Hai vợ chồng rất nghèo, sống bằng nghề bắt cá trên sông, nhưng dùng cả đời mình vào việc cứu người hoạn nạn trên giòng nước. Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Thực là công đức vô lượng, vô biên!
Daily Archives: February 16, 2009
Được và không được
“Đừng để cái mình làm không được can thiệp vào cái mình làm được.”
TDH dịch
“Don’t let what you cannot do interfere with what you can do.”
John Wooden
Xắn tay áo
Chào các bạn,
Từ hồi còn bé ta được bố mẹ bảo học hành để lớn lên làm việc này, việc nọ. Trong trí óc trẻ thơ, cuộc đời chia thành hai phần rõ rệt: nhỏ đi học, lớn làm việc. Khi không còn bé nữa, tiếc thay, ta lại quá quen với công thức suy tư “hai thời” như vậy, và nhiều người trong chúng ta hầu như không bao giờ thoát ra khỏi vòng kềm kẹp của công thức—đối với nhiều vấn đề trong cuộc sống, ta luôn luôn ngồi học, và không bao giờ thấy mình đủ kiến thức để làm. Continue reading Xắn tay áo
Valentine mỗi ngày
Ai bảo là các lão gia sư thì hết romantic? Ai bảo là các đại cao thủ võ lâm thì không lãng mạn?
Đọc ở đây về Thiên Hạ Đệ Nhất Tình Tử Nguyễn Hữu Huy của đại phái Judo Việt Nam .
Tay, óc và tim
“Người làm việc với bàn tay là người lao động; người làm việc với bàn tay và đầu óc là một nghệ nhân; người làm việc với bàn tay, đầu óc và quả tim là một nghệ sĩ.”
TDH dịch
“A man who works with his hands is a laborer; a man who works with his hands and his brain is a craftsman; but a man who works with his hands and his brain and his heart is an artist.”
Louis Nizer
Ngôn ngữ của thân thể
Chào các bạn,
Chúng ta nói với nhau đâu phải chỉ bằng lời nói, mà còn bằng ngôn ngữ của thân thể. Vì vậy mà chàng chỉ lướt ngang và nhìn nàng trong 2 giây đồng hồ là nàng đã biết ngay là chàng muốn làm quen. Và chàng mới gật đầu chào thì đã biết ngay là nàng đang xi-nhan: “Xin lỗi, tôi đang đợi anh ấy.” Ngôn ngữ của thân thể là body language. Ngày trước, các diễn viên, điều tra viên, doanh nhân, luật sư và chính trị gia đều học. Ngày nay môn học này rất phổ biến, và hầu như tất cả mọi người đều học.
Nhưng dù là chưa vào lớp nào thì bạn cũng đã biết kha khá rồi. Ai trong chúng ta cũng đã “học ăn học nói học đi học đứng” từ hồi nhỏ và cũng biết nhận xét người khác qua tướng mạo và phong cách bên ngoài. Học là để giỏi thêm thôi. Điều khác biệt quan trọng giữa lời nói và body language là lời nói được điều khiển bởi ý thức (trừ khi bị ma men hành :-)), còn body language thì do tiềm thức điều khiển nhiều hơn. Vì vậy, body language thường đáng tin hơn là lời nói. Ví dụ, chàng nói “Anh thề là anh chẳng có ai khác ngoài em,” nhưng nếu ánh mắt chàng tự nhiên đảo đi một ít, hoặc là nếu chàng chớp mắt hơi nhiều một tí, có thể đó là chàng đang nói dối. Hoặc là chàng đang cố tươi cười thân thiện, nhưng lại tựa người ra sau và khoanh tay, có thể là chàng đang trong trạng thái phòng thủ.
Tất cả các bộ phận trong cơ thể ta đều có thể nói ra điều gì đó, từ cách ngồi, cách đứng, động tác của bàn tay, của các ngón tay, ánh mắt, mi mắt, môi, mặt, v.v… Chúng ta cần phải học body language vì:
1. Ta không muốn vô tình để body language nói những điều ta không muốn nói. Ví dụ, bắt tay quá lõng lẻo trong khi mắt lại không nhìn thẳng mặt người mình đang bắt tay, có nghĩa là “tôi chẳng cần quan tâm đến anh.” Thế thì công lao tốn nước bọt cả một tiếng đồng hồ trước đó để trình bày dự án coi như là đổ sông đổ biển.
2. Ta muốn đọc được ý thật của người đối diện: Khi body language và lời nói của người đối diện không ăn khớp với nhau, nhất định là ta phải xét lại lời nói của họ. Và rất có thể là body language của họ đáng tin hơn.

Các bạn có thể tìm các websites về body language dễ dàng trên Internet. (Bạn nào biết được sites nào, xin vui lòng giới thiệu, bằng cách post vào comment). Trong bài này, chúng ta không đi vào chi tiết kỹ thuật của body language mà chỉ nhắc đến một vài điểm cốt cán cần lưu tâm:
1. Body language là một loại ngôn ngữ ta bắt buôc phải thông thạo, cũng như học nói bằng lời hay học viết. Không thể làm việc hiệu quả nếu ta không biết cách ăn nói.
2. Mỗi người có một cách nói chuyện khác nhau; mỗi người cũng có cách dùng body language khác nhau. Dù rằng ngôn ngữ thì chung, nhưng cách dùng thì đương nhiên là mỗi người có cung cách riêng phù hợp với mình. Cứ máy móc làm theo sách, thì có thể là như mấy cô cậu học trò đọc theo tuồng cải lương để viết thư cho người yêu. (Nhưng lúc đầu thì cứ phải theo bài tập, cho đến lúc thuần thục).
3. Ngôn ngữ chỉ học được bằng thực hành, cho nên bạn chỉ thuần thục được body language khi phải giao tiếp nhiều. Vì vậy, nếu không tiếp xúc thường xuyên với người lạ, thì nên cố gắng tham dự các hoạt động xã hội để mình có cơ hội giao tiếp với mọi người.
4. Body language có rất nhiều điểm chung giữa các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau. Ví dụ: Người sợ thì mặt hơi tái hơn, mắt có thể mở to hơn hoặc quay đi hướng khác. (Vì vậy, người không biết ngoại ngữ vẫn có thể nói chuyện với tây bằng cách “múa võ”!) Tuy nhiên, mỗi nền văn hóa cũng có một số body language đặc thù, không giống các nền văn hóa khác. Ví dụ, người Mỹ khi nói chuyện thì nhìn thẳng vào mặt nhau, kiểu như người Việt đang thách thức đánh nhau. Nếu nói mà nhìn xuống như kiểu người Việt, thì đó là nói dối theo kiểu Mỹ. Vì vậy, khi tiếp xúc với người từ một nền văn hóa khác, ta phải biết body language của họ.
5. Khi nói chuyện với người nước ngoài, đương nhiên ta phải dùng body language của họ, nếu ta không muốn họ hiểu lầm ta. Tuy nhiên, ta vẫn có thể dùng body language của ta, nếu body language đó dễ hiểu với người nước ngoài, và nếu ta có thể dùng nó rất hay. Ví dụ: Người tây phương thường bắt tay bằng một bàn tay. Người đông phương có thể bắt tay bằng cả hai bàn tay. Nếu vụng về thì hai tay có thể thấy khúm núm, mất tự tin. Nhưng nếu biết làm, thì bắt tay bằng hai tay có thể đưa ra một thái độ tự tin nhưng rất dịu dàng, ấm áp và khiêm tốn. Điều này thì hầu như không có cách nào ở tây phương có thể sánh được.
6. Dù là ngôn ngữ nào đi nữa, thì sức mạnh của ngôn ngữ–cả lời nói lẫn ngôn ngữ của thân thể–luôn luôn nằm trong lòng tin và sự thật. Nếu bạn nói dối, thì bạn chẳng tin vào lời bạn nói; vì vậy, “lời” bạn nói không thể có sức mạnh thuyết phục.
Đối với những người chú trọng về tư duy tích cực như chúng ta, có vài điểm trong tương quan giữa body language và tư duy tích cực ta cần phải lưu tâm.
1. Cá tính tiêu cực hay tích cực bên trong của ta luôn luôn biểu lộ qua lời nói và body language bên ngoài. Ví dụ: Người tiêu cực thường có dáng đi khép kín, rút vai, rút lưng, và nói thì hay nói phủ định (“không”) và dùng các từ tiêu cực (“chán, ghét, xấu, v.v…”). Người tích cực thường có dáng đi mở rộng hơn, lưng thẳng hơn, vai rộng hơn, tay đong đưa hơn, và khi nói thì hay dùng thể xác định và dùng các từ tích cực (“đẹp, tốt, hay, giỏi, v.v…”).
2. Ngược lại, lời ăn tiếng nói và cử chỉ bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng đến tâm tính của ta bên trong. Ta có thể làm cho mình thêm tính tích cực bằng cách “nói” những câu tích cực (Nói với người khác, và nói thầm với chính mình. Điều này ta đã nói đến trong bài “Sức mạnh của tư tưởng”). Và ở đây, “nói” còn có thêm nghĩa “nói bằng body language.” Ví dụ, nếu ta lựa chọn một dáng đi tích cực thích hơp với mình nhất, và cứ đi theo dáng đó hằng ngày, thì tâm tính tiêu cực của ta cũng nhờ đó mà từ từ biến thành tích cực.
Và đây là điều cuối cùng, quan trọng nhất: Cả thân thể ta có khoảng 600 bắp thịt. Nếu trong khi nói chuyện với ai mà ta phải chú ý điều khiển 600 bắp thịt để chúng có thể làm đúng ý ta muốn thì nhất định là ta không thể nói chuyện gì với ai được. Vì vậy, học là để biết, nhưng khi thực hành thì phải thông minh hơn một tí. Ta biết rằng thân thể ta thường “nói” tự nhiên, do tiềm thức điều khiển. Vậy thì hãy để tiềm thức điều khiển ngôn ngữ của thân thể. Trước khi nói chuyện với ai, ta hãy chắc chắn là trong lòng ta thích thú nói chuyện với người đó, ta có thiện cảm với họ, ta sẽ thành thật trong khi nói chuyện, ta sẽ xem họ như là bạn tốt của ta. Nếu ta đã tâm niệm như vậy trước khi vào cuộc, thì trong khi nói chuyện, thân thể ta sẽ tự động nói ra điều đó, mà ta không cần phải điều khiển bằng ý thức. Vì vậy, nhiều nhà ngoại giao lớn trên thế giới ngồi tĩnh tâm rất lâu trước khi vào phòng họp cho các cuộc họp quan trọng.
Tức là, dùng tâm để làm chủ hành động của mình. Điều này hoàn toàn không xa lạ gì với các nghệ sĩ bậc thầy. Ca sĩ chẳng hạn. Ca sĩ nào cũng đã học kỹ thuật ca hát rất kỹ. Tuy nhiên, người ca sĩ chỉ có thể đưa bài hát lên đến mức tuyệt đỉnh nếu cô ta thực sự cảm nhận mạnh mẽ, tận đáy sâu của quả tim, từng lời nhạc, từng nốt nhạc, trong khi hát. Nếu không, thì nghe cứ như là thợ hát.
Ở đây có một khái niệm rất căn bản trong đời sống mà chúng ta cần ghi nhớ, vì nó sẽ chi phối tất cả mọi sinh hoạt sống của ta: “Tất cả mọi điều ta làm ở bên ngoài đều phải được điều khiển từ trong tâm, thì mới có sức mạnh.” Nếu ta chỉ làm việc theo công thức và dùng suy nghĩ hời hợt bên ngoài để điều khiển, ví như một người bán hàng không thật tình, cứ tìm đủ mọi thủ thuật để thuyết phục người ta mua hàng, thì kết quả chỉ như học trò mới học đàn. Tuy nhiên, nếu ta cứ tự nhiên phục vụ người khách tận tình như là một người bạn tốt mà không cần biết họ sẽ mua hay không, thì có lẽ là mọi người sẽ đến mua nhiều hơn. Trong đời sống, chúng ta học rất nhiều kỹ thuật—nói chuyện, quản lý, tiếp thị, v.v… Tuy nhiên, khi thực hành ta không thể thực hành kỹ thuật mà phải thực hành nghệ thuật. Mà nghệ thuật thì phải đi từ tâm đi ra.
Trước khi chấm dứt mình xin hỏi các bạn một câu: Body language dịch ra là “ngôn ngữ của thân thể” thì lòng thòng quá. “Ngôn ngữ thân thể” thì vẫn lòng thòng, mà thỉnh thoảng còn làm vài câu văn thành tối nghĩa. “Thân ngữ” có được không? Xin các bạn cho ý kiến. Cám ơn các bạn rất nhiều.
Chúc các bạn một ngày vui vẻ.
Mến,
Hoành
© copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use