
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
Liêu thiên tị khổng chẩm tàng tha
Ven rừng bến nước dấu liên hồi
Vạch cỏ ruồng cây thấy được thôi
Ví phải non sâu lại sâu thẳm
Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi.

[ 3 ] Thấy trâu

見牛

③ 見牛
黄鶯枝上一聲聲。
日暖風和岸柳青。
只此更無廻避處。
森森頭角畫難成。
Kiến ngưu
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
Nhật noãn phong hoà ngạn liễu thanh
Chỉ thử cánh vô hồi tị xứ
Sâm sâm đầu giác hoạch nan thành
Hoàng anh cất tiếng hót trên cành
Nắng ấm gió hoà bờ liễu xanh
Chỉ thế không nơi xoay trở lại
Đầu sừng rành rõ vẽ khôn thành

[ 4 ] Bắt trâu

得牛

④ 得牛
竭盡神通獲得渠,
心强力壯卒難除。
有時才到高原上,
又入煙雲深處居。
Đắc ngưu
Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư
Dùng hết thần công bắt được y
Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghì
Có khi vừa hướng cao nguyên tiến
Lại xuống khói mây mãi nằm ì

[ 5 ] Chăn trâu

牧牛

⑤ 牧牛
鞭索時時不離身。
恐伊縱歩惹埃塵。
相將牧得純和也。
羈鎖無拘自逐人。
Mục ngưu
Tiên sách thời thời bất li thân
Khủng y túng bộ nhạ ai trần
Tướng tương mục đắc thuần hoà dã
Ki toả vô câu tự trục nhân
Nắm chặt dây roi chẳng lìa thân
Ngại y chạy sổng vào bụi trần
Chăm chăm chăn dữ thuần hoà dã
Dây mũi buông rồi vẫn theo gần

[ 6 ] Cưỡi trâu về nhà

騎牛歸家

⑥ 騎牛歸家
騎牛沫汁欲還家。
霞笛聲聲送晩霞。
一拍一歌無限意。
知音何必鼓唇牙。
Kị ngưu quy gia
Kị ngưu mạt trấp dục hoàn gia
Hà địch thanh thanh tống vãn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
Tri âm hà tất cổ thần nha
Cưỡi trâu thong thả trở về nhà
Tiếng sáo vi vu tiễn vãn hà
Một nhịp một ca vô hạn ý
Tri âm nào phải động môi à

[ 7 ] Quên trâu còn người

忘牛存人

⑦ 忘牛存人
騎牛已得到家山。
牛也空兮人也閑。
紅日三竿猶作夢。
鞭繩空頓草堂間。
Vong ngưu tồn nhân
Kị ngưu dĩ đắc đáo gia san
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng không đốn thảo đường gian
Cưỡi trâu về thẳng đến gia san
Trâu đã không rồi người cũng nhàn
Mặt nhật ba sào vẫn say mộng
Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng

[ 8 ] Người, trâu đều quên

人牛俱忘

⑧ 人牛俱忘
鞭索人牛盡屬空。
碧天遼闊信難通。
紅爐焰上爭容雪。
到此方能合祖宗。
Nhân ngưu câu vong
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu khoát tín nan thông
Hồng lô diễm thượng tranh dung tuyết
Đáo thử phương năng hợp tổ tông
Roi gậy, người trâu thảy đều không
Trời xanh thăm thẳm tin chẳng thông
Lò hồng rừng rực nào dung tuyết
Đến đó mới hay hiệp Tổ Tông

[ 9 ] Trở về nguồn cội

返本還源

⑨ 返本還源
返本還源已費功,
爭如直下若盲聾。
庵中不見庵前物,
水自茫茫花自紅。
Phản bản hoàn nguyên
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
Tranh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thuỷ tự mang mang hoa tự hồng
Phản bản hoàn nguyên đã phí công
Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm
Trong am chẳng thấy ngoài vật khác
Nước tự mênh mông hoa tự hồng

[ 10 ] Thõng tay vào chợ

入廛垂手

⑩ 入廛垂手
露胸跣足入鄽來,
抹土涂灰笑滿腮。
不用神仙真秘訣,
直教枯木放花開。
Nhập triền thuỳ thủ
Lộ hung tiển túc nhập triền lai
Mạt thổ đồ khôi tiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai
Chân trần bày ngực thẳng vào thành
Tô đất trét bùn nụ cười thanh
Bí quyết thần tiên đâu cần đến
Cây khô cũng khiến nở hoa lành

Lúc còn trụ tại Quy Sơn, Thiền sư Trường Khánh Đại An dạy chúng: “… Sở dĩ, Đại An này ở tại Quy Sơn ba mươi năm, ăn cơm Quy Sơn, đại tiện Quy Sơn mà không học thiền Quy Sơn, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập điều phục nó… Bây giờ nó đã trở thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi…”.

Mã Tổ hỏi đệ tử mình là Thạch Củng Huệ Tạng: “Làm việc gì?” Thạch Củng thưa: “Chăn trâu.” Tổ hỏi: “Làm sao chăn?” Thạch Củng đáp: “Một khi vào cỏ thì nắm mũi kéo lại.” Tổ nghe bảo: “Con thật là khéo chăn trâu.”

Một suy nghĩ 7 thoughts on “Con đường luyện tâm và dụng tâm – 10 bức tranh trâu”

  1. Hi anh Hoành,

    Thập mục ngưu đồ thật là hay. Tuy nhiên, một số chỗ em vẫn chưa hiểu cho lắm. Chẳng hạn ở bức “Người và trâu đều quên”, em xem tới đó cứ nghĩ là “trí tuệ Bát Nhã” viên mãn rồi (tất cả đều Không), hóa ra không phải :(.

    Anh Hoành có thể viết một bài chú thích rõ hơn được không ạ?

    Em cảm ơn anh.

    Thích

  2. Hi Tùng,

    “Người và trâu đều quên” là khi mình không còn nghĩ đến cái “tôi” nữa. Dĩ nhiên không còn “tôi” tức là không còn cả tôi lẫn tâm tôi (vì tâm tôi là tôi).

    Đó là lúc bố thí mà không nghĩ đến lợi lộc ơn phước đức hạnh gì cho mình. Tu tập mà không nghĩ gì đến đạt đạo. Trì kinh mà không nghĩ gì đến thành Phật.

    Tất cả những điều này đều đã được nói đến trong Kinh Kim Cang–Bồ tát không chấp vào bất cứ gì.

    Muốn gọi đây là trí tuệ Bát Nhã viên mãn hay gì đó thì cũng được (Anh không thích dùng từ “Trí Tuệ” vì nó có thể làm cho người ta hiểu lầm chỉ là một tình trạng siêu việt của hiểu biết tư tưởng). Nói là “sống” không còn chấp vào mình, vào tâm mình, hay vào gì hết thì rõ ràng và dễ hiểu hơn.

    Em khỏe nhé.

    Đã thích bởi 1 người

  3. Hi anh,
    em cảm ơn anh về bài viết, nó thật là thú vị. Có chỗ này em không hiểu rõ, muốn hỏi lại anh một chút được không ạ.

    Mình tìm thấy trâu, xong rồi lại quên trâu đi, và quên cả mình nữa. Và khi đến lúc “Thõng tay vào chợ” thì hoàn toàn không nhắc gì đến trâu nữa, chỉ “chân trần” đi thẳng vào thành. Lúc ra đi cũng chỉ một mình với túi ruột tượng, lúc trở về cũng chỉ có thế.

    Vậy phải vất vả mất thời gian tìm con trâu để làm gì ạ. Con trâu ở đây đóng vai trò gì. Mình có thể bỏ qua bước tìm trâu không, và nếu tìm không được trâu thì có tiếp tục cách khác được không ạ.

    Thích

  4. Hi Hoàng Vũ,

    Đại khái ta có thể giải thích như thế này:

    1. Lên núi, tức là tìm nơi thinh lặng, để luyện trâu, tức luyện tâm. Có vài phiên bản 10 Bức Tranh Trâu, thi khi mình đã luyện trâu thuần thục rồi thì, trâu đen trở thành trâu trắng–tâm si mê trở thanh tâm thanh tịnh.

    2. Bắt đầu về nhà:

    * Mất trâu chỉ còn ta với trăng. Trăng thường là biểu tượng của giác ngộ. Người giác ngộ không còn biết đến cái “tâm” của riêng mình nữa, vì tâm đã hoàn toàn không phân biệt–mình và mọi người mọi sự mọi vật chung quanh chỉ là một, yêu mọi người như yêu chính mình, yêu mọi vật mọi vật như yêu chính mình. Đây là tiến trình của 3 bức tranh số 7, 8,và 9.

    * Thỏng tay vào chợ: Lúc đó mới ung thong thả vào chợ, sống với mọi người như mọi người, nhưng đương nhiên với tâm không còn vướng mắc gì hết nữa rồi (kể cả vướng mắc vào chính nó hay vào chủ của nó tức là chính mình).

    Thiền Tông Nhật Bản rất tích cực vào đời, không khuyến khích người ta lánh đời tí nào, cùng lắm là lánh một lúc để luyện tập thôi. Nhưng đó là một nhập thế rất thoải mái và hòa bình, đặt nền tảng trên tâm không phân biệt của thánh nhân.

    Tiến trình tìm thấy tâm mình, luyện tâm, rồi quên cả tâm mình lẫn mình, là tiến trình bắt buộc, không có cách khác, dù là tiến trình đó kéo dài 50 năm hay 5 phút (tùy người có căn cơ đến đâu).

    Và tiến trình thì vậy, nhưng diễn ra cách nào thì tùy từng trường hợp–người tu chơ thì đương nhiên là tiến trình ở thành phố cam go hơn và khác hơn tiến trình tu núi.

    Hoàng Vũ khỏe nhé.

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s